MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I: Lý thuyết chung 3
I- Chính sách tiền tệ: 3
1. Khái niệm chính sách tiền tệ: 3
2. Vai trò & tầm quan trọng của chính sách tiền tệ: 3
3. Tác động của chính sách tiền tệ: 4
4. Mục tiêu của chính sách tiền tệ: 5
II. Ngân hàng trung ương : 6
1. Quá trình phát triển: 6
2. Vai trò của NHTƯ trong việc thực hiện chính sách tiền tệ: 7
III. Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ của NHTƯ: 8
A. Các công cụ truyền thống: 8
1. Dự trữ bắt buộc: 8
2. Lãi suất chiết khấu: 13
3. Nghiệp vụ thị trường tự do 19
B. Các công cụ bổ trợ: 23
1. Chính sách ngoại hối & tỉ giá: 23
2. Hạn mức tín dụng & lãi suất tín dụng: 28
Phần II: Thực trạng trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam. 33
I- Đánh giá tổng quát quá trình thực hiện : 33
1. Những thành công: 33
2. Những hạn chế trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam: 36
IIĐánh giá chung việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHTƯ 37
1. Dự trữ bắt buộc: 37
2. Lãi suất tái chiết khấu: 39
3. Nghiệp vụ thị trường mở: 42
4. Công cụ lãi suất: 44
5. Công cụ tỉ giá & chính sách ngoại hối của NHTƯ: 47
Phần III: Hướng tới việc nâng cao hiệu lực các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam. 51
I- Những yêu cầu chung : 51
1. Phát triển thị trường tài chính: 51
2. Hoàn thiện hệ thống ngân hàng: 52
II- Các giải pháp cụ thể áp dụng đối với một số các công cụ của CSTT 53
1. Dự trữ bắt buộc: 54
2. Nghiệp vụ thị trường mở: 55
Kết Luận 57
58 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hướng tới việc nâng cao hiệu lực các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể sửa lại lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường.
Thứ tư là nghiệp vụ thị trường tự do có thể được tiến hành hiệu quả do không gặp phải những trở ngại về mặt thủ tục hành chính. Lệnh của NHTƯ về việc mua hoặc bán các giấy tờ có giá sẽ được thực hiện ngay sau khi nhà giao dịch chứng khoán nhận được lệnh.
Thứ năm là nghiệp vụ thị trường tự do có tính an toàn cao. Giao dịch trên thị trường này hầu như không gặp rủi ro cho cả NHTƯ lẫn NHTM vì cơ sở đảm bảo cho các giao dịch này trên thị trường là những giấy tờ có giá, tính thanh khoản cao.
Chính nhờ những ưu điểm quan trọng của nghiệp vụ thị trường tự do mà ngày nay, công cụ này ngày càng được sử dụng rộng rãi trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở mỗi quốc gia và kết quả của nó không chỉ dừng lại ở hiệu quả điều hành của NHTƯ mà còn góp phần vào sự phát triển của thị trường liên ngân hàng, thị trường chứng khoán...qua đó thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nền kinh tế.
B. Các công cụ bổ trợ:
Ngoài những công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ, ngày nay, với sự phát triển và hoàn thiện không ngừng của nền kinh tế nói chung và nghiệp vụ ngân hàng nói riêng, bên cạnh các công cụ truyền thống, NHTƯ còn sử dụng một hệ thống các công cụ trung gian nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý. Trong khuôn khổ tiểu luận xin được giới thiệu các công cụ: chính sách ngoại hối & tỉ giá và hạn mức tín dụng & lãi suất.
1. Chính sách ngoại hối & tỉ giá:
1.1. Giới thiệu chung:
Như phần trên đã trình bày, NHTƯ có thể điều tiết lượng tiền trong lưu thông qua hai kênh chính thức. Kênh thứ nhất được thể hiện qua hình thức cho vay tái chiết khấu và cấp vốn cho các tổ chức tín dụng, kênh thức hai qua mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường mở. Trên thực tế, hiệu quả của kênh thứ hai được đánh giá rất cao và chính sách ngoại hối có một vai trò rất quan trọng trong việc quản lý lưu thông và cung ứng tiền tệ của NHTƯ. Đó là một công cụ hữu hiệu để NHTƯ thực thi chính sách tiền tệ, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
Chính sách ngoại hối có liên quan đến việc mua bán và gửi tiền bằng các đồng tiền riêng biệt của NHTƯ. Nghiệp vụ này được tiến hành trên thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là thị trường quốc tế mà chính trên thị trường này, các giao dịch được thực hiện để xác định tỉ giá và theo đó, các đồng tiền được trao đổi với nhau từ đồng tiền này sang đồng tiền khác. Đồng tiền khác này, đến lượt mình lại xác định giá mua hàng hoá và tài sản chính nước mình. Vậy, theo những tính chất trên, tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền để tính ra một đồng tiền khác hay còn gọi là mức giá tại đó hai đồng tiền chuyển đổi cho nhau.
Tỉ giá hối đoái là giá của một đồng tiền để đổi ra một đồng tiền khác. Tỉ giá hối đoái rất quan trọng bởi nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và nước ngoài. Khi đồng tiền của một nước tăng giá so với các đồng tiền khác thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài sẽ trở nên đắt hơn và hàng hoá của nước ngoài tại nước đó sẽ trở nên rẻ hơn. Chính vì tỉ giá là một mắt xích quan trọng trong mối quan hệ giữa đồng nội tệ và ngoại tệ nên NHTƯ các nước tìm mọi cách can thiệp khi tỉ giá biến động bằng cách mua và bán các đồng tiền, nhằm chống lại nguy cơ khủng hoảng tiền tệ.
Việc can thiệp trên thị trường hối đoái nhằm đạt được hai mục tiêu trực tiếp là đưa tỉ giá vào quĩ đạo đã định trong ý đồ chính sách tiền tệ của một giai đoạn nào đó và điều khiển cung ứng tiền tệ quốc gia. Muốn sử dụng công cụ can thiệp thị trường hối đoái NHTƯ phải có một chính sách tỉ giá dựa trên những điều kiện cụ thể của mình.
Có những cơ chế tỉ giá hối đoái khác nhau. Đó là một tổng hoà những điều kiện, trong đó chính phủ các quốc gia cho phép ấn định các tỉ giá hối đoái, như tỉ giá hối đoái cố định - NHTƯ cố định mức tỉ giá chuyển đổi & tỉ giá hối đoái thả nổi - xác định bằng mức cân bằng tỉ giá trên thị trường tự do mà không có sự can thiệp của NHTƯ bằng dự trữ quốc tế. Mỗi một cơ chế có những đặc điểm riêng, nhưng cơ chế tỉ giá cố định có nhiều nhược điểm. Điển hình cho cơ chế này là hệ hống Bretton Woods. Sự thất bại của B.W là do IMF đòi hỏi các nước thiếu hụt dự trữ quốc tế phải theo đuổi việc phá giá hoặc các chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng lại không thể đòi hỏi các quốc gia dư thừa dự trữ quốc tế nâng tỉ giá của họ hay theo đuổi một chính sách tiền tệ nới lỏng.
Tác động của tỉ giá :
Như ta đã thấy, chính sách ngoại hối của NHTƯ có thể gây ra những thay đổi trong tỉ giá hối đoái. Tỉ giá hối đoái thay đổi có tác động to lớn đến lưu thông tiền tệ và thanh toán quốc tế. Tác động của nó thể hiện rõ rệt nhất trên cán cân thanh tóan quốc tế.
Cán cân thanh toán quốc tế là một tài khoản tổng hợp sự chuyển dịch ngoại tệ ra vào quốc gia trong một thời kì nhất định, bao gồm cán cân thanh toán vãng lai (hàng hoá-dịch vụ) và cán cân vốn.
Cán cân vốn thực chất là một bản cân đối các khoản đi vay và cho vay tín dụng thực hiện bằng ngoại tệ. Khi tỉ giá cao lên, tức là đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ sẽ khuyến khích đầu tư nước ngoài vào và ngược lại, khi tỉ giá giảm sẽ hạn chế việc đầu tư.
Cán cân vãng lai phản ánh tất cả các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giữa các nước và phần quan trọng nhất của cán cân vãng lai chính là chênh lệch xuất nhập khẩu. Khi tỉ giá giảm, tức là đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, hàng hoá nước ngoài giảm giá trong khi hàng hoá trong nước tăng giá. Điều này sẽ khuyến khích giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Ngược lại, khi tỉ giá tăng, đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ sẽ dẫn đến việc gia tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Tỉ giá tác động mạnh mẽ tới các cân thanh toán quốc tế, nhưng nó cũng chịu sự tác động ngược trở lại. Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung cầu về ngoại tệ, do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến tỉ giá hối đoái bởi vì tỉ giá hối đoái được xác lập trên cơ sở cân đối giữa cung và cầu về ngoại tệ.
Việc xác lập một tỉ giá thấp hoặc cao hơn giá cân bằng đòi hỏi NHTƯ bù lỗ bằng cách bán hoặc mua trên thị trường một khối lượng ngoại tệ tương ứng, nếu không sẽ gây ra tình trạng giá chợ đen cao, gây mất ổn định và đình trệ cho mọi mặt của nền kinh tế.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến tỉ giá hối đoái:
Bất kì nhân tố nào ảnh hưởng đến lợi tức dự tính về tiền gửi nứơc ngoài và tiền gửi trong nước đều có ảnh hưởng đến tỉ giá, ở đây xin dược trình bàyvề hai nhân tố, đó là cung tiền và lãi suất.
* Lãi suất:
Lãi suất trong nước thường được coi là nhân tố chính ảnh hưởng đến tỉ giá. Ta biết rằng lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa - tỉ lệ lạm phát dự tính. Nếu như lãi suất thực tế trong nước tăng lên và tỉ lệ lạm phát dự kiến không thay đổi thì lãi suất danh nghĩa tăng lên. Bởi vì đã khẳng định rằng lạm phát dự tính là không đổi cho nên mức tăng giá dự tính của đồng nội tệ sẽ không bị thay đổi và lợi tức dự tính về tiền gửi nước ngoài sẽ không thay đổi với bất kì mức tỉ giá nào, trong khi lợi tức về đồng nội tệ tăng. Do đó, khi lãi suất thực tế trong nước tăng thì đồng nội tệ tăng giá và tỉ gía giảm xuống.
Tuy nhiên, khi lãi suất danh nghĩa tăng lên nhưng là do tăng tỉ lệ lạm phát dự tính thì mức tăng giá dự tính của đồng nội tệ sẽ thấp đi. Mức này lớn hơn mức tăng của lãi suất trong nước. Kết quả là với một tỉ giá đã cho bất kì, lợi tức dự tính về tiền gửi ngoại tệ tăng nhiều hơn lợi tức tiền gửi đồng nội tệ. Như thế, một lãi suất cao hơn tỉ lệ lạm phát dự tính gây nên một sự giảm giá của đồng nội tệ.
Với bất kì mức tỉ giá nào, lợi tức dự tính về tiền gửi nội tệ tăng nhiều hơn so với gửi bằng đồng ngoại tệ sẽ gây ra sự tăng giá của đồng nội tệ và làm cho tỉ giá thấp đi và ngược lại. Phân tích trên được thể hiện như sau: Nếu như lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng lên, lợi tức từ việc gửi ngọai tệ tăng, công chúng sẽ muốn mua ngoại tệ và bán nội tệ, làm cho nội tệ bị mất giá và cầu về ngoại tệ vượt quá mức cân bằng. Như thế, sự tăng lên của lãi suất tiền gửi ngoại tệ sẽ làm cho đồng nội tệ sụt giá & làm cho tỉ giá tăng cao. Ngược lại., nếu lãi suất tiền gửi nội tệ tăng lên, tức là lợi tức từ việc gửi đồng nội tệ cao hơn sẽ làm cho công chúng có xu hướng muốn sở hữu đồng nội tệ và bán đồng ngoại tệ, làm cho cầu về đồng nội tệ vượt quá tỉ giá cân bằng. Vì vậy, khi lãi suất tiền gửi đồng nội tệ tăng lên thì đồng nội tệ tăng giá & tỉ giá thấp xuống.
*Thay đổi cung tiền:
Ta giả sử trường hợp NHTƯ quyết định tăng mức cung tiền để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Việc tăng này sẽ dẫn đền mức giá chung sẽ tăng lên. Mức tăng giá dự tính của đồng nội tệ sụt xuống làm tăng lợi tức dự tính về tiền gửi nước ngoài với bất kì mức tỉ giá hiện hành nào. Mặt khác, cung tiền thực tế tăng nhanh trong khi mức giá chưa tăng kịp lên ngay sẽ làm cho lãi suất tiền gửi đồng nội tệ sụt xuống, làm giảm lợi tức tiền gửi nội tệ. Kết quả là công chúng sẽ muốn giữ đồng ngoại tệ chứ không muốn giữ đồng nội tệ. Như vậy, việc tăng cung tiền làm cho đồng nội tệ bị mất giá so với đồng ngoại tệ và do đó, tỉ giá tăng lên.
Tác động của chính sách ngoại hối NHTƯ tới lượng tiền cung ứng:
Với tư cách là một công cụ của chính sách tiền tệ, chính sách ngoại hối có tác động tích cực giúp NHTƯ điều tiết cung tiền tệ trên thị trường thông qua xác định tỉ giá.
Giả sử NHTƯ bán đi một số tài sản nước ngoài của mình ( gọi là dự trữ ngoại hối hay là dự trữ quốc tế) để đổi lấy đồng nội tệ. Nếu NHTƯ được trả bằng tiền mặt thì sẽ rút bớt lượng tiền mặt trong lưu thông, còn nếu được trả bằng séc kí phát từ các tài khoản mở tại các NHTM trong cả nước thì NHTƯ sẽ rút bớt dự trữ của NHTM trong các tài khoản này tại NHTƯ. Điều này thực chất là NHTƯ đã rút tiền ra khỏi tay công chúng hoặc làm giảm dự trữ của các NHTM. Dù dự trữ giảm hay tiền trong lưu thông giảm thì cơ số tiền tệ cũng giảm đi và cùng với đó là dự trữ ngoại hối của NHTƯ giảm đi. Cơ số tiền tệ giảm sẽ dẫn đến giảm cung đồng nội tệ, kết hợp với việc tăng cung về ngoại tệ của NHTƯ sẽ làm cho đồng tiền trong nước tăng giá so với đồng tiền nước ngoài và làm cho tỉ giá dự tính giảm đi. Việc NHTƯ bán các tài sản nước ngoài của mình để đổi lấy đồng nội tệ cũng giống như nghiệp vụ bán của NHTƯ trên thị trường tự do.
Ngược lại, khi NHTƯ quyết định dùng đồng nội tệ để mua tài sản nước ngoài trên thị trường ngoại hối sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối của NHTƯ và tăng cơ số tiền tệ. Cơ số tiền tệ tăng là bởi nếu NHTƯ trả bằng tiền mặt thì sẽ làm tăng lượng tiền trong lưu thông, còn nếu thanh toán gián tiếp thì NHTƯ làm tăng dự trữ của các NHTM trong tài khoản tại NHTƯ. Thực chất là NHTƯ bơm tiền vào lưu thông hoặc tăng dự trữ cho hệ thống NHTM Dù trường hợp nào xảy ra thì cơ số tiền tệ cũng tăng lên. Tăng cơ số tiền tệ dẫn đến tăng cung đồng nội tệ, kết hợp với việc tăng cầu về ngoại tệ sẽ làm tỉ giá dự tính tăng lên. Điều này cũng giống như trường hợp NHTƯ thực hiện nghiệp vụ mua trên thị trường tự do.
Như vậy, khi các NHTƯ can thiệp vào thị trường ngoại hối thì họ thu được hoặc mất đi dự trữ ngoại hối và gây ra sự thay đổi trong cơ số tiền tệ, từ đó làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng. Mức độ cũng như thời gian can thiệp được vào thị trường ngoại hối còn phụ thuộc rất nhiều vào dự trữ ngoại hối của NHTƯ. Dự trữ ngoại hối chính là một yếu tố quan trọng giúp cho NHTƯ ảnh hưởng lên thị trường ngoại hối, góp phần ổn định tiền tệ vì trong khối lượng ngoại hối dự trữ có một bộ phận phục vụ cho nhiệm vụ bình ổn giá. Do đó, khi NHTƯ can thiệp vào thị trường ngoại hối thì có thể kiểm sóat phần nào khối lượng cung ứng tiền tệ trên thị trường. Hệ quả của sự can thiệp này là những tác động đến cán cân thương mại. Từ lý thuyết trên, thực tế đã chứng minh rằng khả năng kiểm soát chính sách tiền tệ của một nước trở nên dễ dàng hơn khi mà đồng tiền của quốc gia đó là đồng tiền dự trữ ngoại hối của các quốc gia khác.
1.4. Vai trò của chính sách ngoại hối:
Qua phân tích trên, ta có thể đánh giá tác động của chính sách ngoại hối của NHTƯ thông qua tỉ giá.
Thứ nhất là tỉ giá có những ảnh hưởng vĩ mô đối với hoạt động của nền kinh tế, nó là trung tâm của chính sách tiền tệ, có vai trò chỉ đạo chính sách tiền tệ. NHTƯ căn cứ vào nó dể lựa chọn chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt phù hợp điều kiện từng thời kì. Ta biết rằng mục tiêu cuốí cùng của chính sách tiền tệ là giữ vững giá trị đồng tiền. Nếu NHTƯ không muốn thấy đồng tiền của mình sụt giá thì nó có thể theo đuổi một chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm bớt cung nội tệ đồng thời tăng cung ngoại tệ để nâng lãi suất trong nước, từ đó mà làm cho đồng tiền của nó trở nên vững mạnh. Ngược lại, khi NHTƯ thấy đồng tiền nội tệ quá cao, làm cho ngoại thương và sản xuất công nghiệp trong nước bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh từ nước ngoài thì nó có thể theo đuổi một tỉ lệ tăng trưởng tiền tệ, mở rộng cung tiền, hạ lãi suất nhằm hạ thấp tỉ giá.
Thứ hai là bản thân tỉ giá cũng phải chịu tác động của mục tiêu chính sách tiền tệ và là một hình thức để thực hiện công cụ của chính sách tiền tệ thông qua thị trường ngoại hối. Vai trò của công cụ bổ trợ chính sách ngoại hối chính là thông qua việc thực hiện mua bán trên thị trường ngoại hối để xác lập tỉ giá. Bất cứ một sự tăng cung tiền nào cũng tác động ngược trở lại, làm cho tỉ giá tăng vọt, đặc biệt là tỉ giá trong ngắn hạn. NHTƯ cũng có thể dựa vào mục tiêu chính sách tiền tệ từng thời kì mà lựa chọn chính sách tỉ giá cố định hay thả nổi tương ứng phù hợp, đảm bảo nguyên tắc ở trong nước chỉ tiêu đồng bản tệ và tỉ giá phù hợp với tình hình tiền tệ của quốc gia. Cũng bằng can thiệp tỉ giá, NHTƯ có thể điều tiết cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến các mục tiêu vĩ mô khác của nền kinh tế. Công cụ này hiện nay đã trở thành một trong những công cụ trung tâm của chính sách tiền tệ ở một số nước, đặc biệt là các nước hướng về xuất khẩu, và ngày càng phát huy tác dụng bên cạnh các công cụ truyền thống.
2. Hạn mức tín dụng & lãi suất tín dụng:
Công cụ bổ trợ thứ hai của NHTƯ được đề cập tới trong việc thực thi chính sách tiền tệ là hạn mức tín dụng và lãi suất tín dụng.
Hạn mức tín dụng thường được hiểu trên hai phương diện: hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại và đối với nền kinh tế.
*Hạn mức tín dụng đối với các NHTM:
Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTƯ có thể cung cấp cho các NHTM theo từng thời kì nhất định và phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kì đó.
Dựa vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế dự tính và chỉ số lạm phát cho phép trong từng thời kì mà NHTƯ quyết định hạn mức tín dụng đối với từng thời kì.
Theo lý thuyết thì hạn mức tín dụng không phải là khống chế mức tín dụng cho nền kinh tế. Điều này có nghĩa là các NHTM có thể thực hiện mức tín dụng riêng của mình đối với các doanh nghiệp lớn hơn so với hạn mức tín dụng mà NHTƯ đã ấn định cho ngân hàng của mình với điều kiện là nó huy động được một lượng vốn lớn hơn để phục vụ cho hoạt động tín dụng đó của mình. Sở dĩ các ngân hàng thương mại thực hiện được việc này là bởi cho dù lượng vốn huy động được dù có lớn thế nào thì nó cũng chỉ làm tăng khối lượng cho vay chứ không làm tăng khối lượng phát hành tiền của NHTƯ, do đó, nó cũng không ảnh hưởng tới khối lượng tiền ra vào vào lưu thông. Tuy nhiên, lý thuyết này không chính xác trong nền kinh tế hiện đại, khi mà sự gia tăng khối lượng thanh toán sẽ làm tăng hệ số tạo tiền của NHTM, do đó, tác động rất mạnh đến lạm phát và giá cả, tạo sức ép về cung ứng tiền cho NHTƯ và đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt mức tiềm năng. Do đó, việc khống chế hạn mức tín dụng có tác động tích cực trong việc kiểm soát cung ứng tiền và thực hiện các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ, đặc biệt là trong điều kiện các công cụ khác của chinhs ách tiền tệ chưa phát huy tác dụng.
Tác dụng của việc điều hành công cụ hạn mức tín dụng đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại chỉ thực sự phát huy tác dụng khi mà hệ thống NHTM và các tổ chức tài chính còn chưa phát triển đa dạng, hệ thống ngân hàng quốc doanh còn chiềm lĩnh đa phần thị trường tiền tệ đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ tỉ giá, lãi suất tín dụng... Lý do của điều này là bởi trong điều kiện chưa phát triển thị trường tiền tệ và thị trường vốn, sự tăng hay giảm hạn mức tín dụng gần như rất nhịp nhàng. Khi các thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển, hệ thống các ngân hàng thương mại & các công ty- tổ chức tài chính phát triển đa dạng thì việc điều hành công cụ này là hết sức phức tạp.
*Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế:
Như phần trên đã trình bày, việc tăng tín dụng do các NHTM thực hiện sẽ có một tác động mạnh tới nền kinh tế, mà cụ thể là lạm phát và giá cả. Điều này liên quan đến khả năng tạo tiền của các NHTM, khi khối lượng tín dụng cho vay của các NHTM tăng lên thì làm tăng hệ số tạo tiền. Sự gia tăng này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới lạm phát và giá cả, có tác dụng tiêu cực trong việc thực hiện các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ NHTƯ. Mặt khác, khi các NHTM không chỉ huy động vốn trong nước mà còn trên thị trường tín dụng quốc tế thì phải tính đến việc mỗi đồng ngoại tệ đi vay đều phải có một số bản tệ tương ứng để đảm bảo việc khống chế và lành mạnh hoá thị trường tín dụng của NHTƯ. Do đó, khi khối lượng ngoại tệ đi vay của nước ngoài tăng hay khối lượng tín dụng cho vay tăng lên thì tự bản thân nó đã gây ra áp lực buộc NHTƯ phải gia tăng lượng cung tiền. Việc gia tăng lượng tiền cung ứng đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền tệ nới lỏng. Điều này nếu không xuất phát từ chủ trương của NHTƯ trong việc thực thi các mục tiêu của chính sách tiền tệ mà là do sự đối phó với những thay đổi đột biến của thị trường có những tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế trên mọi phương diện,đặc biệt là làm gia tăng lạm phát và đẩy nền kinh tế vào tình trạng tăng trưởng quá nóng, vượt qua mức sản lượng tiềm năng của một quốc gia.
Qua qúa trình phân tích trên, ta thấy được sự cần thiết của việc khống chế hạn mức tín dụng đối với hệ thống NHTM và từ đó khống chế tín dụng đối với nền kinh tế, nhằm đảm bảo một sự kiểm soát hữu hiệu của NHTƯ đối với cung ứng tiền tệ trên thị trường và tăng trưởng kinh tế ổn định đối vỡi mỗi quốc gia trong từng thời kì. Công cụ này là một biện pháp hữu hiệu của NHTƯ trong việc thực thi các mục tiêu của chính sách tiền tệ và giúp cho nền kinh tế tránh được tính trạng “ tăng trưởng phản tăng trưởng”, đặc biệt là đối với trường hợp các nước mà các công cụ truyền thống chưa có những điều kiện phát triển cần thiết để phát huy tác dụng.
Lãi suất tín dụng & khung lãi suất:
*Giới thiệu chung:
Trong phần trình bày về công cụ lãi suất tái chiết khấu, ta đã khẳng định rằng lãi suất chiết khấu có ảnh hưởng tới lãi suất tín dụng của nền kinh tế. Tuy nhiên, đối với các quốc gia mà thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển thì khả năng chi phối của công cụ truyền thống này đối với lãi suất trên thị trường còn rất hạn chế. Mặt khác, trong thời kì mới chuyển sang cơ chế ngân hàng hai cấp, sự thừa kế mang tính chất tiềm thức về việc tuân thủ các chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước vẫn còn ăn sâu trong tâm lý các ngân hàng quốc doanh nói riêng và cả hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh nói chung. Đối với các trường hợp như thế, NHTƯ chính là người trực tiếp điều khiển lãi suất tín dụng trên thị trường nhằm đảm bảo vai trò của công cụ lãi suất trong viêc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ bằng cách qui định khung lãi suất áp dụng cho các hoạt động tín dụng của các NHTM.
*Tác dụng tích cực & hạn chế của công cụ khung lãi suất:
Khi lãi suất chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh lãi suất trên thị trường thì NHTƯ trực tiếp điều khiển lãi suất tín dụng bằng các công cụ hành chính như văn bản pháp định, quyết định...Các công cụ hành chính này qui định trực tiếp lãi suất đối với các ngân hàng thương mại. Sự điều khiển này thông qua việc ấn định khung lãi suất của NHTƯ, áp dụng cho toàn bộ hoạt động tín dụng của các NHTM. Khung lãi suất xác định lãi suất trần- lãi suất cao nhất và lãi suất sàn- lãi suất thấp nhất mà các ngân hàng thương mại có thể áp dụng trong hoạt động tín dụng của mình. NHTƯ có thể điều hành dễ dàng việc nới lỏng hay thắt chặt lãi suất tín dụng của cả nền kinh tế thông qua biên độ hẹp giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra cho nên nó có tác dụng tích cực trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTU.
Tuy vậy, bên cạnh những tác động tích cực trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ, công cụ có những hạn chế rất lớn đối với sự phát triển của hoạt động tín dụng nói chung.
Lãi suất tín dụng không phải là một công cụ hữu hiệu trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời kì kinh tế thị trường mở cửa, khi mà khối lượng vốn huy động của các NHTM không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, cùng với sự xuất hiện của các ngân hàng có vốn nước ngoài, các công ty liên doanh, các tổ chức taì chính quốc tế... Khối lượng vốn huy động từ nguồn này phải chịu sự tác động của chính sách lãi suất từng quốc gia khác nhau.
Lãi suất phải thể hiện những tác động tích cực của mình thông qua cạnh tranh để tăng cường hiệu quả hoạt động và vai trò của hệ thống NHTM. Tuy thế, một chính sách qui định về khung lãi suất với một biên độ hẹp đã hạn chế khả năng cạnh tranh giữa các NHTM. Với bất cứ điều kiện nào thì các NHTM chỉ huy động vốn với mức lãi suất tối thiểu và cho vay với mức lãi suất tối đa đã được qui định trong khung lãi suất. Khoản chênh lệch biên độ lãi suất này có thể trả cho những khoản chi nghiệp vụ và các chi phí khác. Do đó, với một khung lãi suất đã được ấn định trước, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại là hoàn toàn không tồn tại. Khi cầu về vốn tăng, các NHTM thường tìm cách để đầu tư vào những dự án có chỉ định mức lãi suất cao hơn chứ không bao giờ chịu nâng cao lãi suất huy động vốn đầu vào để chịu lỗ hơn các ngân hàng khác. Khi cung về vốn tăng, các NHTM không thể giảm lãi suất đầu vào dưới lãi suất sàn, do đó, họ thường đối phó bằng cách từ chối nhận tiền gửi của khách trong những giai đoạn nhất định. Cung cầu về vốn trên thị trường luôn thay đổi và chính cung cầu vốn sẽ xác định lãi suất thực tế trên thị trường. Nhưng với việc áp dụng khung lãi suất thì buộc các NHTM đã xa rời mức lãi suất thực tế này.
Khung lãi suất là một trong các công cụ bổ trợ đối với việc thực thi chính sách tiền tệ NHTƯ, tuy vậy trên thực tế, việc áp dụng công cụ này chỉ có tác dụng trong một giai đoạn phát triển nhất định. Cạnh tranh là điều kiện để phát triển hệ thống ngân hàng thiương mại. Khi có cạnh tranh, các NHTM sẽ phấn đấu giảm chi phí nghiệp vụ, giảm lãi suất cho vay. Điều này được đánh giá là có hiệu quả đối với nền kinh tế nói chung và đối với việc quản lý chính sách tiền tệ của NHTƯ nói riêng.
Như vậy, qua phần phân tích trên, em đã trình bày lý thuyết chung về các khái niệm cơ bản của nội dung mà tiểu luận đề cập đến, bao gồm chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương, các công cụ để điều tiết chính sách tiền tệ. ở phần tiếp theo của tiểu luận, em sẽ tập trung vào việc phân tích thực trạng cụ thể của Việt Nam với những thành công, tồn tại và nguyên nhân của nó trong việc sử dụng các công cụ điều tiết chính sách tiền tệ của NHTƯ. Qua đó, em xin được đề xuất một số biện pháp nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của các công cụ này trên cơ sở những điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
Phần II: Thực trạng trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam.
I- Đánh giá tổng quát quá trình thực hiện :
1. Những thành công:
Với tư cách là một chính sách vĩ mô của nhà nước, chính sách tiền tệ có một vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về tiền tệ và kinh tế. ở Việt nam, mục tiêu cuối cùng mà chúng ta đề ra là ổn định, giữ vững giá trị của đồng tiền. Đại hội đảng cộng sản Việt nam lần thứ VI đã đánh dấu sự chuyển đổi cơ chế từ ké hoạch hoá sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó chính là tiền đề cho việc thực hiện những đổi mới và cải cách trong hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ ở Việt nam. Để có được những đánh giá về sự thành công này một cách khách quan, em sẽ đi vào phân tích quá trình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam qua các thời kì, từ năm 1986 đến năm 2000.
1.1. Giai đoạn 1986-1988:
Đây là giai đoạn nền kinh tế ở thời kì khủng hoảng trầm trọng. Sự thiếu hụt ngân sách và việc cầu luôn vượt cung gây sức ép làm cho NHTU phải phát hành tiền ở mức kỉ lục. Hệ quả tất yếu của việc làm này là lạm phát đạt mức phi mã lên đến 3 con số. Chính vì vậy, nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn này là kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Dưới sự chỉ đạo của NHTƯ, chúng ta dã thực thi một chính sách tiền tệ với 2 thay đổi lớn, đó là đưa tỉ giá lên ngang mức thị trường & thi hành chế độ lãi suất thực dương với hi vọng có thể đảo ngược tình hình. Sự thành công của hai biện pháp này đã góp phần kiểm soát được lạm phát và khủng hoảng, mang lại lòng tin cho công chúng về sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhà nước.
1.2. Giai đoạn 1989-1991:
Đây là một giai đoạn chuyển đổi mang tính chất cơ bản và đầy khó khăn của chính sách tiền tệ. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã tác động mạnh mẽ tới Việt Nam trên cả chính trị và kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trườ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35176.doc