lời nói đầu 1
Phần 1 3
Sự cần thiết đổi mới công tác kế hoạch hoá 3
I.BảN CHấT CủA CƠ CHế Kế HOạCH HOá TRONG NềN KINH Tế TậP TRUNG 3
1. Cơ chế kinh tế tập trung 3
2. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung 4
2.2> Những hạn chế của kế hoạch hoá và thị trường trong nền kinh tế hiện vật. 6
3.>thực tiễn công tác kế hoạch hoá nước ta (1954-1985) 7
3.1.Giai đoạn 1954-1975 7
3.2>Giai đoạn 1975-1985 9
II>kế hoạch hoá trong nền kinh tế các nước đang phát triển. 11
1. kinh tế thị trường và những đặc trưng của nó 11
1.1. đặc điểm 11
1.2 Đặc trưng 11
2. Lý Thuyết Điều Tốt thứ Nhì 12
3.Tính kế hoạch và kế hoạch hoá thị trường 12
4.Kế hoạch hoá phát triển, bản chất, chức năng, nguyên tắc 14
4.1.khái niệm : 14
4.2. Bản chất của kế hoạch hoá và sự thể hiện trong nền kinh tế Việt Nam. 14
4.3.Chức năng của kế hoạch hoá. 15
5. Những nội dung chủ yếu của kế hoạch hoá. 15
5.1. xây dựng các chỉ tiêu chiến lược. 15
5.2. Xây dựng các chỉ tiêu phát triển cụ thể. 15
5.3. Kế hoạch toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực. 16
5.4. Xây dựng các chương trình dự án. 16
5.5. Xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. 16
5.6. Thời gian kế hoạch. 16
Phần II 17
Quá trình đổi mới (1986 đến nay) 17
1. Đặc điểm kinh tế xã hội. 17
2. Những thành tựu quan trọng của công tác kế hoạch hoá. 17
2.1. Đại hội Đảng lầ VII (năm 1991) đã xác định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991 2000. 17
2.2. Chuyển dần dang kế hoạch hoá định hướng. 18
2.3. Tăng cường công tác quy hoạch. 18
2.4. Kế hoạch hàng năm 18
2.5. Xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu. 19
2.6. Đổi mới hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch. 19
2.7. Đổi mới quy trình lập kế hoạch. 19
2.8. Đổi mới phương thức điều hành kế hoạch. 20
35 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 846 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hướng đổi mới kế hoạch hoá phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội Việt Nam trong thời kỳ 2001 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Muốn cho kinh tế thị trường hoạt động một cách bình thường và có ý nghĩa phát triển theo định hướng mong muốn của con người, đặc biệt là định hướng xã hội chủ nghĩa như chúng ta đang xây dựng, nhất thiết phải tăng cường vai trò của Nhà nước với hệ thống luật lệ thể chế phát huy tác dụng, mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó
2. Lý Thuyết Điều Tốt thứ Nhì
Do thị trường có khuyết tật khi nảy sinh khuyết tật thì sẽ có hai cách lựa chọn :
Thị trường sẽ lựa chọn phương án có khuyết tật.
Cách khác, thị trường vẫn lựa chọn phương án có khuyết tật và cứ để cho khuyết tật của thị trường tồn tại, tự thị trường điều tiết hoặc có sự tác động của chính phủ. thị trường có khuyết tật là lý do tác động và can thiệp của chính phủ vào thị trường. Chấp nhận sự can thiệp của chính phủ có thể không khắc phục được khuyết tật của thị trường thậm chí còn làm trầm trọng hơn các các khuyết tật đó.
Vì vậy muốn sự can thiệp của chính phủ không nảy sinh các hiệu quả phụ thì cần có sự tổ chức can thiệp của chính phủ. Đó là chức năng của kế hoạch hoá.
3.Tính kế hoạch và kế hoạch hoá thị trường
Cũng như mọi nền kinh tế, kinh tế thị trường muốn phát triển đòi hỏi phải hướng tới cân đối, duy trì thường xuyên tính cân đối.
Cân đối là sự bảo đảm sự cân bằng theo quan hệ tỷ lệ giữa các phần tử cấu thành hệ thống. Trong một hệ thống, khi đạt tới sự cân đối sẽ làm cho hệ thống phát triển và tồn tại cân đối mới trong hệ thống mới. Như vậy sự cân đối chỉ là tạm thời, một cân đối không ngừng bị phá vỡ và đạt đến một cân đối khác cao hơn. Có như vậy mới có sự phát triển. Vởy là, sự phát triển đòi hỏi phải hướng tới cân đối, đòi hỏi phải duy trì thường xuyên tính cân đối. Đồng thời, một cân đối cụ thể nào đó sẽ luôn thay đổi trong quá trình phát triển. Trong hoạt động thực tiễn việc giải quyết thường xuyên sự mất cân đối là một trong những yêu cầu và dấu hiệu bảo đảm sự phát triển.
Tính kế hoạch của nền kinh tế thể hiện ở chỗ nhận thức và duy trì được thường xuyên tính cân đối theo yêu cầu khách quan của quá trình đầu tư, bố trí lao động, phân công ngành nghề giữa hai khu vực chủ yếu :Khu vực một và khu vực hai; cân đối trong từng khu vực, cân đối xuất nhập,cân đối tổng cung tổng cầu, cân đối thu chi ngân sách vv
Trong khuôn khổ vi mô, thì tính kế hoạch thể hiện ở việc nắm bắt và duy trì thường xuyên các cân đối phù hợp với yêu cầu khách quan về các yếu tố sản xuất và các qúa trìmh quản lý trong toàn bộ dây truyền sản xuất kinh doanh.
Từ những biểu hiện trên đây, có thể thấy, tính kế hoạch của nền kinh tế có thể thực hiện với hai điều kiện :Sự phân công lao động xã hội, phân công sản xuất mạnh mẽ và có khả năng nhận thức tác động, điều tiết một cách thường xuyên, bảo đảm tính cân đối của nền kinh tế
Có ý kiến cho rằng, tính kế hoạch là thuộc tính của nền kinh tế có kế hoạch. Thực ra tính kế hoạch hoạch là một phạm trù khách quan tồn tại ngay cả trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Nêú xét tính kế hoạch của nó theo điều kiện thứ nhất nêu trên thì ở đây thì sự phân công lao động, phân công sản xuất đã diễn ra một cách sâu sắc làm nảy sinh nhu cầu hợp tác. Chính hợp tác đòi hỏi phải thiết lập các cân đối giữa các yếu tố sản xuất, các qúa trìmh lao động. Như vậy, kinh tế thị trường đã có sự hiện diện của hợp tác của các quan hệ tỷ lệ cân đối và sự hiện diện tính kế hoạch.
Tính kế hoạch của nền kinh tế xét theo điều kiện thứ hai tức là khả năng nhận thức, duy trì thường xuyên tính cân đối thì không hoàn toàn như nhiều người quan niệm rằng kinh tế thị trường là vô chính phủ, là mù quáng tự phát. điều đó có thể đúng khi nền khi kinh tế ở giai đoạn tự do cạnh tranh hoặc nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa. Còn trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại là nền kinh tế thị trường có sự cvan thiệp của nhà nước thì Nhà nước sử dụng luật lệ kế hoạch và các công cụ khác để điều tiết nền kinh tế.
Tính kế hoạch là một yêu cầu khách quan của việc phát triển kinh tế. yêu cầu này được nhận thức và phản ánh thành một hệ thống các mục tiêu, biện pháp, các phương tiện và thời gian thực hiện với những bước đi cụ thể, trong khoảng thời gian nhất định đó là kế hoạch hoá.
4.Kế hoạch hoá phát triển, bản chất, chức năng, nguyên tắc
4.1.khái niệm :
Kế hoạch hoá phát triển kế hoạch xã hội là phương thức quản lý kinh tế bằng mục tiêu. Nó thể hiện ở việc chính phủ xác định các mục tiêu kinh tế -xã hội cần hướng đến trong một thời kỳ nhất định và cách thức để đạt được mục tiêu đó thông qua chính sách biện pháp định hướng cụ thể.
Kế hoạch phát triển có hai vấn đề :
Lập kế hoạch đó là quá trình lựa chọn các phương án có thể có đẻ xác định một phương án tối ưu cho quá trình phát triển.
Tỏ chức thực hiện: cụ thể hoá các mục tiêu, hệ thống các chính sách thể hiện sự cam kết của chính phủ với các đơn vị kinh tế, thực hiện các phương thức để thực hiện các mục tiêu và chính sách
4.2. Bản chất của kế hoạch hoá và sự thể hiện trong nền kinh tế Việt Nam.
Đặc điểm.
Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa. . Các hình thức sở hữu mang tính hỗn hợp kết hợp giữa sở hữu nhà nước và sỏ hữu tư nhân
,trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ trọng cao. đối với mỗi hình thức sở hữu ứng với một thành phần kinh tế do đó nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
bản chất:
kết hợp giữa kế hoạch hoá trực tiếp và kế hoạch hoá gián tiếp. kế hoạch hoá mang tính trực tiếp được thể hiện trong phần vốn của ngân sách bao gồm vốn viện trợ ODA, vốn vay thương mại. Chúng được Nhà nước phân bổ trực tiếp theo các chương trình và dự án của Nhà nước, phân bổ trực tiếp các nguồn lực khan hiếm như vốn, lao động có tay nghề cao.
Kế hoạch hoá mang tính gián tiếp, điều này được thông qua các chính sách để tác động hướng dẫn, khống chế, kiểm soát hoạt động của khu vực tư nhân để bảo đảm sự thống nhất của khu vực tư nhân với các mục tiêu phát triển dài hạn của đất nước.
Nói tóm lại : kế hoạch hoá phát triển là công đoạn, công nghệ của sự lựa chọn các hoạt động tối ưu và có hiệu quả.
4.3.Chức năng của kế hoạch hoá.
a.Chức năng điều tiết, phối hợp, ổn định kinh tế vĩ mô.
vì thị trường không làm được do thị trường không ổn định, mất cân đối. Do vậy kế hoạch phải bù đắp chỗ trống của thị trường với mục tiêu ổn định kinh tế, tăng trưởng nhanh vàbền vững. Nền kinh tế có thể huy động đầy đủ việc làm với sự ổn định giá cả, mở rộng, ổn định cán cân thanh toán. Biểu hiện :
Xây dựng các kế hoạch quốc gia.
Tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, ôn hoà.
Bảo đảm công bằng xã hội.
b. Chức năng định hướng.
Phản ánh bản chất kế hoạch hoá phát triển so với kế hoạch thị trường, biểu hiện :
Phải xây dựng dược các nội dung mang tính định hướng trong kế hoạch bao gồm :chiến lược, tầm nhìn, kế hoạch, quy hoạch, kế hoạch tác nghiệp.
Xây dựng các chỉ tiêu mang tính chất hướng dẫn, khuyến khích, thuyết phục chứ không mang tính pháp lệnh .
Kiểm tra giám sát.
Biểu hện ở việc theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, theo dõi việc thực hiện chính sách, đánh giá kết quả của mộy quá trình, quy trình sản xuất kinh doanh
5. Những nội dung chủ yếu của kế hoạch hoá.
5.1. xây dựng các chỉ tiêu chiến lược.
Căn cứ vào quan điểm mục tiêu chính trị thì các nhà kế hoạch sẽ xây dựng các mục tiêu chiến lược chủ yếu có liên quan đến việc phát triển kinh tế xã hội trong tương lai của đất nước. Xây dựng cái đích cuối cùng cần phải đạt đến, các mục tiêu chung. Yêu cầu các chỉ tiêu ít, lồng ghép nhau, hình thành các cây mục tiêu.
5.2. Xây dựng các chỉ tiêu phát triển cụ thể.
Cụ thể hoá các mục tiêu, giảm dần các chi tiêu pháp lệnh, tăng dần các chỉ tiêu hướng dẫn và dự báo.
5.3. Kế hoạch toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực.
Phải có kế hoạch tầm quốc gia, trên cơ sở đó xác định các mục tiêu quốc gia, chính sách quốc gia. Cụ thể hoá ở góc độ ngành vùng, tạo lên một sự đồng bộ, nhịp nhàng
5.4. Xây dựng các chương trình dự án.
Yêu cầu số lượng các chương trình khômg nhiều, lồng ghép các chương trnhf. Khi lựa chọn chương trình chọn khâu yếu có liên quan đến sự phát triển trong một thời kỳ.
5.5. Xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Yêu cầo tạo ra được khung bản để hướng dẫn thực hiện, các chính sách phải rõ ràng, cụ thể, đơn giản, đảm bảo tính thống nhất. Các chính sách không mâu thuẫn, chồng chéo, cái đích là thực hiện mục tiêu.
5.6. Thời gian kế hoạch.
Xây dựng kế hoạch dài hạn: 10 năm, 20 năm, chúng tạo nên khung phát triển trong thời gian dài, các mục tiêu mang tính định hướng.
Xây dựng kế hoạch 5 năm: Nó là sự cụ thể hoá của chiến lược, tầm nhìn.
Các kế hoạch ngắn hạn: Cụ thẻ hoá các kế hoạch 5 năm, mang tính tác nghiệp.
Phần II
Quá trình đổi mới (1986 đến nay)
1. Đặc điểm kinh tế xã hội.
Nước ta đã chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng quan hệ hợp tác, tham gia hội nhập kinh tế và các tổ chức xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
2. Những thành tựu quan trọng của công tác kế hoạch hoá.
Từ sau năm 1986, chúng ta thay đổi hệ thống cơ chế quản lý cũ bằng cơ chế quản lý mới. Đến nay một phần quan trọng đã xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập tung, hình thành bước đầu những đường nét của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch hoá và các chính sách khác. Mặc dù, mô hình kế hoạch hoá mới - kế hoạch hướng dẫn trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết - còn chưa hoàn thiện những đã bắt đầu phát huy tính đúng đắn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội Nhờ đó đã góp phần quan trọng hoàn thành toàn diện và vượt mức các mục tiêu kế hoạch chủ yếu đã đề ra về tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội trong nước, tăng sản xuất lương thực, tăng kim ngạch xuất khẩu, huy động vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ, thu hẹp mất cân đối ngân sách, giảm mức tăng dân số, cải thiện đời sống phần lớn hộ gia đình.
2.1. Đại hội Đảng lầ VII (năm 1991) đã xác định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991 á 2000.
Chiến lược này đã được điều chỉnh thông qua Đại hội Đảng lần thứ VIII (năm 1996) với trọng tâm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu:
“Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo điều kiện tiền đề vững chắc cho phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”.
So với cương lĩnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã có những nội dung linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, tạo điều kiện cho việc xây dựng các chính sách kinh tế linh hoạt phù hợp với những biến động thường xuyên của thị trường.
2.2. Chuyển dần dang kế hoạch hoá định hướng.
Trên cơ sở chiến lược này, kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 và 1996 - 2000 đã được xây dựng. Kế hoạch 5 năm đã từng lượng hoá các mục tiêu chiến lược phát triển ở mức độ cho phép. Trong công tác học tập, điều hành kế hoạch 5 năm đã có sự thay đổi lớn về nội dung và phương pháp như sau: Tăng cường kế hoạch hoá vĩ mô, từng bước xoá bỏ kế hoạch mệnh lệnh và giảm tối đa các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển sang kế hoạch định hướng các lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ; đã chú ý nhiều hơn đến kế hoạch hoá giá trị; xây dựng và thực hiện các chương trình và dự án quốc gia, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại.
2.3. Tăng cường công tác quy hoạch.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các vùng, các ngành kinh tế là xây dựng các khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp các căn cứ khoa học cho các cấp để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình dự án đầu tư, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả.
Từ đầu những năm 1990, Chính phủ đã chỉ đạo việc triển khai lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của 8 vùng kinh tế. Đồng thời tất cả các tỉnh và thành phố trong cả nước đều triển khai nghiên cứu quy hoạch tổng thẻe đến năm 2020. Các quy hoạch phát triển này được xây dựng dựa trên chiến lược hướng về xuất khẩu, tìm ra và phát huy lợi thế từng vùng và liên kết giữa các vùng nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các giải pháp thực hiện quy hoạch tổng thể không chỉ quan tâm đến nguồn và hướng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mà còn chú trọng đến nhân tố con người, đến sự phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới quản lý sản xuất.
Nhìn chung công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước đầu, đã gắn mục tiêu của chiến lược vào nội dung quy hoạch, xác định được tiềm năng, định hướng phát triển cho từng vùng, từng địa phương. Tài liệu quy hoạch đã giúp cho các cấp lãnh đạo Trung ương, địa phương bước đầu xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tăng cường sự chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội ở từng địa phương và trong cả nước.
2.4. Kế hoạch hàng năm
Kế hoạch hàng năm là kế hoạch điều hành, đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân đối tài chính, tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Chính sách tài khoá, chính sách tỷ giá đã được hoạch định và được sử dụng hợp lý đã trở thành nhân tốn quan trọng đối với việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. thực tế nói trên chứng tỏ ý tưởng chuyển đàn việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang vĩ mô, các cân đối vĩ mô ngày càng thể hiện rõ.
2.5. Xây dựng và thực hiện các chương trình mục tiêu.
Việc chú trọng kế hoạch hoá đầu tư phát triển và tăng cường công tác kế hoạch hoá theo dự án và các chương trình mục tiêu đã góp thúc đẩy quá trình hình thành cơ cấu mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng việc kế hoạch hoá theo dự án, theo các chương trình quốc gia đã đạt được một số kết quả tích cực. Trên cơ sở những kết quả đạt được, việc xây dựng các chương trình mục tiêu và các chương trình quốc gia cần được nghiên cứu để trở thành một phương pháp quan trọng trong xây dựng các kế hoạch trong thời gian tới.
2.6. Đổi mới hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch.
Hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh đã được rút gọn đáng kể, chỉ còn chỉ tiêu thu, chi ngân sách Nhà nước, phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Xoá bỏ việc giao các chỉ tiêu về lưu thông vật tư, hàng hoá quan trọng nhằm ổn địng cung cầu.
Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị; các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể, đồng thời duy trì một số cân đối hiện vật chủ yếu. Hệ thống cân đối hiện vật thiết yếu như: xăng dầu, lương thực đã tỏ ra là cần thiết cho ổn định kinh tế - xã hội, các bảng cân đối giá trị ngày càng được mở rộng và nâng cao.
Ngoài xu hướng “Giá trị hoá”, trọng tâm của các chỉ tiêu kế hoạch đang chuyển dần sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội.
2.7. Đổi mới quy trình lập kế hoạch.
Thời gian qua, quy trình lập kế hoạch đã có những thay đổi căn bản. Hình thức giao sổ kiểm tra đã được thay thế bằng việc cung cấp các thông tin cần thiết nhằm hươngs dẫn các ngành, địa phương, đơn vị, cơ sở xây dựng tổng hợp kế hoạch theo hướng mục tiêu chung của Nhà nước. Bên cạnh việc cung cấp những thông tin hướng dẫn, Bộ kế hoạch và đâù tư còn căn cứ các đoàn, các địa phương để hỗ trợ, giúp đỡ và giải quyết vướng mắc mà các địa phương gặp phải trong thời gian xây dựng kế hoạch. Quy trình lập kế hoạch mới đã hạn chế việc áp đặt hành chính chủ quan của cấp trên đối với cấp dưới, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các ngành, các cấp chính quyền địa phương cũng như các doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch.
Trong khi xây dựng và tổng hợp kế hoạch đã chú trọng nhiều hơn nữa đến các kế hoạch hoá công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, y tế, thể dục thể thao, xoá đối giảm nghèo mà trước đây thường bị xem nhẹ và chưa gắn với kế hoạch phát triển kinh tế. Công tác kế hoạch hoá ở các lĩnh vực này sau một thời gian dài xuống cấp, trì trệ thì nay đã có nhiều thay đổi, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển.
Công tác dự báo, thông tin bước đầu được tăng cường, phương pháp tính toán kế hoạch được sửa đổi phù hợp dần với thông lệ quốc tế.
2.8. Đổi mới phương thức điều hành kế hoạch.
Đổi mới công tác điều hành kế hoạch trong thời gian qua không chỉ thể hiện ở tính kịp thời mà còn được thể hiện rõ nét trong việc sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô gián tiếp như: lãi suất, tỉ giá, thuế suất và định hướng đầu tư của Nhà nước... Do đó, một mặt sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan Nhà nước vào công việc kinh doanh của các cơ sở kinh tế đã giảm bớt; mặt khác các cơ sở kinh tế đã có nhiều cố gắng trong việc phát huy khả năng tự chủ, xác định những lợi thế cạnh tranh phù hợp với những điều kiện thay đổi của thị trường.
Quá trình điều hành kế hoạch đã chú ý nhiều hơn đến việc dự báo ngắn hạn, điều chỉnh kịp thời các mục tiêu cũng như các biện pháp kinh tế, sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô cũng như sử dụng các cơ chế chính sách và lực lượng vật chất để bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, định hướng và thúc đẩy thực hiện kế hoạch. Nếu trước đây kế hoạch chủ yếu tập trung vào kinh tế quốc doanh với kế hoạch hoá trực tiếp là chính, thì nay đã bước đầu mở rộng kế hoạch định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội, chủ yếu thông qua kế hoạch hoá gián tiếp.
Công tác điều hành kế hoạch đã có những chuyển biến rõ rệt, từng bước đáp ứng những yêu cầu đặt ra; các công cụ pháp lụât và chính sách kinh tế được phối hợp để tạo ra hành lang cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hoạt động và hoạt động một cách có trật tự, đúng pháp luật góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc điều hành của chính phủ trong quá trình thực hiện mục tiêu kế hoạch hàng năm đã có hiệu quả và tác dụng thiết thực, kịp thời xử lý những diễn biến bất thường ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng cho sự ổn định kinh tế đất nước.
Trong quan hệ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp, Nhà nước sử dụng kế hoạch vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động bằng cơ chế, chính sách kinh tế và công cụ pháp luật, trên cơ sở đó mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, xoá dần bao cấp.
3. Những tồn tại.
Mặc dù việc đổi mới kế hoạch hoá trong thời gian qua có nhiều tiến bộ đáng kể nhưng do nhiều lý do, kết quả của đổi mới kế hoạch hoá còn hạn chế, thậm chí ở cả Trung ương và địa phương xy hướng giữ lại hoặc trở lại kế hoạch hoá kiểu cũ vẫn còn khá mạnh, ngay trong mội bộ phận của Nhà nước và một phần của dư luận công chúng không bao cấp còn nặng vấn đề đổi mới kế hoạch hoá gắn bó rất chặt với đổi mới quản lý Nhà nước. Do vậy nếu không giải quyết đồng bộ thì đổi mới kế hoạch không dẽ dàng đi vào cuộc sống.
Quá trình đổi mới vừa qua đã giảm bớt sự bao cấp trong nền kinh tế, đặc biệt là bao cấp qua ngân sách, trong một số hình thức bao cấp khác lại xuất hiện ở những lĩnh vực khác như: Khoanh nợ, xoá nợ, cấp đất. .. Những nội dung này được thể hiện trong kế hoạch hoặc hoạt động điều hành kế hoạch.
Nhiều văn bản chính sách khẳng đinh chuyển hướng chỉ đạo từ kế hoạch hiện vật sang kế hoạch định hướng sang thực tế nội dung kế hoạch vẫn chưa chú ý đúng mức đến cân đối lớn của toàn nền kinh tế, một số Bộ, địa phương vẫn coi trọng những dự án, những công trình cụ thể. Xu thế “kế hoạch vật chất” và ỷ lại vào cấp trên có chiều hướng gia tăng: Các địa phương, các ngành cố gắng xin thậtnhiều dự án, nhiều chương trình; những phần đóng góp cho ngân sách vào nền kinh tế không tương xứng với đầu tư bổ sung. Mặt khác, kế hoạch không chỉ chịu sự ảnh hưởng của các cơ quan trong hệ thống kế hoạch mà còn chịu sự tác động của nhiều tổ chức khác ngoài hệ thống kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch jđầu tư càng bị phân tán hơn. bên cạnh đó, kế hoạch còn phải thông qua nhiều cấp nên thường có xu thế “chưa đều”, tiếp tục tác động làm tăng sự phân tán đồng thời giảm hiệu quả đwuf tư.
Các thông tư kinh tế xã hội không chính xác, thiếu ăn khớp và không được phân tích đầy đủ trong quá trình xây dựng kế hoạch đã làm cho kế hoạch nhiều khu không phù hơpj với thực tế nguồn lực được đánh giá cao, nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài không được dự báo chính xác và với sự nóng vội, chủ quan đã làm cho kế hoạch phần nào còn mang tính chủ quan duy ý chí.
Hiện nay vẫn còn không ít hạn chế bắt nguồn từ bản chất của nền kinh tế chuyển đổi, từ sự sơ khai của các loại thị trường, năng lực của Nhà nước và những yếu kém của hệ thống kế hoạch. Những yếu kèm này không thể khắc phục trong thời gian ngắn, song đòi hỏi sự kiên trì trong đổi mới kinh tế, kết hợp với cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường lẫn kế hoạch nhằm góp phần phát triển kinh tế, nâng cao mức sống vật chất tinh thần trong xã hội. Những vấn đề đáng lưu ý ở đây là: Chất lượng quy hoạch thấp; chưa nắm bắt được diễn biến tình hình kinh tế xã hội từng vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa; các cơ chế chính sách chậm triển khai, chưa theo kịp các mục tiêu kế hoạch, các chính sách còn chưa ổn định và thiếu nhất quán và việc điều hoà , phối hợp giữa các công cụ trong điều hành còn nhiều lúng túng nên hiệu quả chưa cao ...
3.1. Về nội dung phương pháp kế hoạch hoá.
Việc xây dựng chiến lược và kế hoạch 5 năm thường được thực hiện nhằm phục vụ mỗi kỳ đại hội Đảng, sau đó việc triển khai thực hiện những mục tiêu chiến lược và kế hoạch 5 năm thường bị phân cấp, phân tán và chia cắt theo từng ngành, địa phương, chưa có sự khâu nối đồng bộ chung. Các cấp các ngành quan tâm nhiều nhất đến chỉ tiêu vốn, các chỉ tiêu khác thường được coi nhẹ.
Quá trình hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế đã làm tăng các yếu tố phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào những biến động quốc tế và khu vực. Trong điều kiện đó, tính “tĩnh” tương đối của hệ thống mục tiêu trung và dài hạn chưa được thường xuyên xem xét và điều chỉnh phù hợp với tính “động” của môi trường kinh tế xã hội. Đó là một lý do quan trọng làm cho chiến lược, kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm thời gian quan chưa thật ăn khớp với nhau, hiệu lực thực tế còn chưa cao.
Điều đó thể hiện trong phương pháp luận, từ khâu phân cấp, phân ngành dẫn đến sự ôn đồm chung nội dung kế hoạch. Mục tiêu của kế hoạch vừa nhiều, vừa cao hơn khả năng có đảm đương cả về năng lực thực hiện lẫn lực lược vật chất. Nguồn lực của xã hội hạn chế bị dãn mỏng ra quá nhiều, mục tiêu mang nặng dấu ấn bao cấp và do vậy được sử dụng kém hiệu quả. Các dự án, đặc biệt là các dự án sử dụng ngân sách Nhà nước rất phân tán, lại do thiếu vốn nên việc thực hiện thường bị kéo dài. Bên cạnh đó, những chỉ tiêu thể hiện tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chưa được coi là chỉ tiêu hàng đầu trong việc xem xét phê duyệt dự án đầu tư và đưa vào kế hoạch thực hiện.
Nội dung của kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch phát triển theo vùng, theo lãnh thổ còn chưa tính đến đầy đủ các yếu tố hội nhập, quốc tế hoá, cũng như chưa phân tích kỹ lưỡng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Thực tế trên đã không thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đến khả năng cạnh tranh, hiệu quả trên thị trường thế giới và thị trường trong nước, làm giảm hiệu quả chung của nền kinh tế. Do thiếu một động lực mạnh, đồng thời thiếu sức ép của cạnh tranh, phá sản, nhiều doanh nghiệp nhà nước còn chưa quan tâm đến hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhiều biến động ngoài xã hội cũng không được quan tâm một các đầy đủ khi xây dựng kế hoạch đã làm cho việc thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn.
Trong nội dung kế hoạch, phần nghiên cứu và vận dụng cơ chế chính sách còn chưa thật tương xứng, chưa cụ thể được chiến lược, chưa bao quát được các thành phần kinh tế, chưa chú ý được tính đặc thù các vùng, các địa phương. Nhiều vấn đề trong chính sách vĩ mô còn chưa được xác định rõ và nhất quán, các chính sách đòn bẩy còn nhiều lúng túng. Cách thức thực hiện chính sách vẫn mang nặng tính can thiệp hành chính, áp đặt mà chưa chú trọng vận dụng cơ chế thị trường để thiết kế và thực hiện chính sách.
3.2. Về phối hợp và điều hoà kế hoạch.
Hệ thống kế hoạch theo ngành, theo địa phương và theo vùng lãnh thổ vẫn chưa liên kết và phối hợp chặt chẽ với nhau để trở thành một hệ thống kế hoạch tổng thể kinh tế quốc dân. sự phân cấp giữa Trung ương và địa phương, cũng như sự phân công giữa các ngành với nhau còn chưa rõ ràng dẫn đến hậu quả là hầu như mọi diễn biến bất thường đều đưa lên Chính phủ giải quyết, làm cho Chính phủ luôn ở thế bị động trong điều hành, nhiều khi phải chấp nhận những giải pháp không bao quát, chỉ hướng đến lợi ích của một số địa phương, một số ngành, thậm chí một số doanh nghiệp, có thể gây hại cho lợi ích toàn cục.
Sự can thiệp trực tiếp thường xuyên của các cơ quan Nhà nước đã làm giảm tính ổn định của chính sách, gây khó khăn cho các nhà kinh doanh. Ngoài ra, chế độ phân cấp chưa rõ ràng còn làm cho các cấp chính quyền địa phương chưa nhận rõ trách nhiệm của mình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV396.doc