MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 3
2.1. Tài liệu nước ngoài. 3
2.2. Tài liệu trong nước 5
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 8
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 8
4.1. Mục đích: 8
4.2. Nhiệm vụ: 9
5. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 9
5.1. Cơ sở lý luận 9
5.2. Phương pháp nghiên cứu: 9
5.2.1 Nghiên cứu lý thuyết 9
5.2.2.Sử dụng phương pháp quan sát và thực nghiệm sư phạm 10
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN 10
6.1. Ý nghĩa khoa học 10
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 10
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN 11
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN 11
B. PHẦN NỘI DUNG 12
CHƯƠNG I 12
VẤN ĐỀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH GÍA KẾT QUẢ HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ 12
Ở TRƯỜNG THPT 12
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ 12
1. Cở sở xuất phát 12
1.1. Mục tiêu của bộ môn Lịch sử 12
1.2. Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông 14
1.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh trong học tập Lịch sử 16
1.4. Phương hướng đổi mới việc hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT 19
2.Thực trạng vấn đề hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập ở trường THPT hiện nay. 21
2.1. Đối với giáo viên 21
2.2. Đối với học sinh 25
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT 29
1. Quan niệm về kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá 29
1.1. Khái niệm 29
1.2. Mục đích của kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá 31
1.3. Chức năng của kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá 32
2. Vai trò của việc tự kiểm tra – đánh giá trong học tập 34
2.1. Đối với học sinh 34
2.2. Đối với giáo viên: 35
3. Tự kiểm tra, đánh giá nhằm phát huy năng lực tự học của học sinh trong học tập. 36
CHƯƠNG II 42
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾN HÀNH 42
TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ 42
THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) 42
Ở TRƯỜNG THPT 42
I. VỊ TRÍ - MỤC TIÊU - NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN). 42
2.Vị trí 42
3. Mục tiêu 43
3. Nội dung cơ bản của Lịch sử thế giới lớp 10(chương trình chuẩn) 44
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Ở TRƯỜNG THPT 47
1. Những yêu cầu xác định các biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử ở trường THPT 47
2. Nội dung và biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử ở trường THPT 51
2.1. Biện pháp giúp học sinh tái hiện những điều đã học 51
2.2. Biện pháp hướng dẫn học sinh tự trả lời những câu hỏi trong giáo trình hoặc tài liệu hướng dẫn học tập. 55
2.3. Làm các bài tập do giáo viên yêu cầu 62
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 69
I. MỤC ĐÍCH, NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM 69
1. Mục đích 69
2. Nguyên tắc 69
3. Phương pháp 69
II. TỔ CHỨC THỰC NGHIỆM 70
1. Thời gian thực nghiệm 70
2. Đối tượng thực nghiệm 70
3. Bài học được chọn biên soạn đề bài thực nghiệm 70
4. Hướng dẫn thực nghiệm 70
5. Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm 70
6. Kết quả thực nghiệm 72
C. KÊT LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 1 85
ĐÁP ÁN 90
PHỤ LỤC 2A 95
PHỤ LỤC 2B 97
102 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5474 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường Trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o tình huống, nghiên cứu cách xử lí, tự trình bày, tự bảo vệ sản phẩm của mình, tỏ rõ thái độ của mình trước cách ứng xử của bạn, tập giao tiếp, tập hợp tác với mọi người trong quá trình tìm ra tri thức.
Giáo viên là người hướng dẫn học sinh nghiên cứu tìm ra kiến thức và tự thể hiện mình trong lớp học. Thầy là người hướng dẫn, tổ chức lớp học cũng là trọng tài, cố vấn, kết luận trong các cuộc tranh luận đối thoại (trò với trò, thầy với trò) để khẳng định kiến thức do trò tự tìm ra và cũng là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của trò.
Người học tự đánh giá, tự kiểm tra lại sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi hợp tác với bạn bè và dựa vào kết luận của thầy, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, đồng thời tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình.
Trong dạy học lịch sử từng có quan niệm sai lầm cho rằng: học sih chỉ cần nhớ, thuộc lòng, không có tư duy, không cần bài tâkp, thực hành. Quan niệm này đã gây trở ngại lớn cho việc đặt lịch sử đúng vị trí cần có, làm giảm chất lượng dạy học và hiệu quả giáo dục bộ môn. Ngày nay, cùng với quá trình đổi mới giáo dục, chúng ta tiếp cận dần đến quan niệm đúng về tự học lịch sử của học sinh. “Tự học của học sinh là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách thành thạo”(1) Phan Ngọc Liên (chủ biên) Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Phương pháp dạy học lịch sử, Tập II, NXB Đại học Sư phạm, tr.107
. Đó là quá trình đi từ “biết” đến “hiểu”. Quá trình này phải trải qua nhiều giai đoạn, đòi hỏi học sinh có những cố gắng nỗ lực khác nhau. Trước hết, từ việc tiếp xúc với quá khứ thông qua giáo viên, tài liệu, phương tiện trực quan để có những biểu tượng lịch sử, học sinh phải nhận thức được các sự kiện, quá trình cụ thể của lịch sử (thế giới, dân tộc, địa phương). Trên cơ sở đó, bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ tự hình thành trong óc những tri thức trừu tượng, khái quát nhờ hoạt động “xử lí” các tri thức cụ thể. Từ đó, học sinh tiến tới hình thành các khái niệm, nắm hệ thống khái niệm, bài học, quy luật lịch sử (nếu có). Tiếp đó, học sinh phải rèn luyện cách vận dụng tri thức đã học để tạo ra trong tư duy những mối liên hệ giữa những tri thức cũ và những điều mới, chưa biết và sử dụng những kiến thức về quá khứ để hiểu hiện tại, hoạt động trong thực tiễn. Đó là một quá trình phát triển liên tục trong mối liên hệ nhân quả và lôgíc để tiến tới những hiểu biết sâu sắc về lịch sử nhân loại và dân tộc. Tự học của học sinh trong quá trình học tập lịch sử được thể hiện cả ở trên lớp và ở nhà. Tự học ở nhà trong học tập nói chung, học tập lịch sử nói riêng là sự tiếp nối một cách lôgíc bài học trên lớp. Trong hoạt động này, học sinh phải tự hoàn thành các bài tập do giáo viên đưa ra sau các bài tập trên lớp. Nội dung tự học ở nhà của học sinh thường bao gồm:
Nắm vững tài liệu đã học tập, theo các bước sau:
+ Nghiên cứu lại vở ghi và sách giáo khoa để thống nhất, hiểu sâu kiến thức.
+ Tái hiện lại những kiến thức đã học.
+ Hoàn thành các bài tập và câu hỏi trong sách giáo khoa.
+ Tự làm việc với bản đồ, tranh ảnh ngoài sách giáo khoa, như tìm hiểu nội dung và trình bày lịch sử theo bản đồ, tranh ảnh…
+ Tự đọc tài liệu lịch sử văn hoá trong các tư liệu tham khảo, sách đọc thêm…nhằm hiểu rõ hơn những kiến thức đã học, mở rộng sự hiểu biết.
Tự ôn tập theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Chuẩn bị cho bài học mới: đọc và tự ghi tóm tắt ngắn gọn những vấn đề cơ bản của bài viết trong sách giáo khoa, ghi lại những nội sung khó hiểu, đặc biệt là các thuật ngữ, khái niệm; chuẩn bị các bài tập mà giáo viên đã đưa ra nhằm phục vụ cho bài học sắp tới.
Như vậy, nội dung tự học ở nhà của học sinh trong học tập lịch sử rất đa dạng, phong phú. Do đó, nó có tác dụng lớn đối với học sinh. Trước hết, tự học ở nhà không chỉ giúp học sinh củng cố, hiểu sâu, mở rộng khái quát hoá, hệ thống hoá kiến thức, mà còn góp phần giúp các em lấp các lỗ hổng về kiến thức và nâng cao kiến thức, nâng cao khả năng sáng tạo của những em khá giỏi. Hơn nữa, khi chuẩn bị các bài học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh lĩnh hội bài mới dễ dàng hơn, tốt hơn. Ngoài ra, việc tự học tập ở nhà còn góp phần giáo dục các em tính chuyên cần, tự giác trong lao động, học tập, ý chí vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Cuối cùng, hoạt động có tác dụng to lớn trong việc phát triển năng lực độc lập làm việc, các kĩ năng, kĩ xảo học tập cho bản thân học sinh.
Rõ ràng, việc tổ chức tốt hoạt động tự học ở nhà cho học sinh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn ở trường phổ thông và là một trong những biện pháp tự kiểm tra, đánh giá hiệu quả kết quả học tập, lĩnh hội kiến thức của học sinh.
CHƯƠNG II
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾN HÀNH
TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ
THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
Ở TRƯỜNG THPT
VỊ TRÍ - MỤC TIÊU - NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN).
Vị trí
Chương trình Lịch sử ở cấp Trung học phổ thông đã được Hội đồng thông qua, được Bộ giáo dục và Đào tạo cho phép thực hiện từ năm học 1990-1991.
Bộ môn Lịch sử lớp 10 trung học phổ thông được triển khai đại trà từ năm 2006 -2007, bao gồm hai cuốn sách giáo khoa theo chương trình cơ bản và nâng cao. Việc giảng dạy và học tập Lịch sử 10 lần này không chỉ có nhiều điều mới về chương trình, nội dung, phương pháp mà còn khó so với các lớp học khác. Khó là ở chỗ kiến thức Lịch sử lớp 10 và khả năng nhận thức của học sinh có độ lùi quá xa của quá khứ, cách ngày nay hàng nghàn, hàng vạn năm, với ba thời đại đầu tiên của Lịch sử loài người là Lịch sử dân tộc: nguyên thuỷ, cổ đại, trung đại (chương trình nâng cao) và một phần lớn thời cận đại (chương trình cơ bản). Vì vậy vấn đề tổ chức dạy học, kiểm tra – đánh giá của giáo viên, cũng như quá trình tự kiểm tra – đánh giá của học sinh trong việc học kiến thức lịch sử là vấn đề quan trọng.
Kiến thức Lịch sử nói chung, Lịch sử lớp 10 nói riêng, bao gồm hai phần cơ bản, đó là “sử và luận”. Phần “sử” chính là tất cả những sự kiện, tích hợp, đã xảy ra trong xã hội loài người cũng như của dân tộc, được khoa học Lịch sử xác nhận, ghi chép lại trong các cuốn sách giáo khoa. Nó bao gồm nhiều yếu tố tạo thành sự kiện Lịch sử như: thời gian, địa điểm, nhân vật diễn biến, kết quả…- những yếu tố để giúp học sinh biết lịch sử diễn ra như thế nào một cách căn bản. Đương nhiên học Lịch sử không chỉ có biết các sự kiện, mà còn phải hiểu bản chất của các sự kiệ, hiện tượng lịch sử đó. Nói một cách khác, còn phải biết giải thích, đánh giá, bình luận các sự kiện lịch sử theo quan điểm của sử học Macxit. Trong dạy học Lịch sử, phải tuân thủ một nguyên tắc: không một sự kiện, hiện tượng nào là không được giải thích đánh giá và muốn đánh giá, giải thích đều phải xuất phát từ sự kiện mà chúng ta biết được. Việc kiểm tra – đánh giá bằng phương pháp trắc nghiệm kết hợp với tự luận chính là góp phần để đánh giá đúng quá trình tiếp thu, bình luận những kiến thức nói trên của học sinh. Thông thường phần trắc nghiệm trong dạy học Lịch sử là để kiểm tra “biêt” và tự luận để kiểm tra “hiểu” Lịch sử của các em.
Lớp 10: Lịch sử thế giới cổ trung đại, Lịch sử thế giới cận đại thời kỳ I
Lớp 11: Lịch sử thế giới cận đại thời kỳ II, Lịch sử thế giới hiện đại (1917 – 1945), Lịch sử Việt Nam từ nguyên thuỷ đến đầu thế kỷ XX.
Mục tiêu
Như vậy khi học sinh được học phần Lịch sử thế giới lớp 10, các em đã có những nhận thức khái quát về lịch sử buổi đầu của con người và xã hội loài người: sự xuất hiện, sinh hoạt đời sống, tổ chức xã hội cũng như sự hình thành ra xã hội phong kiến ở Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Âu…với những nét chủ yếu về tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, và những thành tựu văn hoá rực rỡ của các quốc gia thời phong kiến. Và với một phần của Lịch sử thế giới cận đại với sự xuất hiện của các cuộc Cách mạng tư sản dẫn tới sự hình thành các nhà nước tư sản và cuộc đấu tranh của phong trào công nhân cuối thế thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX giúp cho học sinh lớp 10 có được những hình dung quan trọng về tiến trình phát triển của loài người tử cổ đại, trung đại và cận đại. Từ những hiểu biết đó giúp học sinh có nhận thức khái quát về vị trí của Lịch sử dân tộc là một bộ phận của Lịch sử thế giới. Trên cơ sở đó các em sẽ hiểu sâu sắc hơn những nét đặc thù của Lịch sử dân tộc. Đồng thời, qua đó sẽ giáo dục cho các em lòng yêu lao động, vì lao động không những tạo nên con người, nâng cao đời sống của con người mà còn hoàn thiện bản thân con người.
Phần Lịch sử thế giới lớp 10 có vị trí đặc biệt quan trọng, hình thành cho học sinh những khái niệm mới của thời kỳ cận đại, có khả năng phân tích, nhận thức những vấn đề của Lịch sử cận đại như chiến tranh xâm lược của đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc, sự hình thành những tầng lớp mới, giai cấp mới, mối quan hệ quốc tế…để cho học sinh học tốt các chương sau. Đồng thời, qua đó sẽ giáo dục cho các em lòng yêu nước, thái độ căm thù bọn xâm lược, lòng biết ơn đối với các anh hùng dân tộc, hình thành ý thức trách nhiệm của các em đối với đất nước.
3. Nội dung cơ bản của Lịch sử thế giới lớp 10(chương trình chuẩn)
Nội dung cơ bản của Lịch sử thế giới lớp 10 bao gồm Phần một: Lịch sử thế giới thời nguyên thuỷ, cổ đại và trung đại và Phần ba: Lịch sử thế giới cận đại theo chương trình chuẩn của sách giáo khoa.
Nội dung của Phần một của Lịch sử thế giói lớp 10 như sau:
Thời kì Lịch sử đầu tiên của xã hội loài người bắt đầu khi con người và xã hội xuất hiện đến lúc xã hội phân chia thành giai cấp và nhà nước ra đời. Đặc trưng của xã hội nguyên thuỷ là sở hữu chung về tư liệu sản xuất, mọi người đều lao động và thừa hưởng thành quả lao động của mình làm ra. Do sản xuất thấp, mọi người chỉ làm đủ để nuôi sống mình, không có của thừa, không có bóc lột, không có giai cấp, không có nhà nước….Công cụ lao động không ngừng phát triển, nó là yếu tố động nhất trong các thành phần của lực lượng sản xuất. Từ đồ đá cũ, trong lao động sản xuất con người đã sáng tạo và chuyển sang chế tác và sử dụng công cụ đá mới, từ công cụ đá dần dần chuyển sang công cụ bằng kim loại - một tiến bộ mới trong sản xuất, gây ra những chuyển biến về xã hội. Do sản xuất tăng, con người có của cải dư thừa và từ đó này sinh chế độ tư hữu, làm cho xã hội phân hoá thành người giàu và người nghèo, dẫn tới sự phân chia xã hội thành giai cấp, sự ra đời của nhà nước và đấu tranh giữa các giai cấp đối kháng. Xã hội có giai cấp đầu tiên là xã hội chiếm hữu nô lệ, các quốc gia cổ đại không xuất hiện đồng loạt và hoàn toàn giống nhau. Ở đây, học sinh tìm hiểu hai mô hình xã hội cổ đại ở phương Đông và phương Tây. Trước tiên là xã hội cổ đại phương Đông với những nét chính về điều kiện tự nhiên, sự phát triển và đặc điểm kinh tế của các quốc gia cổ đại phương Đông, địa bàn, thời gian hình thành các quốc gia cổ đại, sự phân hoá trong xã hội với ra đời của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, tổ chức của nhà nước chuyên chế với quyên chuyên chế của nhà vua. Học sinh được tiếp cận với những kiến thức về văn hoá cổ đại phương Đông: thiên văn học, chữ viết (chữ tượng hình Ai Cập), toán học (do nhu cầu tring hoạt động buôn bán - số học; lao động sản xuất nông nghiệp (đo đạc ruộng đất) – hình học, kiến trúc; các kiến thức khoa học được ghi trên kim tự tháp…..Bên cạnh đó là nội dung của các quốc gia cổ đại Phương Tây cho học sinh thấy được những nét khái quát về điều kiện tự nhiên và đời sống của cư dân Địa Trung Hải, những biểu hiện và nguyên nhân sự phát triển của nghề thủ công và thương nghiệp ở các quốc gia cổ đại phương Tây. Về chế độ chiếm nô, hiểu được đời sống vật chất và địa vị xã hội của các giai cấp trong xã hội. Qua đó học sinh cũng nắm được thế nào là thị quốc và những biểu hiện của thể chế dân chủ cổ đại; quá trình chuyển biến từ thị quốc thành đế quốc với việc thể chế dân chủ bị bóp chết, thay vào đó là nguyên thủ, một hoàng đế đầy quyền lực, những cuộc đấu tranh của nô lệ chống lại chế độ chiếm nô, những thành tựu văn hoá cổ đại Hy Lạp và Rôma trên các lĩnh vực: lịch, chữ viết, toán học, văn học nghệ thuật, kiến trúc…Những nội dung cơ bản trên giúp cho học sinh hiểu rõ các quốc gia cổ đại phương Tây ra đời trong điều kiện tự nhiên khác gì so với các quốc gia cổ đại phương Đông.
Tiếp theo học sinh làm quen với những kiến thức về chế độ phong kiến với nội dung các bài: Trung Quốc thời phong kiến, Ấn Độ thời phong kiến và Đông Nam Á thời phong kiến. Chế độ phong kiến được xây dựng trên cơ sở quan hệ sản xuất phong kiến và thượng tầng kiến trúc nhà nước phong kiến. Trong xã hội phong kiến, giai cấp quý tộc, địa chủ chiếm hữu đất đai, bóc lột nhân dân bằng hình thức phát canh, thu tô. Chúng nắm toàn bộ chính quyền và thống trị xã hội. Những người nông dân (phương Đông) và nông nô (châu Âu) là lực lượng sản xuất chính trong xã hội phong kiến, nhưng họ bị lệ thuộc vào tầng lớp quý tộc phong kiến, địa chủ, phải nộp tô nặng, ngoài ra còn chịu nhiều thứ thuế khác. Bị bóc lột tàn tệ, nông dân, nông nô vùng dậy chống phong kiến. Và một trong những thành tựu quan trọng của loài người ở thế kỷ XV là tiến hành các cuộc phát kiến địa lý phát hiện ra châu Mĩ và đi vòng quanh thế giới đem lại nguồn của cải lớn về châu Âu, trên cơ sở đó dẫn đến quá trình tích luỹ tư bản ban đầu và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, qua đó hình thành hai giai cấp mới – tư sản và vô sản – ra đời. Trong các thập niên 50 – 60 của thế kỉ XIX nhiều cuộc cách mạng tư sản liên tục nổ ra dưới những hình thức khác nhau ở châu Âu và Bắc Mĩ đã khẳng định sự toàn thắng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chấm dứt cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực phong kiến lạc hậu, bảo thủ với giai cấp tư sản đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các nhà nước tư sản: Anh, Pháp, Mĩ….Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là thời kì phát triển mạnh mẽ của các nước tư bản tiên tiến, đánh dấu bước chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Cùng với đó là chính sách mở rộng xâm lược thuộc địa để có thêm thị trường và vơ vét nguyên liệu đưa về chính quốc. Sự tranh chấp thuộc địa đã làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trở nên sâu sắc. Giai cấp công nhân ra đời và lớn mạnh cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đối lập về quyền lợi, mâu thuẫn giữa tư bản với công nhân nảy sinh và dẫn đến những cuộc đấu tranh giai cấp đầu thời cận đại. Sự ra đời của Tuyên ngôn Đảng cộng sản đã khẳng định công lao to lớn của C.Mác và Ắng-ghen đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Chủ nghĩa xã hội khoa học do hai ông sáng lập là đỉnh cao của tư duy lí luận của nhân loại, là di sản văn hoá quý giá của loài người. Trong trào lưu phát triển của phong trào công nhân quốc tế vào thế kỉ XIX, sự ra đời của của Quốc tế thứ nhất và sự thành lập Công xã Pari là những mốc quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành của giai cấp công nhân. Đầu thế kỉ XIX, kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ăng-ghen, V.I.Lênin đã tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống các trào lưu tư tưởng cơ hội chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa Mác ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong các phong trào công nhân Nga và phong trào công nhân quốc tế. Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một kỉ nguyên mới của lịch sử thế giới cận đại của loài người.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ THẾ GIỚI LỚP 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Ở TRƯỜNG THPT
1. Những yêu cầu xác định các biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử ở trường THPT
Các nhà giáo dục lịch sử đã khẳng định, kiểm tra, đánh giá trong học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về tình hình lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của người học so với mục tiêu, yêu cầu học tập. Sự hiểu biết về các nguyên nhân và ảnh hưởng của tình hình học tập của người học giúp giáo viên có những biện pháp sư phạm thích hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy học và giúp học sinh ngày càng tiến bộ hơn.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu rằng: tự kiểm tra, đánh giá trong học tập là quá trình người học tự thu thập, xử lý thông tin về việc lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của mình so với yêu cầu đặt ra. Từ đó, học sinh thấy rõ các ưu, khuyết điểm của mình trong học tập, đặc biệt là phương pháp học tập để tìm cách khắc phục. Vấn đề tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong học tập thực chất là các hoạt động tự học. Tự học là một vấn đề quan trọng. Bởi đó là nhân tố nội lực quyết định chất lượng học tập, còn hoạt động dạy là ngoại lực có tác dụng định hướng, kích thích, điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp của quá trình học. Sản phẩm của quá trình dạy học chính là con người phát triển toàn diện về các mặt: tri thức, phẩm chất, đạo đức và kĩ năng, kĩ xảo. Đó cũng là quá trình hướng tới sự phát triển của chủ thể hoạt động học, thông qua các hành động khám phá lại và dần dần lĩnh hội được kho tàng ti thức của nhân loại, biến thành tri thức của bản thân mình. Trên cơ sở, tự bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo. Trong quá trình học, hoạt động tự học giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. C.Mác đã chỉ rõ, sự hình thành con người không chỉ là kết quả của những tác động bên ngoài, mà là một quá trình hiện thực khách quan của những thay đổi, tự chuyển hoá. Do đó, Mác – Ăngghen đã nêu yêu cầu của con người phải được phát triển toàn diện bằng hoạt động thực tiễn sinh động.
Quá trình dạy học chỉ có kết quả khi người học tự nỗ lực, tự học để nắm vững những tri thức mà nhân loại đã tích luỹ được, tức là việc: “tự chuyển hóa” như Mác nói.
Xuất phát từ sự quan tâm đặc biệt tới giáo dục, nhất là đối với thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải coi trọng phát triển toàn diện học sinh, nhất là phát triển ở các em năng lực tự học, tự giáo dục, tự đào tạo để các em sau khi ra trường có thể tự học suốt đời. Tư tưởng của Người về tự học là một tư tưởng toàn diện và khoa học, được thể hiện từ việc đặt mục đích học tập đến tổ chức học tập, phương pháp học tập. Cuộc đời của Người chính là một tấm gương sáng về tinh thần vươn lên trong tự học.
Để đào tạo những con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước hiện nay, Đảng ta đã nhấn mạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học: “Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề….” Rõ ràng, phát triển năng lực tự học nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh là vô cùng cần thíêt. Tự học phải là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm đạt đến một mục đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại. Sự nỗ lực đó của con người bao gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lí, ý thức, thái độ, tình cảm. Tự học ở nhà trường phổ thông là tự học có hướng dẫn. Vì vậy, hoạt động tự học của học sinh có các đặc điểm: Học sinh phải tìm ra kiến thức bằng chính hoạt động của mình, học sinh phải thể hiện mình, tự đặt mình vào tình huống, nghiên cứu cách xử lí, tự trình bày, tự bảo vệ sản phẩm của mình, tỏ rõ thái độ của mình trước cách ứng xử của bạn, tập giao tiếp, tập hợp tác với mọi người trong quá trình tìm ra tri thức. Giáo viên là người hướng dẫn học sinh nghiên cứu tìm ra kiến thức và tự thể hiện mình trong lớp học. Thầy là hướng dẫn, tổ chức lớp học cũng là trọng tài, cố vấn, kết luận trong các cuộc tranh luận đối thoại (trò với trò, thầy với trò) để khẳng định kiến thức do trò tìm ra và cũng là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của trò. Người học tự đánh giá, kiểm tra lại sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi hợp tác với bạn bè và dựa vào kết luận của thầy, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, đồng thời tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình.
Tự học là quá trình tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người trên con đường học tập thường xuyên của cả cuộc đời. Nó thực sự là chìa khoá vàng của giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông và đại học. Bởi vì tự học sẽ giúp học sinh tự lực nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về nghề nghiệp tương lai. Do đó, rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá là một biện pháp quan trọng thực hiện dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên. Việc tự kiểm tra, đánh giá có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với học sinh về các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Về mặt nhận thức, tự kiểm tra, đánh giá tạo nên mối liên hệ ngược trong, giúp học sinh có cơ sở thực tế với độ tin cậy cao để tự đáng giá kết quả học tập của mình, cũng như khắc phục sai lầm thiếu sót. Nó góp phần củng cố vững chắc các kiến thức đã lĩnh hội của học sinh. Đặc biệt, khi tự kiểm tra, đánh giá học sinh sẽ tự khẳng định được mình, tự mình đề xuất được biện pháp thoả đáng để điều khiển và thúc đẩy hoạt động học tập của bản thân vận động đi lên.
Về mặt tư tưởng, tình cảm, tự kiểm tra, đánh giá có tác dụng tự bồi dưỡng cho học sinh lòng tự tin, ý chí quyết tâm đạt kết quả cao trong học tập, tính kiên trì vượt khó trong lao động học tập, tính trung thực, tinh thần tập thể giúp đỡ nhau trong học tập.
Về mặt phát triển, tự kiểm tra, đánh giá góp phần hình thành kỹ năng thói quen trong học tập như nhận thức về vấn đề đặt ra, nhạy bén, biết vận dụng kiến thức, kỹ năng vào các hoạt động thực tiễn, thực tập…
Song trong thực tế việc tự học nói chung, tự kiểm tra, đánh giá nói riêng của học sinh đối với môn Lịch sử ở trường phổ thông chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Học sinh chưa nhận thức được việc học tập suốt đời là con đường mưu sinh cơ bản của mình trong thời đại ngày nay. Cho nên học sinh chưa có phương pháp học tập chủ động, chưa có ý thức tốt thường xuyên tự kiểm tra, đánh giá việc học tập của bản thân, chỉ biết tập trung học khi kiểm tra, thi cử.
Theo nhà tâm lý học, muốn có kỹ năng về một hoạt động nào đó, người học phải nắm vững các tri thức về hành động (mục đích, các cách thức thực hiện hành động, các điều kiện thực hiện hành động đúng với yêu cầu của nó và đạt được hiệu qủa hành động như mục đích đã đặt ra. Đồng thời có thể hành động đạt kết quả với những hành động tương tự trong các điều kiện khác. Để thực hiện hành động có kết quả phải tập dượt, rèn luyện. Việc luyện tập đạt kết quả cao hay thâp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự nỗ lực của người học giữ vai trò quyết định. Như vậy, muốn hình thành kỹ năng người học phải hiểu đầy đủ về hành động, phải thường xuyên rèn luyện tự kiểm tra, đánh giá.
Để đạt được những nội dung dạy học nói chung và môn Lịch sử ở trường phổ thông nói riêng, học sinh phải phát huy cao vai trò chủ động, trong đó cần thiết phải rèn luyện kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá.
2. Nội dung và biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử ở trường THPT
2.1. Biện pháp giúp học sinh tái hiện những điều đã học
Biện pháp giúp học sinh biết tái hiện những điều đã học về kiến thức lịch sử theo các dàn ý, đề cương nhất định và tập trình bày cho bản thân hay người khác nghe. Vì sao tái hiện lại những điều đã học là một biện pháp quan trọng của học sinh trong học tập lịch sử?
Học tập lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở trường phổ thông đều nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất chính trị đạo đức của học sinh. Điều này giúp học sinh hiểu được sự phát triển hợp quy luật của tự nhiên, xã hội, vận dụng sáng tạo những hiểu biết vào hoạt động thực tiễn. Muốn như vậy, phải cung cấp cho học sinh những kiến thức của môn học. Kiến thức lịch sử cũng như kiến thức của môn học khác là một bộ phận của kiến thức xã hội. Nắm vững sự kiện lịch sử là tiền đề để hiểu đúng hiện thực lịch sử một cách khoa học, biết rút ra từ quá khứ những bài học kinh nghiệm cho hiện tại và tương lai. Không có kiến thức về lịch sử không thể hiểu sự phát triển tương lai của xã hội. Tuy nhiên, trong dạy học lịch sử không thể cung cấp và tiếp thu mọi kiến thức của khoa học lịch sử mà chỉ có thể làm cho học sinh nắm vững những kiến thức cơ bản. Nó gồm nhiều yếu tố: sự kiện lịch sử, các niên đại, địa danh lịch sử, các nhân vật lịch sử, niên đại, khái niệm lịch sử, các quy luật nguyên lý…..Như vậy, bằng những sự kiện lịch sử cơ bản được chọn lọc kĩ, bộ môn lịch sử khôi phục lại cho học sinh bức tranh lịch sử như nó đã từng tồn tại.
Do đó, để xác định đúng đắn biện pháp sư phạm nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức lịch sử, chúng ta phải hiểu rõ hơn nữa những đặc điểm của tri thức lịch sử. Khác với những tri thức của nhiều bộ môn khoa học khác, tri thức lịch sử có những đặc điểm rất nổi bật, đó là tính quá khứ, tính không lặp lại, tính cụ thể, tính hệ thống, sự thống nhất giữa “sử” và “luận”. Lịch sử là quá trình phát triển của xã hội loài người từ lúc con người và xã hội hình thành đến nay. Tất cả những sự kiện và hiện tượng lịch sử được chúng ta nhắc đến đều là những chuyện đã xảy ra, bởi vậy chúng ta không thể trực tiếp quan sát được lịch sử quá khứ mà chỉ nhận thức được chúng một cách gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại. Và như vậy, trong việc giảng dạy lịch sử có những khó khăn nhất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 (chương trình chuẩn) ở trường Trung học phổ thông.doc