Xét vềmức độ ủng hộvà cam kết cấp độtham gia: Có thể dễdàng
nhận thấy là tất cảcác nước thành viên GMS đều ủng hộmạnh mẽvà tích
cực tham gia thực hiện sáng kiến hợp tác kinh tếTiểu vùng Sông Mê
Công Mởrộng ngay từkhi sáng kiến hợp tác này được hình thành.
- Xét vềtính sẵn sàng tham gia: Các nước thành viên GMS luôn tỏra
tích cực và sẵn sàng tham gia tất cảcác hoạt động hợp tác kinh tếGMS,
từkhâu xác định ý tưởng hợp tác, đến khâu chuẩn bịvà triển khai thực
hiện các hoạt động hợp tác.
- Xét vềquy mô tham gia: Các nước thành viên đã chuẩn bị được một
chương trình hợp tác đồsộgồm hàng trăm dựán, chương trình hợp tác ưu
tiên trên 9 lĩnh vực hợp tác kinh tếtiểu vùng là giao thông, năng lượng,
bưu chính viễn thông, thương mại, đầu tư, du lịch, môi trường, phát triển
nguồn nhân lực và nông nghiệp.
- Xét vềtính chủ động tham gia: Các nước thành viên GMS rất chủ
động tham gia các hoạt động hợp tác kinh tếGMS. Các nước thành viên
GMS tham gia sáng kiến hợp tác này không vì một sức ép nào mà hoàn
toàn tựnguyện vì lợi ích của từng quốc gia thành viên và vì lợi ích của cả
GMS.
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2156 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở rộng hiện trạng, định hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mức các quốc gia
nghèo; cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội kém phát triển; thiếu vốn, công nghệ
và kinh nghiệm quản lý hiện đại, thiếu cán bộ được đào tạo tốt; thị trường
rộng lớn, tiềm năng phát triển cũng nhiều; và bảo vệ môi trường là yêu
cầu chung của các quốc gia Tiểu vùng.
1.3.2. Quan điểm của các nước thành viên về hợp tác kinh tế tiểu
vùng Mê Công mở rộng: Quan điểm của các nước trong GMS là ủng hộ
sáng kiến hợp tác kinh tế GMS do ADB đề xuất vì nhận thấy sáng kiến
hợp tác này phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra
hiện nay. Hợp tác kinh tế GMS giúp các nước GMS phát huy được các
thành quả của các sáng kiến hợp tác khác, nâng cấp và phát triển mới cơ
sở hạ tầng kinh tế, lấp được chỗ trống mà các sáng kiến hợp tác khác chưa
đề cập đến. Do đó hợp tác kinh tế GMS sẽ ngày càng phát triển và chắc
chắn sẽ mang lại thành quả to lớn cho các nước GMS trong tương lai.
1.3.3. Quan điểm của tác giả nghiên cứu: Hợp tác trong lưu vực Mê
Công thực chất đã được bắt đầu từ năm 1957, với sáng kiến đầu tiên là
“Uỷ ban Mê Công”, lĩnh vực hợp tác tập trung vào lĩnh vực môi trường
và quản lý nguồn nước. Hợp tác kinh tế GMS diễn ra trong lãnh thổ của 5
nước (Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam) và hai tỉnh là tỉnh
Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc) nằm dọc theo dòng sông Mê
Công. Lĩnh vực hợp tác tập trung vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi
trường. Tuy tỉnh Quảng Tây không trực tiếp tiếp giáp với dòng sông Mê
Công song có nhiều điểm tương đồng về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội,
tiếp giáp trực tiếp với Vân Nam và Việt Nam, nên việc GMS mở rộng để
kết nạp thêm tỉnh Quảng Tây là hợp lý. Do khu vực hợp tác được mở
rộng, lĩnh vực hợp tác được mở rộng, sáng kiến hợp tác này phù hợp với
tên gọi là “Hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mê công Mở rộng”.
1.3.4. Cách tiếp cận của Hợp tác kinh tế GMS. Hợp tác kinh tế GMS
có cách tiếp cận khá năng động, hợp tác theo cơ chế tự nguyện. Các lĩnh
vực hợp tác thực hiện theo cơ chế 2+, tức là có thể bắt đầu các hoạt động
hợp tác từ sự nhất trí hợp tác giữa 2 nước trở lên. Các nước khác có thể
tham gia dự án hoặc chương trình hợp tác khi có nhu cầu và thông qua
thoả thuận giữa các nước thành viên.
9
Hợp tác kinh tế GMS được hình thành để thực hiện các nhiệm vụ (i)
Tận dụng các cơ hội của toàn cầu hoá và khu vực hoá; (ii) Khắc phục khó
khăn, thách thức của toàn cầu hoá mà các sáng kiến hợp tác khác không
giải quyết được, hoặc giải quyết không hiệu quả; (iii) Phát huy lợi thế so
sánh, lợi thế cạnh tranh để phát triển kinh tế, xã hội; (iv) Tạo cơ chế mới
để nâng cao vị thế thương lượng của GMS trên trường quốc tế; (v) Thúc
đẩy tăng trưởng, xoá đói giảm nghèo và phát triển GMS thành một khu
vực phồn vinh và thịnh vượng.
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HỢP TÁC KINH TẾ TIỂU
VÙNG MÊ CÔNG MỞ RỘNG TỪ 1992 ĐẾN NAY
2.1. Thực trạng hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng từ năm
1992 đến nay
2.1.1. Lược sử quá trình hình thành và phát triển của hợp tác kinh tế
Tiểu vùng Mê Công mở rộng:
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) khởi xướng sáng kiến hợp tác
kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng năm 1992 (Hợp tác kinh tế GMS).
Các nước thành viên của Tiểu vùng Mê Công mở rộng gồm Campuchia,
Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc (với đại diện là tỉnh
Vân Nam và tỉnh Quảng Tây). Hợp tác kinh tế GMS trải qua 5 giai đoạn:
Giai đoạn I: kéo dài từ tháng 8 năm 1992 đến tháng 5 năm 1993: là giai
đoạn bắt đầu triển khai sáng kiến hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở
rộng. Giai đoạn II: là giai đoạn kéo dài từ tháng 6 năm 1993 đến đầu năm
1995: là giai đoạn tiến hành các hoạt động đánh giá và chuẩn bị các dự án
tiểu vùng ưu. Giai đoạn III: kéo dài từ tháng 7 năm 1996 cho tới cuối
năm 2000: là giai đoạn thực hiện dự án. Giai đoạn IV: kéo dài từ đầu năm
2000 cho tới 2002: là giai đoạn hợp tác kinh tế GMS đã đi vào giai đoạn
ổn định và phát triển. Giai đoạn V: kéo dài từ năm 2002 đến nay là giai
đoạn thực hiện Chiến lược hợp tác tiểu vùng 10 năm 2002-2012.
2.1.2. Các bước tiến triển trong hợp tác kinh tế GMS: (i) Hợp tác kinh
tế GMS hình thành và vận hành có hiệu quả thể chế hợp tác tiểu vùng
GMS; (ii) Hợp tác kinh tế GMS thu hút được một khối lượng vốn nhiều
hơn bất cứ sáng kiến hợp tác khu vực nào được đưa ra và thực hiện trong
cùng thời điểm và địa bàn GMS. Các bước tiến triển trong Hợp tác ngành
trong GMS như sau: (i) hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải. Thành
công của lĩnh vực giao thông vận tải đã góp phần làm giảm thời gian đi
lại trong GMS khi các tuyến đường được nâng cấp; làm cho thương mại
giữa các nước tăng lên; và có tác động lan toả ở quy mô dự án, quy mô
10
quốc gia và quy mô khu vực; (ii) hợp tác trong lĩnh vực Năng lượng: Các
lĩnh vực năng lượng đã đạt được nhiều thành công như đã tạo điều kiện
xuất khẩu điện từ Lào sang Thái Lan để tối đa hoá nguồn lực tiểu vùng
(tận dụng được lợi ích về quy mô, tiếp cận thị trường). ADB tăng vốn từ
khu vực tư nhân và phát triển đối tác; (iii) hợp tác trong lĩnh vực môi
trường. Những thành công của hợp tác trong lĩnh vực môi trường là đã
Phối hợp được sự hỗ trợ của nhà tài trợ và đầu tư của khu vực phí chính
phủ; Đưa ra được các phương pháp lập kế hoạch môi trường; (iv) hợp tác
trong lĩnh vực nông nghiệp. Thành công trong lĩnh vực nông nghiệp là đã
chuẩn bị được khung khổ chiến lược nông nghiệp tạo điều kiện cho các
hoạt động nông nghiệp tiểu vùng phát triển; (v) hợp tác trong lĩnh vực du
lịch. Hợp tác GMS đạt được nhiều thành công trong hợp tác du lịch, giành
được tính tự chủ lớn hơn cho Du lịch tiểu vùng thông qua việc hình thành,
cấp vốn và vận hành Cơ quan điều phối du lịch tiểu vùng; hợp tác du lịch
GMS tạo điều kiện phát triển cơ sở tiếp thị tiểu vùng thành một tụ điểm
du lịch và phát triển thành công mạng lưới du lịch tiểu vùng GMS; (vi)
hợp tác trong đầu tư tư nhân. Diễn đàn doanh nghiệp tiểu vùng Mê Công
mở rộng được thành lập năm 2000 nhằm tăng sự tham gia của khu vực tư
nhân vào các sáng kiến Tiểu vùng Mê Công mở rộng; (vii) các hoạt động
tạo thuận lợi cho thương mại tiểu vùng được triển khai tích cực. Thành
công đạt được trong lĩnh vực thương mại tiểu vùng tác động tích cực tới
nền kinh tế của các nước tiểu vùng. Thương mại GMS tăng lên thúc đẩy
tăng trưởng GDP, tăng trưởng giao dịch hàng hoá nội vùng GMS và tăng
trưởng xuất nhập khẩu với các khu vực khác trên thế giới; (viii) hợp tác
phát triển nguồn nhân lực, đã đào tạo được nhiều cán bộ ở chuẩn mực cao
và đào tạo cán bộ trong lĩnh vực phù hợp với yêu cầu của các quốc gia
GMS; tăng cường hợp tác và chia sẻ thông tin trong lĩnh vực y tế giúp cho
việc kiểm soát bệnh lây lan bắt đầu được thực hiện tốt hơn.
2.2. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của hợp tác
GMS
2.2.1. Điểm mạnh của hợp tác GMS: (i) khu vực GMS nằm trong một
khu vực năng động của thế giới. Xu hướng liên kết và hợp tác với nhau
của khu vực này là rất rõ rệt thể hiện ở những thành công và tiến bộ của
liên kết Đông Á, Đông Nam Á, và ASEAN… Xu thế phát triển này tạo
nền tảng, hậu thuẫn và thúc đẩy hợp tác GMS phát triển hơn nữa; (ii)
quyết tâm chính trị của lãnh đạo các nước trong khu vực là rõ ràng (iii)
môi trường hợp tác và đầu tư của các nước GMS đang có chuyển biến
theo chiều hướng thuận lợi cho hợp tác kinh tế GMS; (iv) với phạm vi
rộng trong lĩnh vực hợp tác, Chương trình GMS đã xác định được các ưu
tiên, các hiệp định hợp tác, các khung khổ chiến lược hợp tác quan trọng
nhất cho các lĩnh vực cơ bản làm cơ sở và định hướng cho hợp tác kinh tế
11
GMS; (v) các nhà tài trợ quốc tế ủng hộ sáng kiến hợp tác GMS, tham gia
tích cực, cấp vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ kỹ thuật và kỹ năng quản
lý cho các nước GMS qua các dự án hợp tác kinh tế GMS. Hơn thế nữa,
hợp tác kinh tế GMS được khởi xướng bởi ADB, là nhà tài trợ lớn của
khu vực; (vi) các nước GMS có nền văn hoá đặc thù, đa dạng và phong
phú.
2.2.2. Điểm yếu của hợp tác GMS: (i) các nước GMS đều là các nước
đang phát triển, hoặc kém phát triển, phần lớn còn nghèo, thiếu vốn, thiếu
công nghệ hiện đại, thiếu kỹ năng quản lý tiên tiến; (ii) hợp tác kinh tế
GMS không có hiến chương, không có chủ trương hình thành khối kinh tế
như cộng đồng ASEAN, EU, không có cơ cấu tổ chức chung cho GMS,
trên thực tế các nước GMS hiện đang dựa vào ADB để triển khai các hoạt
động điều phối chung của hợp tác kinh tế GMS, không có nguồn kinh phí
đóng góp bắt buộc từ các nước GMS, do vậy dễ bị tan rã khi ADB ngừng
tài trợ cho sáng kiến hợp tác này; (iii) hợp tác kinh tế GMS không có Ban
thư ký quốc tế riêng cho mình, không có trụ sở của Ban quản lý quốc tế,
hiện tại đang nhờ ADB thực hiện chức năng Ban thư ký quốc tế cho hợp
tác kinh tế GMS. Do vậy, công tác điều phối các chương trình, dự án hợp
tác còn phụ thuộc phần lớn vào sự điều phối của ADB; (iv) hợp tác kinh
tế GMS chưa có cơ chế huy động vốn ổn định, phần lớn nguồn vốn cần
thiết cho hợp tác GMS cho tới nay vẫn do ADB tài trợ hoặc do đồng tài
trợ từ các nhà tài trợ trong và ngoài khu vực; (v) tất cả các dự án hỗ trợ kỹ
thuật vùng, và tiểu vùng (RETA) do ADB tài trợ đều do ADB điều hành
và quản lý, hầu hết nguồn kinh phí của các dự án RETA đều do tư vấn
quốc tế và tư vấn trong nước hưởng thụ; (vi) hiệp định tạo thuận lợi cho
các công tác vận chuyển hàng hoá và hành khách qua biên giới triển khai
thực hiện chậm và gặp nhiều khó khăn tại các cặp cửa khẩu thí điểm; (vii)
các hành lang giao thông dần dần được hình thành phụ thuộc vào tiến độ
huy động vốn và tiến độ xây dựng của các tuyến đường này; (viii) luật
pháp, cơ chế, chính sách và văn hoá của các nước GMS còn khác nhau
nhiều cũng gây nên nhiều khó khăn, cản trở đối với hợp tác kinh tế GMS.
2.2.3. Cơ hội của hợp tác GMS là: (i) xu hướng chung của toàn cầu hoá
và khu vực hoá là mạnh mẽ; (ii) GMS nằm ở vị trí địa lý thuận lợi của
khu vực Đông Nam Á năng động, do vậy có thể tận dụng được các cơ hội
tốt do khu vực tạo ra một cách nhanh chóng do quá trình giao lưu và hợp
tác khu vực, có cơ hội để phát huy được lợi thế của mình về địa chiến
lược và địa kinh tế, có cơ hội để hợp tác khai thác nguồn tài nguyên thiên
nhiên của mình phục vụ cho mục tiêu phát triển và nâng cao đời sống của
cộng đồng dân cư các nước GMS; (iii) GMS nằm trong chiến lược gây
ảnh hưởng của các nước lớn trong đó có Mỹ, Nhật, Trung quốc, EU và
Ấn Độ trong chiến lược đẩy mạnh hợp tác Nam-Nam; Các nước lớn và
12
các cường quốc kinh tế, chính trị này sẽ giúp đỡ GMS, bảo đảm cho GMS
phát triển trong hoà bình, ổn định vì lợi ích của các nước lớn và cũng
chính vì lợi ích của các nước GMS; (iv) các nước trong khu vực đa phần
đều có sự ổn định và cùng hướng tới mục tiêu xây dựng một khu vực
phồn vinh thịnh vượng; (v) sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin
và khoa học kỹ thuật làm cho các nước trong khu vực có thể có những
điều kiện chưa từng có trong lịch sử để có thể bắt kịp các nước phát triển
hơn đặc biệt là về áp dụng các công nghệ thông tin và viễn thông.
2.2.4. Thách thức đặt ra đối với hợp tác GMS là: (i) các nước GMS
tham gia quá nhiều các sáng kiến hợp tác khu vực khác nhau trên trường
quốc tế; (ii) xuất phát điểm về phát triển của các nước GMS còn thấp, tỷ
lệ người nghèo còn cao, các chỉ số phát triển của các nước GMS còn thấp;
(iii) GMS có tham vọng phát triển lớn, chương trình, dự án đã xác định
được nhiều, trong khi nguồn vốn tự có thì có hạn không đủ để duy trì
thành quả và đầu tư phát triển theo chiều rộng và chiều sâu; (iv) việc thực
hiện chiến lược hợp tác 3C trong hợp tác GMS trong bối cảnh nền kinh tế
các nước GMS còn phổ biến là các nền kinh tế chậm phát triển (Lào,
Campuchia, Myanmar và Việt Nam) hoặc phát triển ở mức trung bình của
Thế giới (Thái Lan, Trung Quốc), pháp luật của các nước còn rất khác
nhau; (v) việc duy trì ổn định các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là duy trì
bền vững các mối quan hệ với các nước lớn trong khi chính các nước lớn
lại đang muốn tranh giành ảnh hưởng đối với GMS, việc bảo đảm có môi
trường chính trị ổn định, không có mâu thuẫn lớn, môi trường kinh tế vĩ
mô bền vững là một thách thức không nhỏ đối với các nước GMS trong
bối cảnh hiện nay.
2.3. Thực trạng phối hợp chính sách giữa các nước GMS
2.3.1. Sự phối hợp và điều chỉnh chính sách hợp tác trong GMS:
2.3.1.1. Quá trình phối hợp giữa các nước để chuẩn bị các chính sách
hợp tác GMS. Phần lớn công tác chuẩn bị các chính sách vĩ mô trong hợp
tác kinh tế GMS được bắt đầu từ dự án hỗ trợ kỹ thuật do ADB tài trợ
không hoàn lại (RETA), với sự tham gia của các nước thành viên GMS.
ADB tiến hành thuê tư vấn quốc tế và trong nước đồng thời phối hợp với
các cơ quan đại diện của các nước GMS để bắt đầu chuẩn bị dự thảo các
văn bản chính sách hợp tác kinh tế GMS (Chiến lược hợp tác kinh tế
GMS, Hiệp định hợp tác, phụ lục, nghị định thư, v.v…). Các dự thảo văn
bản chính sách hợp tác sau đó được đưa ra thảo luận tại các cuộc họp
nhóm công tác hoặc các diễn đàn ngành, tiếp theo đó đưa ra thảo luận tiếp
tại các cuộc họp chuyên viên cấp cao (SOM). Sau khi được chỉnh sửa dựa
vào các ý kiến đóng góp tại các cuộc họp này, dự thảo sẽ được đưa ra Hội
nghị cấp Bộ trưởng GMS để thảo luận và thông qua. Sau khi được thông
13
qua tại Hội nghị cấp Bộ trưởng GMS, các văn bản chính hợp tác kinh tế
GMS được các nước GMS hoàn tất thủ tục phê duyệt hoặc phê chuẩn (tuỳ
theo yêu cầu của hệ thống pháp luật của mỗi nước, đối với từng loại văn
bản).
Đối với các tuyên bố chung tại các Hội nghị thượng đỉnh, thông
thường đại diện của các nước và ADB cùng nhau soạn thảo và các nước
trình duyệt theo quy định của mỗi nước trước khi được thông qua hoặc
được ký kết tại Hội nghị.
Quá trình điều chỉnh hoặc sửa đổi các văn bản chính sách trong hợp
tác kinh tế GMS đều được các nước trao đổi thảo luận tại các cuộc họp
chung, hoặc thông qua hệ thống thông tin hiện có (fax, email, công thư
v.v.) để đi tới thống nhất những điều chỉnh và sửa đổi cần thiết.
2.3.1.2. Phối hợp chính sách vĩ mô trong hợp tác kinh tế GMS. Sự phối
hợp chính sách hợp tác ở tầm vĩ mô giữa các nước GMS thường đươợc
tiến hành qua các văn bản chính sách vĩ mô đã được chuẩn bị gồm: (i) các
Tuyên bố chung của các nguyên thủ quốc gia các nước GMS tại các Hội
nghị thượng đỉnh GMS, các thoả thuận đạt được tại các Hội nghị Bộ
trưởng GMS, Chiến lược hợp tác 10 năm 1992-2002 của GMS; Chiến
lược hợp tác 3C, (ii) các nguyên tắc, cơ chế và cơ cấu tổ chức của hợp tác
GMS; (iii) các Hiệp định hợp tác cùng các phụ lục và nghị định thư được
các bên tham gia ký kết; và các Điều ước quốc tế khác mà các bên tham
gia ký kết và triển khai thực hiện.
Hiện nay các nước GMS đã ký nhiều điều ước quốc tế của GMS và
đang triển khai từng bước các thoả thuận đã đạt được. Hiệp định tạo thuận
lợi cho công tác vận chuyển hàng hoá và hành khách qua biên giới các
nước GMS và các phụ lục và Nghị định thư đi kèm theo. Hiệp định mua
bán điện năng (IGA) và các văn bản kèm theo đã được đàm phán và ký
kết, nhiều văn kiện chương trình hợp tác GMS, các định hướng chiến lược
đã được thoả thuận giữa các nước GMS trong thời gian qua. Tại các nước
GMS, Chính phủ và Quốc hội các nước đang tiến hành những bước điều
chỉnh chính sách vĩ mô và thủ tục của mình để phù hợp với các văn bản
mà các nước GMS đã tham gia ký kết. Việc điều chỉnh chính sách vĩ mô
trong từng nước GMS sao cho các văn bản luật của các nước phù hợp với
điều ước quốc tế đã ký kết đang được các nước triển khai thực hiện dần
dần tuỳ thuộc điều kiện của mỗi nước GMS. Tuy vậy, việc điều chỉnh
chính sách, luật pháp, và văn bản pháp quy trong nước là những bước đi
quan trọng, thường gặp không ít khó khăn thử thách mà các nước GMS
phải vượt qua. Với sự cố gắng vượt bậc của các Chính phủ, nhân dân và
Quốc hội các nước GMS, những khó khăn, thách thức trong công tác điều
14
chỉnh chính sách vĩ mô nhằm tạo điều kiện cho hợp tác kinh tế GMS sẽ
được khắc phục từng bước.
2.3.1.3. Phối hợp chính sách hợp tác ngành trong GMS: Phối hợp chính
sách hợp tác ngành: (i) trong lĩnh vực giao thông tiểu vùng, phối hợp
chính sách thực hiện chủ yếu qua Chiến lược giao thông tiểu vùng do dự
án Hỗ trợ kỹ thuật của ADB hỗ trợ chuẩn bị; (ii) trong lĩnh vực năng
lượng, phối hợp chính sách với nhau thông qua Hiệp định mua bán điện
năng tiểu vùng. Chiến lược năng lượng tiểu vùng; (iii) trong lĩnh vực môi
trường tiểu vùng, phối hợp với nhau qua Khung khổ chiến lược môi
trường tiểu vùng; (iv) trong lĩnh vực du lịch, phối hợp với nhau qua Chiến
lược du lịch tiểu vùng; (v) trong lĩnh vực thương mại và đầu tư, phối hợp
với nhau qua khung khổ chiến lược xúc tiến thương mại và đầu tư tiểu
vùng; (vi) trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, phối hợp chính sách thông
qua các Hội nghị, diễn đàn cấp cao; (vii) trong lĩnh vực nông nghiệp,
khung khổ chiến lược nông nghiệp tiểu vùng; (viii) trong lĩnh vực phát
triển nguồn nhân lực, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực tiểu vùng.
2.4. Đánh giá sự tham gia của các nước thành viên trong hợp tác kinh
tế GMS.
- Xét về mức độ ủng hộ và cam kết cấp độ tham gia: Có thể dễ dàng
nhận thấy là tất cả các nước thành viên GMS đều ủng hộ mạnh mẽ và tích
cực tham gia thực hiện sáng kiến hợp tác kinh tế Tiểu vùng Sông Mê
Công Mở rộng ngay từ khi sáng kiến hợp tác này được hình thành.
- Xét về tính sẵn sàng tham gia: Các nước thành viên GMS luôn tỏ ra
tích cực và sẵn sàng tham gia tất cả các hoạt động hợp tác kinh tế GMS,
từ khâu xác định ý tưởng hợp tác, đến khâu chuẩn bị và triển khai thực
hiện các hoạt động hợp tác.
- Xét về quy mô tham gia: Các nước thành viên đã chuẩn bị được một
chương trình hợp tác đồ sộ gồm hàng trăm dự án, chương trình hợp tác ưu
tiên trên 9 lĩnh vực hợp tác kinh tế tiểu vùng là giao thông, năng lượng,
bưu chính viễn thông, thương mại, đầu tư, du lịch, môi trường, phát triển
nguồn nhân lực và nông nghiệp.
- Xét về tính chủ động tham gia: Các nước thành viên GMS rất chủ
động tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế GMS. Các nước thành viên
GMS tham gia sáng kiến hợp tác này không vì một sức ép nào mà hoàn
toàn tự nguyện vì lợi ích của từng quốc gia thành viên và vì lợi ích của cả
GMS.
- Xét về mức độ triển khai thực hiện các hoạt động hợp tác GMS ở
các nước thành viên: Các nước thành viên GMS tích cực tham gia tất cả
15
các hoạt động hợp tác kinh tế trong sáng kiến hợp tác này thông qua các
hiệp định hợp tác, văn kiện dự án, chương trình hợp tác.
- Xét về kết quả đạt được, thách thức và khó khăn gặp phải trong hợp
tác kinh tế ở các nước thành viên: Tất cả các nước thành viên GMS đều
khẳng định đạt được kết quả lớn, đáng khích lệ trong quá trình tham gia
các hoạt động hợp tác kinh tế GMS.
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY
HỢP TÁC KINH TẾ TIỂU VÙNG MÊ CÔNG MỞ RỘNG
3.1. Triển vọng hợp tác kinh tế GMS
3.1.1. Các yếu tố chủ yếu tác động đến hợp tác GMS
3.1.1.1. Thay đổi của bối cảnh quốc tế tác động đến hợp tác GMS: (i)
thế giới đang có những biến chuyển nhanh chóng; thế và lực của các
“cực” trong cục diện thế giới “đa cực” đang có những diễn biến phức tạp,
tác động mạnh mẽ tới các thể chế toàn cầu, đa phương và khu vực. Các
nước GMS sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức trong việc huy động vốn
đầu tư cho các dự án ưu tiên tiểu vùng; (ii) những thành quả đạt được
trong hợp tác GMS tạo lập nền tảng phát triển mới của GMS và sự nâng
cao thế và lực của các thành viên GMS; (iii) vai trò to lớn và sự hỗ trợ lâu
dài, bền bỉ và có hiệu quả của ADB tạo cơ sở phát triển bền vững cho
GMS.
3.1.1.2. Sự thay đổi của khu vực tác động đến hợp tác GMS.
- Tác động của ASEAN đến GMS. Thông qua ASEAN, các nước
GMS tiếp cận dễ dàng hơn thị trường lớn và khó tính, vừa được hưởng ưu
đãi về thuế suất và lộ trình giảm thuế dành cho các thành viên đang phát
triển trong ASEAN; huy động được sự trợ giúp và hợp tác phát triển của
các nước ASEAN và các nước đối thoại, mở rộng hợp tác khu vực trong
nhiều lĩnh vực then chốt, nâng cao năng lực cho GMS hội nhập khu vực
và quốc tế;
- Tác động của Uỷ hội sông Mê Công (MRC) tới GMS: MRC có tác
động thúc đẩy GMS phát triển theo chiều sâu trong một số lĩnh vực hợp
tác vùng, đặc biệt là lĩnh vực môi trường và quản lý nguồn nước;
- Tác động của hợp tác ACMECS: cho tới nay, phần lớn các dự án và
chương trình ưu tiên đều chưa huy động được vốn để đầu tư. Tác động
của sáng kiến hợp tác này tới GMS chủ yếu là tạo dựng khung khổ và môi
trường hợp tác thuận lợi cho các nước thành viên; tăng cường sự hiểu biết
16
giữa các nước. Lợi ích về kinh tế và chính trị do ACMECS tạo ra cho
GMS còn nhỏ và thường không có kết quả rõ ràng ;
- Tác động của hợp tác CLMV: danh mục dự án của hợp tác CLMV
có nhiều nhưng quy mô dự án không lớn và phần lớn các dự án mới dừng
lại ở giai đoạn ý tưởng, chưa huy động được nhiều vốn đầu tư. Do vậy tác
động của CLMV đối với GMS không lớn;
- Tác động của Sáng kiến hợp tác “Tam giác phát triển”: quy mô
hợp tác không lớn, địa bàn hợp tác còn nghèo, các nhà tài trợ còn ít tham
gia. Nguồn lực đầu tư chủ yếu từ các nước thành viên. Nguồn lực về con
người còn mỏng, kỹ năng quản lý và tay nghề của người dân còn hạn chế.
Kinh tế của các tỉnh trong vùng còn kém phát triển. Do vậy, tác động của
sáng kiến hợp tác này đối với GMS là không lớn, kể cả về quy mô và
cường độ;
- Tác động của hợp tác Hai hành lang, Một vành đai kinh tế: Sáng
kiến hợp tác này được hai nước thành viên là Việt Nam và Trung Quốc
tích cực ủng hộ và tham gia. Hai tuyến hành lang trong Sáng kiến hợp tác
này trùng lắp với hai tuyến hành lang kinh tế của hợp tác kinh tế GMS. Vì
có sự trùng lắp về địa bàn hợp tác nên cả hai tuyến hành lang này đều
được ưu tiên đầu tư. Hợp tác GMS đã và đang huy động vốn đề đầu tư
cho các tuyến giao thông của thuộc hai tuyến hành lang. Vành đai ven
biển của Sáng kiến hợp tác này đang được đầu tư dần dần. Cả Việt Nam
và Trung Quốc đều ưu tiên tăng cường đầu tư cho vành đai ven biển trong
sáng kiến hợp tác này. Do vậy, trong triển vọng ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn, Sáng kiến hợp tác này sẽ có tác động lớn tới sự phát triển của
Việt Nam và tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, và thông qua các địa bàn
hợp tác này thúc đẩy sự phát triển của GMS;
- Tác động của hợp tác Nam Ninh – Singapore: Sáng kiến hợp tác
Nam Ninh-Singapore chủ yếu dựa theo trục giao thông kết nối Nam Ninh
với Singapore qua địa phận của Việt Nam, Lào, Thái Lan, Malaysia. Do
trục giao thông này đang được nâng cấp từng đoạn, chưa phát triển đồng
bộ. Các dịch vụ hậu cần dọc theo trục này còn kém. Do vậy, tác động của
Sáng kiến hợp tác Nam Ninh – Singapore tới GMS không lớn.
- Tác động của các nước lớn tới GMS:
Vai trò của Mỹ đối với GMS: Đầu tư của Mỹ đi theo con đường trực
tiếp từ các doanh nghiệp của Mỹ và đầu tư gián tiếp qua liên doanh với
các công ty khác hoặc các tổ chức khác (WB, ADB, IMF v.v…). Mỹ chủ
yếu đầu tư qua con đường hợp tác song phương cho một số nước tiểu
vùng, chưa có đầu tư cho các dự án hợp tác tiểu vùng, song trên thực tế,
Mỹ tiếp tục đóng góp vốn cho ADB để thực hiện các dự án hợp tác khu
17
vực, đặc biệt là GMS. Do vậy, tác động ảnh hưởng của Mỹ hợp tác kinh
tế GMS là rất lớn.
Vai trò của Nhật Bản đối với GMS ngày càng tăng. Nhật Bản luôn
thể hiện ý chí hỗ trợ hợp tác kinh tế GMS. Nhật Bảnđóng góp vốn lớn cho
ADB và thông qua ADB để đầu tư cho nhiều dự án hợp tác GMS. Nhật
Bản còn có chương trình hỗ trợ cho các sáng kiến Hành lang kinh tế
Đông-Tây (WEC), hợp tác giữa bốn nước kém phát triển hơn trong
ASEAN là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (CLMV). Nhật Bản
có tác động lớn đối với việc thúc đẩy hợp tác kinh tế GMS trong thời gian
qua và trong triển vọng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Vai trò của Ấn Độ đối với GMS hiện tại không lớn như tiềm năng
của nó. Từ nhiều năm nay, vai trò của Ấn Độ trong việc thúc đẩy hợp tác
kinh tế GMS rất hạn chế.
3.1.1.3. Nền tảng phát triển mới của GMS cùng với sự nâng cao thế và
lực của các thành viên GMS
Hợp tác GMS đã tạo được nền tảng tương đối bền vững làm cơ sở và
tiền đề cho GMS phát triển kinh tế, xã hội nhanh, mạnh cả chiều rộng và
chiều sâu. Cơ sở phát triển mới của GMS dựa vào nền tảng phát triển
phần mềm là Cơ chế hợp tác năng động, phù hợp cho hợp tác GMS: cơ
chế hợp tác 2+, nguyên tắc hợp tác có tính năng động cao; các Hiệp định
hợp tác GMS, tạo thuận lợi cho công tác vận chuyển hành khách qua biên
giới và các phụ lục và nghị định thư; Hiệp định mua bán điện năng trong
tiểu vùng GMS; Các thoả thuận hợp tác, các tuyên bố chung tại Hội nghị
thượng đỉnh; Chiến lược hợp tác 3C (C-Kết nối, C-Năng lực cạnh tranh
và C-Tính cộng đồng), và các chiến lược hợp tác ngành. Về nền tảng phát
triển phần cứng: GMS đã tạo ra các các kết nối cơ sở hạ tầng quan trong
xuyên suốt Tiểu vùng GMS, từ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mê Công mở rộng Hiện trạng, định hướng và giải pháp.pdf