MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀLÝ LUẬN VỀCHUYỂN DỊCH CƠCẤU
KINH TẾNÔNG NGIỆP
I. Vai trò, vịtrí, đặc điểm của nông nghiệp trong nền kinh tếquốc dân.
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
2. Vai trò, vịtrí của sản xuất nông nghiệp
II. Chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp với phát triển nông nghiệp -Nông thôn
1. Chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp với sựphát triển của nền kinh tếquốc dân
2. Kinh nghiệm của một sốnước trên thếgiới
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp và nông thôn.
4. Sựcần thiết phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
PHẦN II. THỰC TRẠNG VỀCHUYỂN DỊCH CƠCẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪTRƯỚC NĂM 1985-1988 TỚI NAY.
I. Giai đoạn từtrước năm 1989 đến năm 1988
II. Giai đoạn từnăm 1989 đến năm 1994
1. Chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp
a. Chính sách chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp.
b. Đánh giá chung vềnhững hạn chếcủa chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp
2. Một sốtác động của việc đô mới chính sách chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp
III. Giai đoạn 1995-1999
1. Những đánh giá tình hình và xu hướng chuyển dịch cơcấu kinh tế
nông nghiệp giai đoạn 1995-1999.
2. Đánh giá chung vềnhững hạn chếmà quá trình chuyển dịch cơcấu kinh
tếnông nghiệp trong giai đoạn 1995-1999
PHẦN III. GIẢI PHÁT CHO XU HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠCẤU
KINH TẾNÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
I. Những vấn đề đặt ra và phương hướng chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp
1. Những vấn đềcần tiếp tục giải quyết trong chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp
2. Phương hướng chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp giai đoạn 2001-2005
II. Giải pháp chuyển dịch cơcấu kinh tếnông nghiệp 2001-2005
KẾT LUẬN
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1951 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn.
+Vị trí đại lý và khí hậu tự nhiên: ở những vị trí địa lý khác nhau và
vùng khí hậu khác , việc xác định cơ cấu kinh tế cũng khác nhau. Xác định
cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn cũng có nghĩa là xác định cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở các vùng điều kiện địa lý và khí hậu tự
nhiên khác nhau của nước ta. Bởi vậy, cơ cấu kinh tế của một nước, một
vùng bao giờ cũng dựa trên qu thế về điạ lý và khí hậu của nước đó, vùng
đó.
+Các nguồn lợi: bao gồm tài nguyên khoáng sản,nguồn nước, nguồn
năng lượng, đất đai… có hay không có, có nhiều hay có ít các tài nguyên
này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định cơ cấu kinh tế của một quốc gia
nó chung và của vùng đó nói riêng.
+Phong tục tập quán và truyền thống dân tộc: Đây là nhân tố vừa có
tác dụng thúc đẩy vừa có tác dụng kìm hãm. Một quốc gia nào hay một vùng
nào đó ở đâu đó có phong tục tập quán canh tác lạc hậu ví dụ như du canh,
du cư thì ở đó có sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất diễn ra không thể nhanh
chóng và suôn sẻ được. Ngược lại, ở đâu có tập tụ, tập quán truyền thống
sản xuất tiến bộ thì ở đó việc làm chuyển biến cơ cấu kinh tế nói chung sẽ dễ
dàng hơn.
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
13
+Trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ : với trình độ này càng cao
thì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ càng dễ dàng hơn và công nghệ hiện
đại, tiên tiến đó sẽ là một trong những điều kiện thuận lợi cho việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng.
+Con người: ta biết rằng cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, thế
nhưng việc nó hình thành nhanh hay chậm , hợp lý hay không hợp lý, lại do
tác động chủ quan của con người. Bởi vì, con người là nhân tố có ý nghĩa
quyết định trong việc tiến hành cơ cấu kinh tế.
Ví dụ điển hình như Nhật Bản, một nước hiếm tài nguyên, đất nước
vươn lên ngang tầm với các nước phát triển nhất trên thế giới, một đất nước
có nền kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển.
4. Sự cần thiết phải công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp
Chuyển dịc cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nói riêng theo hướng ngày càng tiến boọ là một xu thế tất yếu
khách quan của các nền kinh tế quốc gia khác nhau, nó vừa có những nét
chung mang tính quy luật và vừa có những nét riêng mang tính đặc thù phù
hợp với yêu cầu và điều kiện cụ thể của nền kinh tế mỗi quốc gia ấy trong
từng thời kỳ lịch sử.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là kết quả của sự phát triển
trong cạnh tranh trên thị trường, những ngành có hiệu quả cao sẽ phát triển
ngày càng mạnh mẽ, các ngành kém hiệu quả sẽ bị thu hẹp lại, mà việc chủ
động thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo mục tiêu và nhu
cầu của sự phát triển, gắn với dự báo tiến bộ khoa học công nghệ và thị
trường là một trong những khâu quyết định tạo ra tăng trưởng kinh tế, ở
những nước có công nghệ tiên tiến thì luôn tạo ra công nghệ mới, còn ở
những nước đang phát triển thì tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, từ
đó hình thành cơ cấu mới trong công nghiệp và trong nền kinh tế với các
ngành nghề mới, sản phẩm mới, tạo ra sức cạnh tranh cao và tăng trưởng
nhanh.
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
14
Đất nước ta xuất phát và đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu chính
vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn.
Trong nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
đại hoá sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển vượt bậc. Thực hiện công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ thúc đẩy được nhiều vùng sản
xuất hàng hoá tập trung, chuyên canh như: lúa, cao su, cà phê, chè.. Hơn
nữa, với ngành công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản đã có những bước
tăng trưởng đáng kể . Đó là điều kiện nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
15
PHẦN II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 1985 ĐẾN NAY.
I. GIAI ĐOẠN TỪ TRƯỚC NĂM 1985-1988
Nông nghiệp nước ta trong giai đoạn này gặp rất nhiều những rào
cản, vượt qua tình trạng khủng hoảng và suy thoái kéo dài trong những năm
1976-1980.
Đến tháng 1-1980 - Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ra
đời lúc đó với nhân dân khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm người và hộ lao
động (và đây thực chất là khoán hộ). Chính vì vậy, đã được coi là chìa khoá
vàng mở ra thời kỳ mới của nông nghiệp và cả của kinh tế nông thôn.
Những kết quả đạt được trong giai đoạn này của sản xuất nông nghiệp là
những thành tựu bước đầu hơn hẳn các thời kỳ trước. Bình quân 5 năm
1981-1985 so với bình quân 5 năm 1976-1980 sản lượng lương thực tăng
27%, riêng thóc tăng lên 32%, năng suất lúa tăng 23%, lương thực bình
quân đầu người tăng 14%, đàn trâu tăng 8%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng
22%.
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5/4/1988) về đổi mới quản lý nông
nghiệp với nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân là đơn vị kinh tế
tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông
nghiệp và nông thôn nước ta.
Sản xuất lương thực đã tăng lên với xu hướng năm sau cao hơn năm
trước: năm 1987 là 17,5 triệu tấn, 1988 là 19,6 triệu tấn. Trong gần 3 thập
kỷ lương thực ở nước ta luôn là vấn đề nóng bỏng, tình trạng thiếu lương
thực diễn ra triền miên. Riêng 13 năm (1976-1988) nước ta nhập khẩu 8,5
triệu tấn quy gạo, bình quân hàng năm nhập 0,654 triệu tấn.
Mặt khác, nông nghiệp nước ta mang nặng tính độc canh (vào những
năm đấuau thời kỳ giải phóng). Diện tích cây lương thực năm 1976 chiếm
88,0% trong đó lúa chiếm 75,2% tổng diện tích gieo trồng, các loại cây
trồng khác chiếm tỷ trọng diện tích còn thấp. Cây công nghiệp chiếm 6%,
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
16
cây ăn quả 2%. Từ năm 1981 trở đi lương thực có sự phát triển, vấn đề
lương thực giảm bớt khó khăn cho nhân dân ta trong nghiên cứu năm của
thời kỳ đó.
Nông nghiệp trong thời gian này cũng đã có được sự đóng góp quan
trọng trong việc tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho
đất nước với quan điểm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, do vậy, kinh tế
nước ta đã có những tiến bộ khởi sắc và chuyển biến tích cực. Năm 1986
giá trị xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt 513 triệu rúp-đo la.
Có được những bước đầu khởi sắc của giai đoạn gần thập niên 90 này
là do sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta nhằm từng bước phát
triển nền kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng. Trong giai
đoạn này, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới bắt đầu được
hình thành song vẫn chưa được quan tâm đúng mức vì do điều kiện kinh tế
nước ta tác động. Nông nghiệp ta thời kỳ này vẫn độc canh là chủ yếu, cây
trồng vật nuôi mới chỉ là "có sự góp mặt" còn chủ yếu là lúa, hoa màu cho ta
năng xuất thấp khiến nước ta vẫn phải nk lương thực, thực phẩm.
II. GIAI ĐOAHN TỪ NĂM 1989 ĐẾN NĂM 1994
1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
a. Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Trong giai đoạn này, Đảng ta luôn luôn khẳng định sự phát triển kinh
tế nước ta phải dựa trên cơ sở kết hợp một cách đúng đắn giữa công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ.
Trong hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khoá VII họp tháng
12 năm 1993 đã xác định "từ nay đến cuối thập kỷ phải rất quan tâm đến
công nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn
diện nông, lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ
sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…" (Đảng cộng
sản Việt Nam, Văn kiệnn Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá
VII, Tháng 1 năm 1994). Trước đó nhà nước ta đã có chính sách ưu tiên ,
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
17
phát triển cho nông nghiệp và nông thôn, tạo điều kiện cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tháng 1 năm 1980, chỉ thị 100 của Ban chấp hành bí thư Trung ương
Đảng với nội dung khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm và người lao động
(thực chất là khoán hộ). Đây là chìa khoá vàng mở ra thời kỳ mới của nông
nghiệp và kinh tế nông thôn cho nước ta.
Tiếp đến là Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5-4-1988) về đổi mới
quản lý nông nghiệp với nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân,
thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Đây là một mốc
mới đánh dấu cho sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông
thôn nước ta.
Những chính sách của Đảng và nhà nước ở trên là một tiền đề mở ra
cho nền nông nghiệp một hướng đi mới, tạo điều kiện cho sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta một cách cơ nền tăng trưởng, có hiệu
quả hơn.
Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã và
đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta một cách có nền
tảng, có hiệu quả hơn.
Trong giai đoạn này, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã và
đang chuyển dịch theo cơ cấu ngành, theo vùng, theo lãnh thổ tới nền sản
xuất hàng hoá, với những tiến bộ đáng kể:
* Một là: cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển biến khá rõ nét, đã và
đang tạo thế cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Với thành tựu to
lớn nhất của nông nghiệp trong giai đoạn này là căn bản giải quyết được
vấn đề lương thực. Sau 18 năm kể từ trước những năm 1985-1988, sau
lượng lương thực nước ta tăng 86,6%, mức lương bình quân đầu người từ
274,4kg/năm năm 1976 tăng lên 359,2kg/năm 1993. Chỉ trong thời gian 6
năm ở giai đoạn này, khối lượng gạo xuất khẩu từ 1,5-2,0 triệutấn và xếp
hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo trên thế giới.
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
18
Giải quyết được vấn đề lương thực là điều kiện quyết định để phát
triển đa dạng hoá cây trồng và vật nuôi. Đến năm 1993 diện tích cây công
nghiệp tăng lên 1290.000ha, chiếm 13,3% trong đó cây công nghiệp tăng
3,77 lần, cây ăn quả tăng 3,0 lần so với trước những năm 1985-1988, tỷ
trọng diện tích cây lương thực giảm xuống 78,4% trong đó riêng lúa chiếm
65,7. Lương thực dồi dào, nguồn thức ăn phong phú tạo điều kiện để phát
triển chăn nuôi, trong đó đàn lợn là nguồn cung cấp thịt chủ yếu cho nhân
dân, năm 1991 chiếm 70,5% tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng. Năm 1993
số lượng đàn bò ở Miền bắc đã gấp 2,56 lần so với năm 1976 và gấp 2,45
lần so với năm 1980. Ngoài ra, chăn nuôi gia cầm đang phát triển mạnh về
số lượng và chủng loại cùng với phương thức chăn nuôi truyền thống, nông
dân đã tiếp thu phát triển chăn nuôi theo kiểu công nghiệp.
Trong những năm của giai đoạn này, thuỷ sản đã có bước phát triển
đáng kế, công tác nuôi trồng thuỷ sản được co trọng, nhất là vùng ven biển.
Những cơ sở sản xuất giống và nuôi tôm xuất khẩu được phát triển , mở
rộng các hình thức tổ chức liên doanh với nước ngoài để nuôi tôm được triển
khai ở ven biển Miền trung. Việc đánh bắt hải sản đang được khôi phục và
phát triển ở nhiều địa phương, tầu thuyền, các phương tiện đánh bắt được
tăng cường, nhờ vậy mà sản lượng thuỷ hải sản tăng nhanh, sản phẩm xuất
khẩu ngày càng lớn.
Biểu 3: Cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản cả nước 1991-1994
(%)
1991 1992 1993 1994
Nông nghiệp 84,5 84,7 84,5 85,3
Lâm nghiệp 7,7 6,8 7,0 6,5
Thuỷ sản 7,6 8,5 8,5 8,2
Việc giao đất, giao rừng được tiến hành rộng rãi tới người dân, việc
bảo vệ, khoanh nuôi và tái sinh rừng tốt hơn, diện tích rừng trồng tăng lên,
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
19
kết hợp trồng rừng với trồng cây công nghiệp, làm vườn và chăn nuôi, góp
phần tạo ra sự bền vững về sinh thái và xã hội để phát triển rừng. Ở nhiều
vùng có dự án 327 đang triển khai tốt bước đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế
lâm nghiệp miền núi. Nhà nước chủ trương hạn chế khai thác xuất khẩu gỗ
tròn, sản lượng gỗ và kim ngạch xuất khẩu lâm sản có giảm xuống, những
rừng đang từng bước được hồi phục.
Chính nhờ vậy, nông nghiệp đã đóng góp quan trọng việc tăng nguồn
hàng xuất khẩu, tăng thêm nguồn ngoại tệ cho đất nước. Với quan điểm xuất
khẩu để tăng trưởng kinh tế, kinh tế nước ta đã có những tiến bộ và chuyển
biến tích cực. Năm 1993 tăng gần 3 lần (1500 triệu rúp đola) đến năm 1994
tăng lên khoảng 1800 triệu đô la, chiếm 48,0% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước.
* Hai là: ở các vùng sinh thái của đất nước đã bước đầu khai thác lợi
thế so sánh để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo
hướng sản xuất hàng hoá lớn có hiệu quả.
Trong những năm của giai đoạn này, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành diễn ra có giá trị kinh tế cao và xuất khẩu. Trước hết, phải khẳng định
thành tựu to lớn về sản xuất lương thực chủ yếu là cây lúa. Lúa gạo đã và
đang hình thành 2 vùng sản xuất chuyên môn hoá của cả nước, những năm
này tỷ trọng sản lượng thóc so với cả nước tăng lên từ 69,6% năm 1993,
trong đó vùng Đồng bằng Sông Hồng từ 19,5% lên 20,6% và Đồng Bằng
Sông Cửu Long từ 43,2 lên 49%. Cây công nghiệp lâu năm phát triển mạnh
và đang hình thành những vùng sản xuất với quy mô lớn. Diện tích cao su
năm 1993 của cả nước có 220.000 ha, trong đó có 93.000 ha cho thu hoạch
mủ với 70.000 tấn mủ khô được phân bố chủ yếu ở mủ khô cả nước. Sản
xuất cà phê cũng đang hình thành 2 vùng lớn: vùng Tây nguyên và vùng
Đồng Nam Bộ. Vùng Tây nguyên trong đó tập trung nhất là Đaklak chiếm
45,6% diện tích thu hoạch là 54,4% sản lượng cà phê nhân của cả nước, tiếp
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
20
đó Đồng Nai chiếm 22% diện tích thu hoạch và 24,6% sản lượng cà phê
nhân.
* Ba là: phát huy sức mạnh tổng hợp của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần trong quá trình phát triển sản xuất hàng hoá, những năm giai đoạn này
có sự chuyển dịch quan trọng từ kinh tế quốc doanh và kinh tế tập trung là
chủ yếu sang kinh tế hộ và các hộ nông dân đang trở thành lực lượng chủ
yếu hoạt động trong nông nghiệp và nông thôn.
Doanh nghiệp nhà nước đến nay đã có 1921 đơn vị quản lý và sử
dụng 7,5 triệu ha đất (trong đó có 415 lâm trường sử dụng 6,3 triệu ha rừng
và đất rừng, 318 nông trường sử dụng 1,3 triệu ha đất nông nghiệp) với
377.000 lao động, sử dụng 70% vốn đầu tư cơ bản cho nông lâm ngư
nghiệp, đến nửa năm 1993 đã có 940 doanh nghiệp đăng ký lại theo nghị
định 388/HĐBT.
Gần đây doanh nghiệp nhà nước về nông nghiệp nổi lên hai vấn đề:
+Một sơ sở nông nghiệp quốc doanh bước đầu phát huy vai trò trung
tâm khoa học kỹ thuật cho thành phần kinh tế và dân cư trên địa bàn như
giống cây, con, gắn công nghiệp chế biến với vùng sản xuất nguyên liệu:
mía đường, chè, cao su, cà phê.
+Với khoảng 70% đơn vị chuyển sang khoán gọn cho hộ thành viên
các khoản này đã tạo cho các hộ nhận khoán tiếp thu kỹ thuật mới, yên tâm
đầu tư vốn, lao động vào cây trồng, vật nuôi để tăng thu nhập. Trong lâm
nghiệp thực hiện chính sách giao đất, giao rừng và cơ chế khoán giữ đất lâm
nghiêp cho hộ gia đình công nhân sử dụng. Các hộ nông dân đang trở thành
lực lượng chủ yếu sản xuất lương thực và phát triển đa dạng cây trồng, vật
nuôi kết hợp khai thác nông lâm thuỷ sản, mở rộng và phát triển các ngành
nghề mới…
Bốn là: Cơ cấu kỹ thuật trong công nghiệp và nông thôn đã và đang
được chuyển dịch một cách mạnh mẽ và rộng khắp. Hệ thống kết cấu hạ
tầng được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới để đáp ứng được yêu cầu
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
21
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Những kỹ thuật truyền thống đang
được thay thế bởi những kỹ thuật tiến bộ, rõ nhất là giống cây trồng vật
nuôi. Cùng với cuộc cách mạng sinh học, vấn đề thuỷ lợi hoá, hoá học hoá,
điện khí hoá từng bước được tăng cường cho nông nghiệp và nông thôn,
công nghệ sau thu hoạch nhất là công nghiệp chế biến nông sản được coi
trọng và phát triển
Biểu 4 cơ cấu tỷ trọng nông nghiệp trong GDP (%) 1991-1994
1991 1992 1993 1994
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP (%) 40,5 33,9 28,9 28,7
Biểu 5: Sản lượng lương thực 1990-1994 (triệu tấn)
1990 1991 1993 1993 1994
Sản lượng lương thực quy ra thóc
b. Đánh giá chung về những hạn chế của chuyển dịch cơ cấu kinh
doanh nông nghiệp
Bên cạnh những tiến bộ và kết quả được ở trên, quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn những hạn chế và tồn tại.
+Một là: cơ cấu nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng
độc canh, tự cung, tự túc và vẫn còn đang ở trình độ sản xuất hàng hoá nhỏ
là chủ yếu.
Mặc dù có những tiến bộ trong chính sách phát triển nông nghiệp của
Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng ở
nước ta không thể chuyển mình nhanh chóng phát triển ngay được. Trong
thời kỳ này, đất nước ta mới bắt đầu có sự chuyể dịch nhưng còn nhỏ bé,
cần phải có một khoảng thời gian nhằm khắc phục dần những mặt yếu kém
trong nền nông nghiệp của nước ta.
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
22
+Hai là: các ngành nông lâm nghiệp chưa gắn bó với nhau trong cơ
cấu kinh tế thống nhất , mà thậm chí còn gây trở ngại, mâu thuẫn gay gắt
trong quá trình phát triển.
Nông nghiệp nước ta không thể phát triển cùng một lúc tất cả các
ngành nông nghiệp ngay được mà cần phải có sự hỗ trợ cho nhau, có mối
liên hệ giữa các ngành với nhau thì mới tạo đà và nền tảng cho phát triển và
đặc biệt cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Có phát
triển và cung cấp đầy đủ lương thực thì mới có thể đưa được chăn nuôi phát
triển được. Bởi vì lương thực hay sản phẩm của nông nghiệp nói chung là
sản phẩm thiết yếu đối với sự tồn tại của con người.
+Bốn là: tỷ lệ thuần nông còn cao, chưa gắn kinh tế nông nghiệp với
nông thôn, số hộ chuyên và kiêm về ngành nghề - dịch vụ chưa nhiều phần
lớn lao động thủ công, sự chi viện của công nghiệp vào nông nghiệp còn ít.
Như ta thấy, đất nước ta từ xưa đã là một nước công nghiệp, và ngày
nay, nông nghiệp đối với nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lớn, tỷ lệ dân cư
sống trong nông nghiệp nông thôn rất lớn chiếm gần80% và còn lại là dân
cư sống ở khu vực thành thị. Nền kinh tế nước ta còn nghèo, còn lạc hậu so
với những nước trong khu vực cũng như trên thế giới, nhân dân sống chủ
yếu là đồng ruộng, nền công nghiệp vẫn chưa phát triển. Điều đó sẽ tạo ra sự
chi viện giữa các ngành trong nền kinh tế là không hiệu quả (có những
không nhiều).
Với những nước trong khu vực, với một nền công nghệ đa dạng hoá,
lương thực đầy dủ cho nhân dân và xuất khẩu ra nước ngoài cùng với việc
phát triển các ngành khác như chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu thu
ngoại tệ. Bên cạnh đó còn có ngành dịch vụ phát triển mạnh…
+Bốn là: các thành phần kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn tuy
được pháp luật thừa nhận song vẫn còn những ràng buộc .
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
23
+Năm là: Kinh tế hộ tự chủ đã có bước phát triển khá, song năng lực
nội sinh của kinh tế hộ còn yếu, chưa đủ sức tự vươn lên để phát triển kinh
tế hàng hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
+Sáu là: thị trường nông sản còn hạn hẹp , chưa được khai thông sức
mua của nông dân còn thấp.
2. Một số tác động của việc đổi mới trong chính sách chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng tiến bộ là một xu
thế tất yếu, khách quan của các nền kinh tế quốc gia nói chung và nông
nghiệp nói riêng.
Nền nông nghiệp nước ta phải nghiên cứu một hướng đi mới nhằm
đưa nông nghiệp phát triển , là điều kiện cho các ngành khác trong nền kinh
tế quốc dân cùng phát triển. Như vậy, trước tiên là ta phải thực hiện công
nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Công nghiệp hoá nông
nghiệp hướng vào việc thực hiện thuỷ lợi hoá sớm, cơ giới hoá từng phần
công việc, mở rộng điện khí hoá phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản đồng thời tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở
nông thôn.
Có thể nói, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông nghiệp
ý nghĩa quyết định đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đây sẽ là một thời kỳ mở rộng thêm ra về chính sách phát triển cho
nông nghiệp. Nó sẽ tậo điều kiện cho nông nghiệp và nông thôn đi lên cùng
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ dễ dàng hơn, thuận
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
24
lợi hơn, và nó sẽ là điều kiện để hỗ trợ cho công nghiệp phát triển và các
ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh nghiệm cho thấy nếu không tạo ra được một cơ cấu kinh doanh
thích hợp, năng đồn giữa nông, lâm, thuỷ sản, chế biến và dịch vụ với công
nghiệp thích ứng với cơ chế thị trường thì nền kinh tế nông nghiệp sẽ dễ
dàng hơn, thuận lợi và nó sẽ là điều kiện để hỗ trợ cho công nghiệp phát
triển và các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh nghiệm cho thấy nếu không tạo ra được một cơ cấu ktt thích
hợp, năng động giữa nông, lâm , thuỷ sản, chế biến và dịch vụ với công
nghiệp thích ứng với cơ chế thị trường thì nền kinh tế đất nước sẽ không thể
phát triển được.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn liền với quá trình phân công lại lao động
nông thôn cũng như việc góp phần cùng lao động xã hội trong cả nước.
III. GIAI ĐOẠN1995- 2003
1. Những đánh giá tình hình và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế n11 giai đoạn 1995- 2003.
Để tiếp tục thực hiện những chính sách phát triển kinh tế nó chung và
nông nghiệp nông nghiệp nói riêng, phát huy những thành tựu đã đạt được
trong những năm trước Đảng và nhà nước ta đã đề ra mục tiêu và nhiệm vụ
chủ yếu trong văn kiện Đại hội Đảng VIII: "Phát triển toàn diện nông, lâm,
ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản và đổi mới cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Cùng với
mục tiêu phát triển nông nghiệp toàn diện, hướng vào bảo đảm an toàn
lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và
rau quả, cải thiện chất lượng bữa ăn.
Đảng và nhà nước ta vẫn tiếp tục thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và nông thôn một cách có hiệu quả, và dựa trên cơ sở
bảo đảm bảo vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
25
tích cây trồng công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm,
phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng
của nền nông nghiệp sinh thái, tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công
nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị trường nông thôn…
Trong những năm vừa qua, nông nghiệp nước ta dưới sự chỉ đạo của
Đảng và nhà nước đã đạt được những thành tựu đáng kể. Vấn đề chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được phổ biến và là chính sách nhằm phát
triển nền nông nghiệp nhà nước.
*Một là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm mục đích
phát triển hàng hoá, nâng cao năng suất nông sản hàng hoá.
Thời kỳ này đã thực hiên chính sách chuyển dịch nông nghiệp lạc
hậu, nhỏ, nặng về tự cung, tự cấp sang nền nông nghiệp lớn sản xuất hàng
hoá, là xu hướng phát triển tất yếu của nước ta nói riêng, nền kinh tế thế giới
nói chung vì vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế luôn được
đánh giá hết sức quan trọng. Việc xác định cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù
hợp với nền kinh tế hiện đại trong giai đoạn hiện nay - nền kinh tế thị trường
là một sự cần thiết tất yếu.
Xét về phương diện tổng thể, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
là sự đa dạng hoá hoạt động nông nghiệp sao hiệu quả kinh tế cao nhất.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải nhằm phát triển hàng hoá,
nâng cao tỷ suất nông sản hàng hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay hay
cũng có nghĩa là vận hành nông nghiệp sao cho đạt hiệu quả kinh tế xã hội
cao, tạo điều kiện, khả năng phát triển nhanh cho bản thân nông nghiệp nói
riêng và cho ngành kinh tế đất nước nói chung .
Biểu 6: Sản lượng lương thực 1995-2000
1995 1996 1997 1998 1999 ước tính năm 2000
Sản lượng lương
thực (triệu tấn)
27,5 29,5 30,6 31,8 34,3 Trên 35,5 tấn
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
26
Sản lượng lương thực nước ta những năm vừa qua, mỗi năm tăng 5%
(hay 1,3 triệu tấn) và cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%) nên lương thực bình
quân nhân khẩu/năm tăng 372kg (1995) lên 447 kg (1999) và ước tính sẽ
tăng đến 455 kg (2000).
Bên cạnh đó, lương thực nước ta tiếp tục phát huy những kết quả đạt
được ở giai đoạn trước ,việc mở rộng diện tích cây trông công nghiệp lâu
năm được phát triển mạnh hơn, cùng với việc áp dụng khoa học công nghệ
vào trong nông nghiệp đã cho một kết quả khả quan hơn trong sản lượng
cũng như thu hoạch sản phẩm, đa dạng hoá cây trồng như mía, lạc, càph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- De an Ke hoach chuyen dich co cau kinh te nong thon.pdf