Đề tài Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21

Phần I

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG:

1. Đầu tư quốc tế:

2 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.

3. Doanh nghiệp liên doanh.

4. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.

II MỘT SỐ LÝ THUYẾT CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ HIỆN ĐẠI VỀ FDI

1. Quan điểm của P. Samuelson và R. Nurkse

2. Lý thuyết lợi thế so sánh của P.Vernon ( Hoa kỳ ).

III Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

1. Đối với nước đi đầu tư:

2. Đối với nước nhận đầu tư.

IV Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

1. Đặc điểm của thị trường bản địa

2. Luật đầu tư.

3. Đặc điểm của thị trường nhân lực

4. Chính sách tiền tệ ổn định và mức độ rủi ro tiền tệ ở nước tiếp nhận vốn đầu tư:

5. Khả năng hồi hương vốn đầu tư.

6. Bảo vệ quyền sở hữu.

7. Chính sách thương mại.

8. Điều chỉnh hoạt động của các công ty nước ngoài.

11. Chính sách kinh tế vĩ mô.

12. Cơ sở hạ tầng phát triển.

V .Kinh nghiệm quốc tế.

1. Trung Quốc.

2. Malaysia.

3. Thái Lan.

 

Phần hai

THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 1989 ĐẾN NAY

I.THỰC TRẠNG

1.Về số dự án và số vốn đầu tư:

2.Về cơ cấu vốn đầu tư:

3.Về đối tác đầu tư.4. Một số nguyên nhân sụt giảm FDI trong những năm gần đây.

II. KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC.

1.Sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI giữa các nước và các khu vực.

2.Vấn đề công nghệ:

3. Vấn đề thị trường.

III .TRIỂN VỌNG FDI TẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI.

Phần III:

NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.

I. CHÍNH SÁCH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.

II. NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TỚI.

1. Duy trì sự ổn định chính trị-xã hội.

2.Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư:

3.Cụ thể hoá chiến lược và kế hoạch thu hút FDI.

4.Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư.

5. Chính sách đất đai.

6.Vấn đề quan hệ giữa FDI với các nguồn vốn khác.

6. Xây dựng và lựa chọn đối tác đầu tư

7. Tăng cường kết cấu hạ tầng, đảm bảo điều kiện thuận lợi để thu hút, hấp thu tốt FDI.

8. Vấn đề nguồn nhân lực:

9. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô:

10. Đẩy mạnh hoạt động của thị trường và có chính sách tỉ giá thích hợp.

11. Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư nước ngoài.

12.tạo lập và duy trì triển vọng tăng trưởng nhanh, lâu bền.

 

doc34 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nay, xu thế toàn cầu hoá, khu vực nền kinh tế đang diễn ra khắp trên toàn thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển chung đó. Ngày nay có nhiều các công ty, tổ chức quốc tế đầu tư vào Việt Nam và hiện nay nguồn vốn này đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh thế. Sau đây là bức tranh tổng thể về FDI I.Thực trạng 1.Về số dự án và số vốn đầu tư: Trong hơn 10 năm, từ 1989-1999 đã có 3087 dự án với tổng số vốn đăng ký là: 40.055 triệu USD. Trong đó tổng số vốn thực hiện là: 15.700 triệu USD, đạt tỉ lệ 39,2% so với tổng vốn đăng ký. Đây là một tỉ lệ khá cao( đồng thời cũng khá cao so với các nước trong khu vực; Trung Quốc: 31%, Indonexia 44%, ấn độ 18%/ theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư, quá trình thu hút vốn và số dự án FDI qua các năm trong giai đoạn 1989-1999 được thể hiện qua biểu đồ sau: Năm Số dự án Tổng vốn đầu tư (Triệu USD) Tổng vốn thực hiện (Triệu USD) 1989 70 539 130 1990 111 596 220 1991 155 1388 221 1992 193 2271 398 1993 272 2987 1106 1994 362 4071 1952 1995 404 6616 2652 1996 501 9212 2371 1997 479 5548 3250 1998 260 4827 1900 1999 280 2000 1500 Nguồn : Thông tin tài chính - số 1/1-2000 Qua số liệu trên ta dễ dàng nhận thấy tổng số dự án cũng như tổng số vốn FDI trong giai đoạn 1989-1996 tăng lên với tốc độ rất nhanh. Năm 1989 số lượng vốn đầu tư thu hút được mới chỉ đạt 539 Triệu USD, năm 1995 đã tăng lên 6616 triệu USD và năm 1996 đạt mức 9212 triệu USD. Mức tăng bình quân hàng năm trong giai đoạn này là 50%. Quy mô trung bình của một dự án cũng tăng dần qua các năm. Từ 3,5 triệu USD thời kỳ 1988-1990 tăng lên 7,5 triệu USD năm 1991; 7,6 triệu USD năm 1992; 10 triệu USD năm 1993-1994; 16,38 triệu USD năm 1995 và 23,7 triệu USD năm 1996. Ngày càng có nhiều dự án có tổng số vốn đầu tư lớn như dự án xây dựng khu đô thị nam Thăng long. 2,1 tỉ USD, khu đô thị nam Sài Gòn. 991 triệu USD, dự án xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Sao Mai-Bến Đình 637 triệu USD...Điều đó cho thấy thời kỳ này, việc thu hút FDI của Việt Nam tỏ ra rất có hiệu quả. Một phần đó là do Việt Nam là một thị trường mới hấp dẫn các nhà đầu tư, một phần quan trọng khác là những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài đúng đắn của nhà nước Việt Nam. Các khoản đầu tư này đã góp phần đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết công ăn việc làm: Doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần qua các năm: Năm 1990 là 43 triệu USD, năm 1991 là 149 triệu USD, năm 1992 là 206 triệu USD, năm 1993 là 447 triệu USD, năm 1994 là 951 triệu USD, năm 1995 là 1397 triệu USD, năm 1996 là 1814 triệu USD, năm 1997 đạt 2,4-2,5 tỉ USD...mức tăng trưởng giai đoạn này là 30%. Tỷ lệ xuất khẩu trên doanh thu đạt khoảng hơn 60% năm 1997 và bằng 44% năm 1996, 31% cho năm 1995. Giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn người. Đa số các dự án hoạt động theo hình thức liên doanh( giai đoạn 1987-1997) có 1337 dự án chiếm 61% tổng số dự án với số vốn trên 23,7tỉ USD-chiếm 69% tổng vốn đăng ký. Đây là một điểm mạnh của các dự án đầu tư nước ngoài vì các đối tác nước ngoài cũng mong muốn hợp tác với Việt Nam. Số dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài là 669 dự án – chiếm 30% tổng số dự án. với số vốn 6,48 tỉ USD. Số dự án hoạt động theo hình thức hợp tác kịnh doanh trên cơ sở hợp đồng rất thấp: Có 145 dự án chiếm 7% với số vốn là 3,23 tỉ USD-chiếm 9,4 %. Sở dĩ như vậy là do một số nghành đặc biệt như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông nhà nước quy định phải làm theo hình thức hợp doanh. Chỉ có 3 dự án hoạt động theo hình thức BOT-chủ yếu xây dựng cơ sở hạ tầng( cấp nước thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng cảng quốc tế Sao Mai-Bến Đình, xây dựng nhà máy điện Watsina tại Cần Thơ, còn lại là các dự án hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Nhiều công trình, dự án quan trọng đã đi vào hoạt động, nhiều công nghệ quan trọng được chuyển giao đã tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế. Tác động rõ nét nhất là lĩnh vực công nghiệp, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 100% về khai thác dầu thô, lắp ráp ô tô, sản xuất bóng đèn hình; 45% về sản xuất thép, 21% về sản xuất vải, 20% về sản xuất bia... Theo thống kê, trong giai đoạn 1991-1996 vốn FDI đã thực hiện chiếm 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm. Tỷ trọng sản phẩm trong tổng GDP của khu vực đầu tư nước ngoài cũng ngày một tăng. Năm 1993 là 5,6%, năm 1994 là 7,5%; năm 1995 là 10% và đến năm 1996 là 13%. Tuy nhiên đến sau năm 1996, tình hình thu hút FDI có xu hướng chững lại. Nếu nhìn vào con số thống kê, số vốn đăng ký của cả năm 1996 là 9212 triệu USD tăng 39% so với năm 1995 thì có lẽ tình hình vẫn khả quan. Tuy vậy, những ai quan tâm đến tình hình đầu tư đều nhận thấy rằng, nếu không có hai dự án xây dựng khu đô thị mới với tổng vốn đầu tư trên 3 tỉ USD được cấp vào những ngày cuối năm thì tổng vốn FDI năm 1996 sẽ chỉ còn gần 6 tỉ USD, thấp hơn tổng vốn FDI năm 1995. Đến năm 1997 thì tình hình rõ ràng hơn, tổng vốn đăng ký chỉ còn 4462 triệu USD, nếu kể cả số vốn tăng thêm 1095 triệu USD của 143 dự án điều chỉnh thì cả năm số vốn đăng ký là 5,5 tỉ USD, chỉ bằng khoảng 64% số vốn FDI đăng ký năm 1996 mặc dù số dự án bằng 91%. Bước sang năm 1998 do tiếp tục bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực kéo daì nên đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bị giảm xút mạnh. Tuy vậy phải nhờ các chính sách phù hợp, tập trung sử lý những vướng mắc kịp thời nên năm 1998 vẫn có thêm 260 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn là 4827 triệu USD. Năm 1999 số dự án là 280 song tổng số vốn chỉ đạt 2000 triệu USD. Như vậy trong giai đoạn 1996-1999 số dự án( trừ 1999) được cấp giấy phép liên tục giảm, tổng số vốn đầu tư cũng có chiều hướng giảm theo. 2.Về cơ cấu vốn đầu tư: Đây là một vấn đề có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn FDI, nó có tác dụng to lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của chúng ta. Theo số liệu thống kê, cơ cấu vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua đã có bước tiến bộ rõ rệt. Tính đến tháng 8-1993, ngành công nghiệp khai thác ( chủ yếu là dầu khí) và khách sạn, du lịch thu hút tới 40,9% tổng số vốn đầu tư, thì năm 1998 số vốn đầu tư vào các ngành này chỉ còn 18,2%. Số vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất và xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng gia tăng. Tính đến năm 1998 đã có đến 21,236 tỉ USD đầu tư vào khu vực này, chiếm 2/3 tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam. Nếu tính suốt cả thời kỳ 1988-1997 ngành công nghiệp có 1977 dự án với số vốn đăng ký là 11546,3 triệu USD, thứ hai là ngành khách sạn, du lịch co 189 dự án với số vốn đăng ký là 3880,5 triệu USD; thứ ba là ngành giao thông-bưu điện có 120 dự án với số vốn là 2785,9 triệu USD; thứ tư là ngành nông-lâm nghiệp-thuỷ sản có 316 dự án với số vốn là 1527,3 triệu USD. Cơ cấu này được thể hiện ở bảng sau: (Đơn vị vốn đầu tư: triệu USD) STT Ngành Tính đến tháng 8-1993 Tính đến năm 1998 số dự án tổng số vốn Tỉ lệ % vốn số dự án tổng số vốn Tỉ lệ % vốn 1. Công nghiệp chế biến 285 2328 39.6 1291 13008 40,5 2. Công nghiệp khai thác 25 1124 19.1 79 2184 6.8 3. Xây dựng 14 16 0.3 259 8228 25,6 4. Khách sạn và du lịch 86 1276 21.8 161 3650 11,4 5. Giao thông và bưu điện 34 456 7.8 102 1465 4,6 6. Nông-lâm nghiệp 81 239 4.1 54 316 1,0 7. Ngư nghiệp 32 90 1.5 47 206 0,6 8. Các nghành khác 68 336 5.8 327 3045 9.5 Tổng cộng 625 5865 100 2320 32102 100 (Nguồn:Bộ Kế hoạch vàĐầu tư) Nếu như thời kỳ đầu các ngành sản xuất chỉ chiếm từ 50-60% tổng số vốn đầu tư thì năm 1996 con số đó đã lên tới 80%. Vốn đầu tư tăng mạnh vào các ngành công nghiêp thực phẩm, năm 1996 tăng 154% so với năm 1995; Ngành giao thông và bưu điện tăng 89%; xây dựng và sản xuất vật liệu công nghiệp tăng 63% trong cùng thời kỳ. Điều đáng chú ý là trong thời gian qua đã có một số dự án đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Ngược lại so với năm 1995, năm 1996 FDI trong lĩnh vực khách sạn giảm đi 53%, văn phòng cho thuê giảm 70% và tài chính ngân hàng giảm 44%. Mức giảm còn mạnh hơn vào 1997 và 1998. Sự phân phối lại nguồn vốn đầu tư trong công nghiệp chứng tỏ các nhà đầu tư nước ngoài đã ngày càng tin tưởng vào tiến trình đổi mới ở Việt Nam, không chỉ đầu tư vào những ngành thu hồi vốn nhanh mà họ còn yên tâm đầu tư vào các dự án phát triển dài hạn. Có được kết quả này là nhờ vào một phần quan trọng trong việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Tuy nhiên cũng dễ nhận thấy là số vốn FDI đầu tư vào các ngành nông-lâm-ngư nghiệp còn quá ít. Đến năm 1998, mới có 1629 triệu USD chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số vốn FDI mặc dù khu vực này có rất nhiều tiềm năng để phát triển như khai thác để chế biến nông lâm thuỷ sản. Điều này cho thấy trong những năm tới khu vực này cần tập trung thu hút nguồn FDI nhiều hơn nữa để có thể tận dụng tốt hơn các nguồn lực cho phát triển. Cơ cấu vốn đầu tư cho vùng lãnh thổ cũng đã từng bước phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế. Những năm đầu, các nguồn vốn đầu tư tập trung nhiều vào các tỉnh phía nam. Như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu... Thì hiện nay nguồn FDI đã có sự phân bổ tương đối đồng đều giữa các vùng, tập trung chủ yếu tại các khu vực kinh tế trọng điểm như Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh ở miền Bắc; Đà Nẵng-Thừa Thiên Huế-Quảng Ngãi, ở miền Trung; Thành phố Hồ Chí Minh-Đồng Nai, Vũng Tàu,Bình Dương ở miền Nam, từ đó làm hạt nhân phát triển cho các khu vực vệ tinh 3.Về đối tác đầu tư. Hiện nay đã có trên 800 công ty và tập đoàn thuộc hơn 60 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào ViệtNam với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các tập đoàn, các công ty đa quốc gia có tiềm lực rất lớn về tài chính, công nghệ như: Sony, Toyota, Honda, Sanyo của Nhật Bản. Deawoo, Goldstar, Samsung của Hàn Quốc, Motorola, Ford của Mỹ; Chingpon, Vedan của Đài Loan... Bên cạnh đó cũng có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam. Điều này cũng thực sự cần thiết vì các doanh nghiệp này thường rất năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thị trường; hoạt động rất có hiệu quả, từ đó sẽ là cơ sở cho các tập đoàn, các công ty lớn nhìn nhận đúng hơn môi trường đầu tư, kích thích họ an tâm đầu tư nhiều hơn nữa vào Việt Nam. Tính đến hết tháng 12 – 1997, theo số liệu thống kê của bộ Kế hoạch và đầu tư, các nước và vùng lãnh thổ có số vốn đầu tư lớn vào Việt Nam được thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Các nước và vùng lãnh thổ đứng đầu về FDI ở Việt Nam Nước và vùng lãnh thổ Số dự án tỉ trọng (%) Tổng vốn đầu tư(triệu USD) Tỉtrọng (%) Singapore 181 9.4 6447 20 Đài Loan 309 16 4268 13,3 Hồng Kông 184 9,5 3734 11,6 Nhật Bản 213 11 3500 11,4 Hàn Quốc 191 9,9 3154 9,8 Pháp 96 5.0 1465 4,6 Malaysia 59 3.1 1370 4,3 Hoa Kỳ 70 3.6 1230 3,8 Thái Lan 78 4.0 1109 3,4 BV.Island 55 2.9 1089 3,2 Tổng 1436 74.4 27366 85,4 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư) Trong những năm đầu, các nước như Anh, Pháp, Australia, Hà Lan . .. là những nước đi tiên phong trong việc đầu tư ở Việt Nam. Tuy vậy vị thế của họ tại Việt Nam ngày càng suy giảm khi có sự tham gia rất mạnh mẽ của các nước và vùng lãnh thổ thuộc vành đai Châu á-Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông á, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông( Đông Bắc á) và Singapore, Malaysia, Thái Lan( Đông Nam á). Hiện nay 5 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là các nước và vùng lãnh thổ vào khu vực này. Tuy nhiên từ tháng 7-1997 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, tốc độ triển khai các dự án cũng như số vốn đầu tư vào Việt Nam của các nước và khu vực này nhìn chung đều có xu hướng chậm lại và ảnh hưởng rất lớn đến việc huy động vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế. Thực trạng này đặt ra một bài toán đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn nữa trong việc tao ra môi trường đầu tư hấp dẫn, không chỉ ở khu vực Châu á mà còn ở các khu vực khác như Tây âu và Bắc Mĩ, các khu vực có tiềm lực lớn về tài chính và công nghệ. Điều đáng chú ý là trong năm 1998 vốn đầu tư của các nhà đầu tư Châu âu và Bắc Mĩ đã chiếm 60% tổng vốn FDI tại Việt Nam. Sự chuyển dịch này có ý nghĩa lớn ở chỗ bù đắp sự thiếu hụt nguồn đầu tư từ các nước Châu á. 4. Một số nguyên nhân sụt giảm FDI trong những năm gần đây. Năm 1997 so với năm 1996 số dự án được cấp giấy phép hoạt động tăng chút ít, nhưng số vốn đăng kí chỉ bằng 52%. Điều đáng quan tâm là trong năm 1997 số dự án giải thể nhiều hơn các dự án đã được cấp giấy. Sang năm 1998 và 1999, FDI tiếp tục giảm. Có nhiều cách giải thích tình trạng này, song chung quy có mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất: Sư thay đổi chính sách đầu tư thông qua việc sửa đổi nhiều lần luật đầu tư mà lần sửa đổi căn bản nhất vào năm 1996 đã làm cho các nhà đầu tư e ngại và chờ đợi. Theo họ việc thay đổi luật đầu tư có mặt khuyến khích các nhà đầu tư nhưng cũng có các điều khoản thắt chặt hơn điều kiện đầu tư. Hơn nữa, việc sửa đổi nhiều lần cũng thể hiện sự thiếu ổn định về chính sách và pháp luật. Thứ hai: Môi trường đầu tư tại Việt Nam chứa đựng nhiều rủi ro, việc thực hiện các quy định có tính chất pháp lý còn tuỳ tiện và sử lý các vấn đề phát sinh rất chậm chạp, thêm vào đó mỗi địa phương, mỗi cấp lại sử lý theo một cách riêng. Thứ ba: Các lĩnh vực đầu tư được coi là hấp dẫn nhất ở Việt Nam như: Rượu, bia, khách sạn, văn phòng cho thuê, lắp ráp ôtô, xe máy và thiết bị điện tử dân dụng... nói chung đã bão hoà. Thứ tư: So với các nước trong khu vực thì giá thuê nhà, thuê đất, giá dịch vụ,... ở Việt Nam còn quá đắt, chưa kể các nhà đầu tư còn phải đóng góp nhiều loại thuế và lệ phí. Thứ năm: Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nên các nhà đầu tư không đầu tư các dự án mới hoặc phải đình hoãn các dự án đang đầu tư dở dang. Nói chung, diễn biến về tình hình FDI tại Việt Nam còn phức tạp. Đòi hỏi phải nhận thức rõ và có những giải pháp hữu hiệu trước mắt cũng như lâu dài để đẩy nhanh tốc độ huy động FDI trong thời gian tới. II. Khó khăn và thách thức. Thị trường đầu tư tại Việt Nam là thị trường mới nổi lên. thời gian hoạt động chưa phải là nhiều, nhưng đã bộc lộ nhiều khó khăn và thách thức lớn. Muốn củng cố để cho thị trường ổn định lâu dài, thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài cần nhìn thẳng vào những khó khăn, thách thức đã và đang sảy ra để từ đó có các giải pháp thích hợp về vấn đề này. 1.Sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI giữa các nước và các khu vực. Kể từ 1995, kinh tế Mỹ, Tây âu và Nhật Bản bắt đầu phục hồi sau một thời gian suy thoái, tình hình đó thúc đẩy các nhà đầu tư trên thế giới dùng70 % tổng vốn FDI đầu tư cho những nước công nghiệp phát triển( Tổng FDI của cả thế giới gần 300 ti USD). Phần vốn còn lại là các nước đang phát triển phân chia và cạnh tranh với nhau. Do đó mức độ cạnh tranh thu hút FDI càng trở nên gay gắt, nhất là khu vực Châu á. ở đây có những thị trường mới nổi lên như Trung Quốc, ấn độ và Inđonesia. Hàng năm trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài đổ vào các nước đang phát triển thì Trung Quốc tiếp nhận 1 /2. ấn độ sau những năm gần đây tích cực cải cách kinh tế, môi trường đầu tư được cải thiện nên FDI vào nước này đang tăng nhanh. So với Việt Nam thì các đối thủ này rất mạnh, xét về nhiều phương diện, từ quy mô thị trường đến trình độ công nghiệp hoá và các cơ chế chính sách nhăm thu hút FDI. 2.Vấn đề công nghệ: Các công ty đa quốc gia luôn năm hầu hết các công nghệ hiện đại của thế giới. Nếu FDI của họ vào nước ta càng nhiều thì quá trình chuyển giao công nghệ cũng càng nhiều và càng nhanh. Nhưng nó chỉ là khả năng. Tất cả các quốc gia nhận FDI đều mong muốn nhận được công nghệ hiện đại. Nhưng hiện đại đến đâu lại tuỳ thuộc vào điều kiện của các nước sở tại. Việt Nam cũng như một số nước đang phát triển khác đang đứng trước những khó khăn và thách thức lớn về vấn đề công nghệ. Đó là: 2.1. Chính sách của Việt Nam hiện nay vẫn là khuyến khích thay thế nhập khẩu và bảo hộ thị trường trong nước. Thực tế cho thấy, nếu như sản xuất để thay thế nhập khẩu và để tiêu dùng trong nước, lại được nhà nước bảo hộ thì không phải nhập khẩu công nghệ hiện đại, đắt tiền bởi vì các nhà đầu tư dùng nguyên liêụ và lao động rẻ, công nghệ lạc hậu vẫn sản xuất ra các mặt hàng có thể tiêu thụ được . Nếu chuyển mạnh sang thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành xuất khẩu chắc chắn các nhà đầu tư và các cơ quan tiếp nhận đầu tư sẽ phải viện trợ công nghệ tiên tiến hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh và tiêu thụ được sản phẩn trên thị trường quốc tế. Việc chuyển từ chính sách thay thế nhập khẩu sang chính sách hướng về xuất khẩu đòi hỏi không chỉ phải đổi mới tư duy về chính sách kinh tế mà cả công nghệ nhập khẩu và cơ chế quản lý cũng phải thay đổi. Không thể đồng nhất việc bảo hộ sản xuất của một số doanh nghiệp với việc bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhà nước có thể tăng thuế suất nhập khẩu để bảo hộ sản xuất cho một số ngành nghề tiếp tục hoạt động, bảo đảm việc làm cho hàng ngàn người nhưng tai hại rất lớn mà hàng triệu người tiêu dùng phải gánh chịu là mua hàng hoá đắt, chất lượng thấp. Nếu như thuế nhập khẩu giảm đi, hàng ngoại sẽ cạnh tranh với hàng nội, điều đó buộc các doanh nghiệp sẽ phải đổi mới công nghệ theo hướng tiên tiến hiện đại. 2.2. Kinh nghiệm của các nước Đông á như Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy, muốn sử dụng công nghệ hiện đại phải có nguồn nhân lực được đào tạo căn bản để tiếp thu và làm chủ các công nghệ đó. ở Nhật Bản, Hàn Quốc việc nhập khẩu công nghệ được xuy xét rất kỹ. Thời kỳ đầu có thể phải nhập khẩu thiết bị toàn bộ qua FDI, nhưng đến giai đoạn sau họ nhập bản quyền, thiết bị lẻ và cải tiến công nghệ đó, nâng cao tính năng và hiệu xuất máy móc. Họ làm được như vậy vì có đội ngũ công nhân lành nghề, và các chuyên gia có trình độ cao. Hiện tại ở Việt Nam do thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ lao động kỹ thuật nên giả sử có thực hiện một cách tích cực chính sách hướng về xuất khẩu thì với điều kiện nhân lực như hiện nay việc nhập khẩu công nghệ thực sự tiên tiến và hiện đại chưa hẳn đã là hiệu quả. Đây là một khó khăn đòi hỏi phải sớm khắc phục. 2.3. Cơ sở hạ tầng để phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam rất lạc hậu. Đầu tư cho khoa học công nghệ còn rất thấp, bên cạnh đó các ngành, các cấp cũng chưa thực sự quan tâm đến công tác này, đặc biệt là công tác nghiên cứu ứng dụng triển khai. 3. Vấn đề thị trường. Thị trường trong nước nói là gần 80 triệu dân nhưng sức mua không lớn. Những năm gần đây nhiều mặt hàng sản xuất ra tiêu thụ rất khó hoặc bị ứ đọng, điển hình là ximăng, sắt thép, hàng may mặc, đường ,... Một số mặt hàng như ô tô, xe máy mới đầu tư những năm gần đây nhưng tiêu thụ trong nước rất chậm đã làm cho việc tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp khó khăn. Năm 1996, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 11 tỉ USD, phần lớn số hàng nhập khẩu này là hàng trong nước chưa sản xuất được. Vì thế các công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam đang nhằm vào sản xuất các mặt hàng mà Việt Nam phải nhập khẩu. Tuy nhiên do nhiều công ti của cả nước ngoài và trong nước đều tập trung vào sản xuất ra các mặt hàng này nên cạnh tranh rất gay gắt và mức tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp cũng giảm, làm cho FDI giảm theo. Bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á xảy ra vào cuối năm 1997, nhiều nhà kinh doanh cho rằng đó là điều kiện thuận lợi để Việt Nam thu hút FDI. Theo họ khi các nước trong khu vực mất ổn định về tài chính, thì đầu tư ở Việt Nam sẽ ít rủi ro hơn và có hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính không những gây thiệt hại nặng nề cho các nước đó mà còn làm cho dòng FDI vào Việt Nam và mức xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh. Ngoài những khó khăn chính nêu trên thì một tồn tại không nhỏ là cơ cấu đầu tư ở Việt Nam một mặt vưà phân tán manh mún, mặt khác lại quá tập trung vào một số ngành, lĩnh vực và địa phương. Không ít trương hợp cùng một mặt hàng nhưng có nhiều dự án cùng đầu tư sản xuất chẳng hạn như xi măng, đường ... Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hình như không theo quy luật của cơ chế thị trường. Trước xu thế và những khó khăn, thách thức mà Việt Nam đã và đáng đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. III .Triển vọng FDI tại Việt nam trong những năm tới. Xét về lâu dàiFDIvào châu áchịu tác động của 2 yếu tố:Cạnh tranh gay gắt giưã các nước trong khu vực và cạnh tranh giữa các nước trong khu vực với các nước ngoài khu vực . Nhìn vào khu vực châu á thái bình dương thì thị trường châu á gồm:Đông á ,ASEAN ,trung quốc và ấn độlà những thị trường đang lên đầy tiềm năng.nhìn vào tương lai asean như là một tổng thể do việc thành lập khu vực mậu dịch tự do asean gọi tắt là Afta khối này trở thành một thị trường lớn với số dân trên 500 triệu người.Nếu sự phân công khai thác,sử dụng tài nguyên và lao động hợp lý,có sự liên kết chật chẽ giữa các quốc gia thì khu vực này sẽ là địa bàn thu hút khối lượng lớn FDI từ các công ty xuyên quốc gia của nhật bản,mỹ,Tây âu và các nước Nics. Theo đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế(IMF)thì khu vực châu á -thái bình dương hiện vẫn là khu vực kinh tế năng động đạt được tốc dộ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm.Nhiều dự báo cho thấy trung tâm buôn bán và đầu tư đến giữa thế kỉ 21 sẽ chuyển vào châu á -thái bình Dương.Mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ song theo đánh giá của ngân hàng thế giới(WB) thì với sự giúp đỡ của IMF cùng với việc cải cách kinh tế sâu rộng ở các nước này tình hình kinh té của các nước trong khu vực nói chung đang từng bước hồi phục.Tốc độ tăng trưởng củamột số quốc gia Đông nam á và ASEAN sau năm 2000 sẽ đạt mức cao.Do đó châu á -thái bình Dương vẫn là một thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Là thành viên ASEAN với những lợi thế nhất định về địa lý, tài nguyên và lao động, nền kinh tế phát triển ổn định,Việt Nam vẫn là một thị trường có tiềm năng thu hút FDI trong tương lai.Tuy nhiên trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế và khu vực,Việt Nam cần phải xem xét kĩ các yếu tố và xu thế sau: - Thứ nhất: Với tư cách là nước cùng nhận FDI, các nước ASEAN, Trung Quốc và Việt Nam là những đối thủ cạnh tranh lợi thế so sánh gần giống nhau, các mặt hàng xuất khẩu gần giống nhau, cho nên trong chiến lược phát triển kinh tế của các nước cũng bố trí cơ cấu kinh tế giông nhau. Đặc trưng chủ yếu của các nền kinh tế này là khai thác tài nguyên và phát triển những ngành sử dụng nhiều lao động. Vì vậy, tính chất cạnh tranh trong thu hút FDI rất cao. Do vậy, khả năng thu hút FDI của từng quỗc gia phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và môi trường đầu tư của mỗi nước. - Thứ hai: Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đầu tư của các công ty đa quốc gia của Nhật Bản. Mỹ, Tâu âu giữ vai trò hết sức quan trọng. Trong chiến lược đầu tư ra nước ngoài của các công ty này, bên cạnh những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, họ thường xuất phát từ những lợi thế so sánh mang tính chất dài hạn như: Chất lượng lao động (lao động lành nghề), thị trường tiêu thụ, chính sách phát triển kinh tế của từng nước để đưa ra các quy định đầu tư. Vì vậy, việc nghiên cứu chiến lược đầu tư của các công ty đa quốc gia để có sự hiểu biết đầy đủ về họ có ý nghĩa quyết định đối với quá trình tiếp nhận đầu tư. - Thứ ba: Gia nhập AFTA, Việt Nam phải thực hiện lộ trình các dạng thuế đối với hàng nhập từ các nước ASEAN xuống dưới 5%. Thực tế Việt Nam đang thực hiện giai đoạn một của lộ trình này và đến năm 2006 có thể gia nhập với tư cách là thành viên đầy đủ. Điều này có nghĩa là Việt Nam phải dỡ bỏ hàng rào thuế quan với các hàng hoá nhập từ các nước ASEAN. Tình hình đó buộc các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế là phải mau chóng đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức và quản lý đi liền với tăng cướng hợp tác với các công ty nước ngoài. - Thứ tư: Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được phê chuẩn và đi vào hiện thực sẽ mở ra khả năng to lớn đối với các hoạt động thương mại và đầu tư giữa hai nước. Chúng ta có thể tranh thủ được nguồn vốn FDI lớn từ các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Trên đây là những xu hướng chung, khả năng thu hút FDI còn phụ thuộc rất lơn và môi trường nhà nước, luật pháp…, mức độ khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và nỗ lực của chúng ta. Phần III: Những giải pháp cụ thể nhằm huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam trong thời gian tới. I. Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Tháng 12 năm 1987, quốc hội thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam tạo cơ sở pháp lý cơ bản, đầu tiên cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ngoài tại nước ta. Luật quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư, về hình thức đầu tư, về quyền lợi và nghĩa vụ của tổ chức, các nhân đầu tư nước ngoài và về cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài. Luật được ban hành trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ đổi mới sau đại hội VI của Đảng, nền kinh tế trong nước về cơ bản vẫn được tổ chức quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, chưa có đạo luật kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường được thông qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0216.doc
Tài liệu liên quan