Mục lục
Lời mở đầu. 1
A.lý luận chung về lãi suất và tự do hoá lãi suất . 2
1.Lãi suất. 2
1.1Một số khái niệm về lãi suất 2
1.2.Vai trò của lãi suất . 3
1.2.1.Lãi suất với sự phân bổ các nguồn lực. 3
1.2.2.Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. 4
1.2.3.Lãi suất với đầu tư. 4
1.2.4.Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu. 5
1.2.5.Lãi suất với lạm phát. 5
2.Tự do hoá lãi suất . 6
2.1.Những bất lợi của cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp. 6
2.2.Lý luận chung về tự do hoá lãi suất . 6
2.3.Tại sao phải tiến hành tự do hoá lãi suất . 7
B.Chính sách lãi suất và quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. 9
1.Quá trình nới lỏng cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam. 9
1.1.Giai đoạn trước năm 1992. 9
1.2.Giai đoạn từ cuối năm 1992 tới đầu năm 1996. 10
1.3.Giai đoạn từ cuối 1996 đến 8/2000. 10
1.4.Giai đoạn từ 8/2000 đến nay. 11
2.Tại sao Việt Nam lại chọn hình thức tiệm tiến trong cải tổ cơ chế điều hành lãi suất? 12
3.Liệu tốc độ điều tiết lãi suất của Việt Nam thời gian qua có quá chậm?
4.Đánh giá ngững thành công và hạn chế của việc nới lỏng điều tiết lãi suất . 13
4.1.Những thành công. 14
4.2.Những hạn chế. 17
C.Một số giải pháp cho quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất. 19
1.Kinh ngiệm của các nước trong quá trình tự do hoá lãi suất. 19
2.Những điều kiện để tự do hoá lãi suất thành công ở Việt Nam. 21
3.Một số giải pháp để tiến hành tự do hoá lãi suất ở Việt Nam 21
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hướng tới tự do hoá lãi suất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, muốn phát triển nền kinh tế một cách mạnh mẽ lành mạnh nhất thiết phải từ bỏ cơ chế kiểm soát này để có thể tận dụng được mọi nguồn lực trong nước nhằm tránh sự lãng phí .
Thứ nhất , lãi suất được tự do hoá , biến động theo cung cầu về vốn , có thể phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho những người vay một cách có hiệu quả nhất ; đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi với chi phí hợp lý nhất được cả ngân hàng và người gửi chấp nhận. Điều này không thể thực hiện được trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát hành chính , làm cho các hoạt động đầu tư bị biến dạng . lãi suất được tự do hoá sẽ linh hoạt hơn so với khi bị kiểm soát , có khả năng điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi , tự động tạo ra sự kích thích cho tăng trưởnn tài chính cải tiến và thay đổi cơ chế hành chính , cải tiến và thay đổi cơ câú mà chính phủ hoặc là không thể quản lý hoặc là chậm thu được kết quả .
THứ hai việc thực hiện tự do hoá lãi suất cũng xuất phát từ thực tế là không được chính phủ hay của NHTƯ naò có đủ khả năng để phân bổ và kiểm soát nguồn vốn một cách có hiệu quả cho hàng ngàn nhu cầu sử dụng vốn khác nhau ,cho dù bộ maý hành chính và thanh tra ngân hàng có lớn đến đầu đi chăng nữa chúng ta có thế thấy được rằng có rất nhiều quan điểm khác nhau về mức lãi suất của hệ thống ngân hàng . các chính trị gia , những người đi vay vốn nói chung , các doanh nghiệp mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước nói riêng thì mong muốn làm sao có được những khoản vay với mức lãi suất có thể được ( ta thấy điều cũng khó có thể thoả mãn một cách tuyệt đối ), trong khi đó cac NHTM thì muốn duy trì mức lãi suất cao ( một điều dẽ hiểu vì họ cũng là các nhà kinh doanh , hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu có lợi nhuận cao nhất ) , từ đây chúng ta có thể thấy được mâu thuẫn đã nảy sinh giữa người đi vay và người cho vay . Mối người đứng trên các quan điểm riêng của mình và có những cách đối sử khác nhau . Nhiều lúc vấn đề này được đưa ra bản thảo một cách gay gắt tuy nhiên không có lời giải cuối cùng , và ngưòi ta cũng không thể có bằng chứng thuyết phục nhằm đưa ra được một mức lãi suất hợp lý . Để giảm thiểu những tranh luận này cách tốt nhất là để lãi suất cho thị trường quyết định , tức là tự do hoá .
Thứ ba, chúng ta đang sống trong một môi trường đang diễn ra toàn cầu hoá, mà toàn cầu hoá tài chính là điển hình nhất của quá trình này . Trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu hoá đặt ra những cơ hội và thách thức mới, trong đó một thách thức lớn là giảm kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp như quy định trần lãi suất ; thay vào đó, để bảo đảm kiểm soát tiềm tệ được hiệu quả, các nước dần chuyển sang thực hiện các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại…,tức là các công cụ định hướng thị trường. Để đảm bảo hội nhập thành công trong lĩnh vực tài chính trước hết lãi suất phải được tự do hoá.
Thứ tư, tự do hoá cho phép ngân hàng tự chủ hơn, và điều đó sẽ dẫn đến lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay như vậy trong lĩnh vực tài chính sẽ tác động đến các doanh nghiệp và các hộ gia đình khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi ngân hàng sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, và do đó sẽ thay thế cho nguồn đi vay nước ngoài để tài trợ cho đầu tư. Nguồn tiết kiệm nội địa này được chuyển tải thông qua hệ thống tài chính ngân hàng chính thức mà không phải thông qua thị trường tiền tệ không chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và lãi suất thực cao hơn dẫn đến mở rộng đầu tư và làm tăng hiệu quả đầu tư. Kết quả là làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa việc tăng lãi suất có thể thu hẹp khoảng chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, từ đó có thể tránh được hiện tượng ngoại tệ hoá(tức là người dân trong nước sẽ không nắm giữ ngoại tệ như trước đây khi lãi suất chênh lệch quá lớn giữa hai đồng tiền ) nền kinh tế.
Những lý do trên đã cho chúng ta thấy việc tiến hành thực hiện tự do hoá lãi suất là cần thiết cho bất cứ một quốc gia nào mong muốn phát triển nền kinh tế của nước mình một cách lành mạnh, tuy nhiên trong quá trình tiến hành tự do hoá lãi suất cần phải có những bước đi những cách thức thận trọng, hợp lý, có cân nhắc, tránh nóng vội để có thể loại bỏ được những tác động tiêu cực của nó có thể gây ra cho nền kinh tế xã hội.
B.Chính sách lãi suất và quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
1.Quá trình nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam.
Quá trình đổi mới cả về tổ chức và cơ chế chính sách hoạt động của ngân hàng sang cơ chế thị trường cũng là quá trình đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất . Chính sách lãi suất của nhà nước ta trong những năm qua đã đổi mới rất mạnh mẽ nhưng cũng rất thận trọng, đi đần từng bước phù hợp với từng giai đoạn trên con đường tiến tới chính sách lãi suất thị tr\ường theo hướng tự do hoá lãi suất. Diễn biến quá trình nới lỏng chính sách lãi suất trong thời kỳ đổi mới có thể chia thành các giai đoạn:
1.1.Giai đoạn trước năm 1992.
Mặc dù từ năm 1990 nhà nước ta đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng nhằm tách hệ thống ngân hàng một cấp thành ngân hàng hai cấp, từng bước chuyển hoá hoạt động của ngân hàng sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên do lạm phát còn ở mức độ rất cao nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được lãi suất dương mà vẫn theo lãi suất âm. NHNN quy định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay để các NHTM thực hiện. Đặc điểm lãi suất thời kỳ này là:
-Lãi suất tiền gửu thấp hơn tỉ lệ lạm phát.
-Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động .
1.2.Giai đoạn từ cuối 1992 đến đầi 1996 .
Trong giai đoạn này nhà nước thực hiện chính sách lãi suất thực dương, tỉ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức thấp. Từ 1/10/1993 NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận vuợt mức cho vay cụ thể (QĐ 184/QĐ-NH1 ngày 28/9/1993).
Lãi suất thoả thuận được hiểu là: nếu ngân hàng thiếu vốn thì được phép phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn tối đa 0.2%/tháng và cho vay vơi lãi suất cao hơn mức 2,1%/tháng trên cơ sở thoả thuận vơi khách hàng theo phương châm ngân hàng kinh doanh được và người vay chấp nhận được .Với cơ chế này mức chênh lệc giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao (từ 0,7%-1%/tháng). Nên hầu hết các ngân hàng đều có lợi nhuận cao, tuy nhiên thiệt hại do các cá nhân doanh nghiệp vay vốn. Thời kỳ này lãi suất này bắt đầu được sử dụng như một công cụ của chính sách tiền tệ, cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực .
1.3.Giai đoạn từ 1996 đến 8/2000.(cơ chế điều hành trần lãi suất được duy trì)
Theo quy định, NHNN khống chế lãi suất cho vay tối đa và quy định khống chế chênh lệch bình quân giữa lẫi suât cho vay và lãi suất huy động vốn ở mức 0.35%/tháng (bao gồm cả phí, thếu và lợi nhuận)
Trần lãi suất thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong năm 1998, 1999. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này ( từ 1.1%/tháng năm 1997 còn 0.7%/tháng từ 1/1/1999).
Đây là lần đầu tiên các tổ chức tín dụng được tự do áp dụng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong phạm vi giới hạn của nhà nước. Chính sách lãi suất đã kích thích hoạt động tín dụng buộc các NHTM chuyển hướng hoạt động đa năng, đổi mới cung cach phục vụ, mở mang thêm các loại hình dịch vụ tín dụng góp phần đa năng hoá kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Thành quả lớn nhất mà cơ chế trần lãi suất mang lại chính là tạo các cơ hội giảm chi phí một cách bình đẳng với mọi thành phần doanh nghiệp, tăng thêm động lực cho guồng máy kinh tế góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước. Có thể thấy việc điều chỉnh chính sách lãi suất trong thời kỳ này nhằm tiến tới một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu và thúc đẩy đầu tư tiêu dùng.
1.4.Giai doạn từ 8/2000 đến nay.
Đến ngày 2/8/2000 NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất : xoá bỏ cơ chế trần lãi suất, qui định cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với lãi suất cho vay bằng nội tệ và cơ chế thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.
Theo điều 18 của luật NHNN Việt nam qui định “NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”
Khoản 12 điều 9 luật NHNN Việt nam giải thích “lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”.
Khi xác định và công bố lãi suất cơ bản phải căn cứ vào:
-Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế.
-Chỉ số lạm phát dự kiến trong năm.
-Lãi suất gửi tiền phải thực dương.
-Tình hình cung cầu vốn trên thị trường.
-Lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước trong các phiên đấu thầu gần nhất.
-Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất ngoại tệ với lãi suất nội tệ.
-Thậm chí cả tình kinh tế chính trị trong và ngoài nước.
Theo đó mức lãi suất cho vay bằng mức lãi suất cơ bản cộng với tỷ biên độ giao động. NHNN công bố lãi suất cơ bản và biên độ giao động từng thời điểm trên cơ cung cầu tín dụng trong nền kinh tế Việt Nam và lãi suất trên thị trường quốc tế. Mới đây 5/2001 NHNN tuyên bố tự do hoá lãi suất đối với đồng ngoại tệ.
Nội dung điều hành lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất thị trường phản ánh được tình hình cung cầu tín dụng trong nền kinh tế. Mặt khác đảm bảo được sự kiểm soát của NHNN, phù hợp với luật pháp và thực tiễn Việt nam.
Tóm lại chính sách lãi suất phù hợp phải là cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng mà chủ yếu là các nhà kinh doanh. Lãi suất gắn vơ quan hệ cung cầu vốn. Khi nào điều kiện cho phép NHHN có thể tự do hoá lãi suất trên cơ sở lãi suất cơ bản của luật NHNN Việt nam qui định. Có như vậy lãi suất tín dụng mới trở thành đòn bẩy trong cơ chế tạo vốn và sử dụng vốn của NHTM.Tự do hoá lãi suất tạo động lực cạnh trong các NHTM. Cạnh tranh thúc đẩy tiến bộ và phát triển trong hoạt động ngân hàng.
2. Tại sao Việt Nam lại chọn hình thức tiệm tiến trong cải tổ cơ chế điều hành lãi suất.
Có thể nói đổi mới kinh tế Việt nam cùng với cải tổ khu vực tiền tệ ngân hàng đã diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô không được ổn định, khu vực tài chính quốc gia khó khăn tiền lực tài chính cũng như trình độ chuyên môn của hệ thống tài chính và khu vực sản suất thấp, chính vì vậy, việc lựa chọn hình thức tiệm tiến trong cải tổ lãi suất lãi suấtà hoàn toàn phù hợp.
Về mặt lý thuyết, cũng như kinh nghiệm của các nước chỉ ra rằng, việc tự do hoá hoàn toàn lãi suất trong điều kiện nền kinh tế vĩ mô bất ổn có thể gây ra khủng hoảng tài chính kinh tế. Điểm hình cho các hình thức thả nổi lãi suất trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định lãi suất là Achentina, Chilê và uraguay. Cả ba nước này đều rơi vào khủng hoảng. Tại sao vậy? Việc thả nổi lãi suất trong điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định thường làm tăng mạnh lãi suất để bảo hiểm rủi ro lãi suất, lạm phát cao không dự đoán trước được. Rủi ro đạo đức sẽ xẩy ra khi các ngân hàng lại lựa chọn các nhà đầu tư với các dự án có khả năng sinh lời cao để cấp tín dụng. Bên cạnh đó, lãi suất thực quá cao gây ra sự đổ vỡ hàmg loạt các đơn vị kinh tế có tỷ lệ sinh lời trung bình, nợ quá hạn và không có khả năng thu hồi trong khu vực ngân hàng. Đối với nền tài chính quốc gia, những khó khăn cũng bùng phát, một phần do quá trình tự do hoá khu vực sản xuất(thường đi trước hoặc ít nhất lãi suất đi cùng với tự do hoá tài chính) làm mất đi nguồn thu thuộc sở hữu trước đây, bên cạnh đó lãi suất tăng mạnh lãm tăng các nghĩa vụ nợ của Chính phủ. Nghiêm trọng hơn, ở các nước này quá trình tự do hoá lãi suất thực đã làm gia tăng nhanh chóng vấn đề nợ nước ngoài . Khối tiền trong nước tăng mạnh cùng với nguồn ngoại tệ đổ vào gây áp lực hơn nữa đối với vấn đề lạm phát. Tình hình ngày càng nghiêm trọng và các trương trình ổn định với việc tái can thiệp của nhà nước đã xuất hiện hoặc khủng hoảng đã diễn ra.
Thực tế Việt nam cũng minh chứng rằng, việc lựa chọn hình thức tiệm tiến là thích hợp. Thứ nhất, chương trình thí điểm lãi suất thoả thuận vào năm 1993 ngay lập tức cho thấy rằng lãi suất bị đẩy lên vượt xa so với tỷ lệ sinh lợi trong nền kinh tế 3,5%/tháng. Đó cũng chính là lý do buộc NHTƯ phải chấm dứt chương trình thí điểm này vào năm 1995. Thứ hai, thâm hụt ngân sách thời điểm cải tổ nền kinh tế rất cao, bình quân những năm 86-90 là 7,8% GDP. Thứ ba, mặc dù hệ thống ngân hàng đã được tăng cường đáng kể về mắt số lượng, nhưng tiềm lực tài chính rất mỏng, chuyên môn và công nghệ ngân hàng còn sơ khai, sự độc quyền vẫn phổ biến. Trong những điều kiện như vậy, việc thị trường hoá lãi suất theo liệu pháp sốc chắc chắn sẽ đẩy lãi suất lên rất cao. Ngoài ra, khả năng chống đỡ của khu vực sản xuất đối với việc tăng lãi suất thực cao hơn nữa ( nêu có ) rất thấp cũng là một lý do hạn chế việc theo đuổi hình thức thả nổi ngay lập tức lãi suất . Thức tế, sự đổ vỡ của khu vực tín dụng ngân hàng và các đơn vị kinh tế vào những năm 80-90 do lãi suất quá cao là một minh chứng cho vấn đề này. Thời gian sau đó , tình hình hầu như cũng không được cải thiện. Sự bùng phát các đơn vị kinh tế và khu vực trung gian tài chính đã tạo ra một mậng lưới các đơn vị kinh tế và trung gian tài chính với tiềm lực tài chính rất mỏng. Đối với các đơn vị kinh tế vốn vay thường chiếm tới 80%-90% tổng vốn sản xuất. Hơn thế nữa, cỏ chế tài chính lỏng lẻo đã làm cho hầu hết các đơn vị kinh tế đều có những vấn đề tài chính. Sự ưu đãi có tính bao cấp nguồn tín dụng cho các DNNN đã ngày càng đẩy phu vực này ngập sâu vào nợ lần; Chất lượng tín dụng cũng như trình độ chuyên môn của khu vực tài chính không được cải thiện. Nói tóm lại, tiềm lực tài chính hay khả năng trống đỡ với lãi suất thực cao của toàn bộ khu vực sản xuất cũng như hệ thống trung gian tài chính vẫn rất thấp.
3. Liệu tốc độ điều tiết lãi suất của Việt nam trong thời gian qua có quá chậm?
Lựa chọn hình thức nới lỏng lãi suất là hoàn toàn đúng đắn, nhưng cho tới đầu năm 2000 trần lãi suất vẫn được sử dụng. Phải chăng tốc độ điều tiết lãi suất của Việt nam thời gian qua là quá chậm?
Thực tế thời gian tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở các nước nói chung là trên dưới 10 năm. ở Nhật bản là 15 năm(từ năm 1979-1994). Đối với nước ta, thời gian cho tự do hoá lãi suất có thể còn dài hơn vì chúng ta còn phải xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng hai cấp. Hơn thế nữa cũng trong thời gian qua hàng loạt các sự kiện đã xẩy ra và một trong số đó đã hạn chế tiến trình tự do hoá lãi suất của Việt nam.
Thứ nhất, việc sụt giảm giá đất vào giữa những năm 90 đặc biệt là ở những thành phố lớn đã có sự thay đổi chưa từng có. Đầu thập kỷ 90 việc cải tổ nền kinh tế đã làm cho kinh tế tăng trưởng và thu nhập đầu người tăng mạnh. Giá đất tăng vọt và kích thích nhiều hoạt động kinh tế mở rộng hơn nữa trong đó có tín dụng ngân hàng. Mặc dù vốn vay chiếm tới 80%-90% tổng vốn sản xuất tiền lực tài chính của các đơn vị kinh tế rất mỏng nhưng tín dụng vẫn được cấp ra trên nguyên tắc đảm bảo tài sản cầm cố thế chấp cho vay nợ tín dụng, đó là do sự tăng giá của bất động sản. Hơn thế nữa hệ thống pháp luật và những nguyên tắc thận trọng đối với hệ thống trung gian tài chính vẫn còn sơ khai , cho tới năn 95 hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng vẫn còn hoạt động theo hai pháp lệnh ngân hàng; hiệu quả hoạt động của hệ thống thanh tra giám sát không cao, nên việc đắt vấn đề nới lỏng hơn nữa việc điều hành lãi suất có thể chưa chín muồi.
Thứ hai, Việt nam tham gia AFTA từ năm 1995: đây cũng là một nhân tố hạm chế tốc độ tự do hoá lãi suất kinh doanh. ở nước ta hệ thóng sản xuất mà tiêu chuẩn chất lượng và giá cả vẫn đang là vấn đề nổi nên trong cạnh tranh và nguồn vốn chính yếu cho quá trình sản xuất và vốn tín dụng, thì việc tự do hoá lãi suất mà hệ quả là lãi suất thực tăng lên sẽ buộc phải tiến hành thận trọng hơn
Thứ ba, các công cụ điều tiết gián tiếp chưa thực sự hoạt động . Cho đến nay việc tạo ra các công cụ để điều tiết lãi suất vẫn chưa có hiệu quả . Công cụ lãi suất được sử dụng trên cửa sổ triết khấu hiện nay là tái cấp vốn. Việc sử dụng khế ước vay vốn để tái cấp vốn làm kém đi điều kiện cân đối tiền hàng trong nền kinh tế. Hơn thế nữa , việc thiếu vắng các thị trường thứ cấp của các khế ước vay nợ làm yếu đi nguyên tắc tiền TƯ khan hiếm.Chất lượng các khế ước đem triết khấu thấpcũng làm giảm tính hiệu quả của quản lý tiền tệ.
4. Đánh giá những thành công và hạn chế của việc nới lỏng điều tiết lãi suất.
Những thành công.
Quán triệt cơ chế lãi suất dương là nhân tố quan trọng chặn đứng tình trạng siêu lạm phát trong nền kinh tế vào những năm cuối thập kỷ 80. Lượng tiền đang tràn lan trong lưu thông bị cuốn hút vào khu vực trung gian tài chính đã nhanh chóng đóng góp vào việc kéo từ lạm phát phi mã xuống còn lạm phát hai coa số. Tiết kiệm nền kinh tế do đó làm tăng vọt (tất nhiên một nguyên nhân quan trọng khác đối với tỷ lệ tăng vọt tỷ llẹ tích luỹ là việc chấp nhận nền kinh tế hàng hoá đa thành phần, khơi dậy mọi tiềm năng của các lĩnh vực trong nền kinh tế).
-Cơ chế lãi suất dương là một trong các nhân tố thúc đẩy sự phát triển nhanh cháng của mạng lưới các TCTD trong nền kinh tế.
-Sự phát triển của hệ thống trung gian tài chính, sự tăng vọt tiết kiệm trong nước là nền tảng cho hoạt động vay và cho vay của hệ thống các TCTD. Có thể cói đối với môti nền kinh tế hoạt động chủ yếu bằng vốn vay(80%-90% )thì việc theo đuổi cơ chế lãi suất dương kéo theo sự phát triển hoát động của hệ thống ngân hàng là một kênh quan trọng đối với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thập kỷ qua.
-Việc theo đuổi tự do hoá lãi suất theo hình thức tiệm tiến và việc kết hợp tương quan lãi suất nội ngoại tệ cùng với các biện pháp tài chính tiền tệ hợp lý khác có tác dụng tích cực trong việc ngăn chặn dòng chuyển dịch nguồn tiền tệ, quản lý ngoại hối đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng.
Vào năm 1998 , khu vực tiền tệ-ngân hàng phải đối mặt với những hệ quả nghiêm trọng của khủng hoảng Châu á, áp lực giảm giá VNĐ suất hiện không chỉ bắt nguồn từ các hoát động hữu hìngân hàng, cụ thể là tình trạng xấu đi nhanh chóng của hoạt động đối ngoại (năm 1997 tỷ lệ tăng trưởng suất khẩu chỉ đát 22,0% so với mức tăng 34,4% năm 1995 và 33.2% năm 1996, số vốn đầu tư trực tiệp chỉ bằng 73% năm 1996). Mà hiệu ứng tâm lý lan truyền về sừ phá giá của đồng Viết nam tiếp theo sự phá giá của hàng loạt các đồng tiền khác trong khu vức châu á đã gây ra ngân hàng những bất ổn trên thị trường ngoại hối.
Trong bối cảnh ngân hàng như vậy, việc còn duy trì kiểm soát lãi suất là rất thiết thực. Vì NHTƯ có thể ngay lập tức tăng giá trị tương đối của việc nắm giữ đồng nội tệ bằng cách tăng lãi suất của các sản phẩm tài chính của hệ thống ngân hàng. Thực tế NHTƯ Việt Nam đã sử dụng chính công cụ này để hạn chế dòng dịch chuyển nguồn tiền tệ cụ thể là:
+ Tăng trần lãi suất từ 1,1% lên1,2%/tháng đối với tín dụng ngắn hạn và từ 1,2% nên 1,25%/tháng đối với tín dụng trung và dài hạn.
+Giảm lãi suất ngoại tệ theo quyết định 309/1998-NHNN1 ngày 10/9/1998. Theo qutết định này trần lãi suất áp dụng với các loại hình không kỳ hạn ,kỳ hạn 6 tháng và trên 6 tháng giảm xuống tương ứng ở mức 3%/năm và 3,5%/năm.
Hơn thế nữa khủng hoảng kinh tế Châu á đã làm bùng phát nợ của hệ thống ngân hàng cuối năm 1997. Trong thời kỳ này nếu việc kiểm soát lãi suất bị soá bỏ hoàn toàn thì hệ thống ngân hàng sẽ bị đẩy vào tình trạng rủi ro cao, đặc biệt là đang tồn tại sự bảo đảm ngầm của nhà nước. Lãi suất tín dụng có thể bị đẩy lên cao vì chính các khách hàng cũng muốn theo đuổi các hoạt động mạo hiểm để cải thiện những khó khăn về tài chính do điều kiện bất ổn kinh tế trong-ngoài nước gây ra và bản thân ngân hàng cũng có động cơ theo đuổi các hoạt động mạo hiểm để bù lỗ. Với sự đảm bảo ngầm của nhà nước cho khu vực trung gian tài chính, rủi ro đạo đức sẽ tiệp tục tăng lên.
Việc xoá bổ lãi suất đầu vào-đầu ra vào năm 1998 cũng là phù hợp. Một mặt các TCTD cần tự chủ trong từng trường hợp quyết định mức lãi suất tiền gửi để hạn chế sự dịch chuyển tiền tệ. Mặt khác, tình trạng tài chính của các TCTD không như nhau được phơi bầy trong thời kỳ khủng hoảng, hạn chế việc áp dụng các kiểm soát như nhau đối với lãi suất kinh doanh của các TCTD.
Có thể nói, cơ chế lãi suất thích hợp cùng với các biện pháp tiền tệ, ngoại hối, hành chính được áp dụng đã rất thành công trong việc duy trì sự hoạt động và tính ổn định của thị trường ngoại hối cũng như giá trị đòng VNĐ. Kết quả này được thể hiện một phần ở sự dịch chuyển cơ cấu tiền gửi ngân hàng : Tiền gửi nội tệ trong 11 tháng năm 98 đã tăng 18,8% so với mức giản 1,9% trong tháng 1.
-Việc còn duy trì kiểm soát thay vì thả nổi hoàn toàn lãi suất hạn chế phần nào những tác động tiêu cực của giảm phát trong năm 99.
Nền kinh tế rơi vào suy thoái, khu vực sản xuất thực sự gặp khó khăn. Vì vốn vay chiếm tới 80-90% vốn sản xuất nên các áp lực giảm lãi suất nảy sinh trong khu vực sản xuất.
Ngược lại, trong khu vực ngân hàng các áp lực tăng lãi suất lại chiếm ưu thế vì :
Thứ nhất, thực hiện các qui chế lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng .
+ Thực hiện qui chế trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
+ Trích nộp chi phí bảo hiểm tiền gửi.
Thứ hai, chi phí cho nguồn vốn ngoại tệ mà các ngân hàng đã huy động nhưng không cho vay được cũng là một kênh đội chi phí hoạt động của ngân hàng lên.
Có thể nói, với những mâu thuẫn trên đây ,việc còn duy trì kiểm soát lãi suất thay vì soá bỏ hoàn toàn là hớp lí. Thực tế NHNN đã phải liên tục điều chỉnh giảm trần lãi suất tín dụng do sự trì trệ trong nền kinh tế mà biểu hiện cụ thể là tình trạng lạm phát âm kéo dài liên tục trong 8 tháng năm 99, trong khi các tổ chức tín dụng lại miễn cuỡng chấp hành và đôi khi còn vi phạm bằng việc đặt ra các phí phi lãi suất .
Những hạn chế của cơ chế lãi suất trong thời kỳ đổi mới.
Cơ chế trần lãi suất tín dụng giường như không thích hợp đối với môi trường kinh tế vĩ mô thay đổi thường xuyên. Nền kinh tế vĩ mô mặc dù đã có những cải thiện đáng ghi nhận, nhưng chưa thực sự đi vào ổn định. Lạm phát âm suất hiện và kéo dài liên tục trong nhiều tháng vào năm 96, 99. NHNN, do đó đã phải giảm liên tục trần lãi suất tín dụng, đặc biệt là trong các năm 1996, 1999 (tần suất lên tới 4 lần vào năm 96 và 5 lần vào năm 99). Những lần điều chỉnh trần lãi suất tín dụng của NHNN đã tạo ra tình trạng thay đổi có tính chất thang bậc về lãi suất kinh doanh của các TCTD. Do bậc thang chênh lệch lãi suất(Mức độ điều chỉnh lãi suất từng lần của NHNN tương đối lớn) và tần suất điều tiết của NHNN lớn nên trên trên thị trường, dư nợ tín dụng không có động cơ tăng (mặc dù lãi suất đã giảm mạnh) vì khách vay hy vọng lãi suất sẽ tiệp tục giảm.
-Thời điểm tự do hoá lãi suất tiền gửi không hợp lý. Trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, đặc biệt là nền kinh tế thiếu các dự án kinh tế khả thi, giảm phát kéo dài thì việc hạ lãi suất là hoàn toàn đúng đắn. Vấn đề ở chỗ các TCTD lại không tự giảm lãi suất như một biện pháp cứu cách cho mình mà chỉ coi đó là biện pháp đơn thuần hỗ trợ cho nền kinh tế. Chính vì vậy mặc dù trần lãi suất liên tục được điều chỉnh giảm liên tục năm 99 nhưng các TCTD không có phản ứng phía lãi suất đầu vào mặc dù ứ đọng vốn đã phổ biến. Phải tới lần điều chỉnh lãi suất lần thứ ba 9/99 của NHNN, các TCTD mới bắt đầu hạ lãi suất đầu vào. Điều này đã làm sấu đi tình trạng của các TTCK . Không dừng lại ở đó , nguồn vốn huy động đã tăng mạnh như là kết quả của việc duy trì lãi suất tiền gửi trong khi lạm phát liên tục âm, làm trầm trọng hơn tình trạng ứ đọng vốn của hệ thống ngân hàng và chủ trương kích cầu cũng bị hạn chế. ở đây việc tự hoá lãi suất đầu vào của NHNN có lẽ là quá sớm.
Việc tự do hoá lãi suất đầu vào là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lãi suất tiền gửi nội tệ thấp hơn lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Việc tự do hoá lãi suất tiền gửi ngoại tệ vào tháng 2/2000 cũng có vẻ không đúng thời điểm, nó mở đường cho một dòng dịch chuyển tiền tệ mới với tốc độ nhanh hơn. Việc tự do hoá lãi suất ngoại tệ trong bối cảnh lãi suất quốc tế tăng, lãi suất đồng nội tệ đang ở mức thấp và thị trường tín dụng rất trầm lắng đã dẫn đến một cuộc chạy đua kinh doanh ngoại tệ bằng cách tăng lãi suất huy động USD kẻ từ tháng 4/2000 . Kết quả là lãi suất huy động USD của các TCTD Việt Nam nên cao hơn mức lãi suất huy động VNĐ đối với các loại hình huy động có thời hạn từ một năm trở xuống. Lãi xuất USD của các TCTD trong nước nên cao hơn lãi suất nọi tệ , uy tín và sự ổn định của VNĐ thấp hơn so với USD, cơ chế cũng như thực tế điều hành tỷ giá lại có xu hướng giảm giá VNĐ tronh khi hiệu quả quản lí ngoại hối chưa cao , tâm lý sùng bái ngoại tệ còn lớnđã dẫn đến tình trạng dịch chuyển tiền tệ và sự trỗi dậy của thị trường ngoại tệ phi chính thức. Thực tế tiền gửi VNĐ đã được rút ra mua ngoại tệ. Chính vì thế huy động ngoại tệ đã tăng mạnh đạt 13,9% năm 2000 so với năm 1999, trong khi huy động nội tệ chỉ đạt 8,3% năm 2000 so với thời điểm 31/5/2000. Nguồn huy động ngoại tệ tăng trong khi cầu ngoại tệ thấp trần lãi suất tín dụng trong nước không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 98.doc