Đề tài Kế hoạch lao động – Việc làm và các pháp giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001 - 2005 ở Việt Nam

I Các khái niệm có liên quan đến lao động việc làm 1

II Khái niệm và ý nghĩa của kế hoạch hoá phát triển lực lượng

 lao động 3

Chương II thực trạng sử dụng lao động của nước ta trong thời

 gian qua từ 2001 –2003) 5

 I .Khái quát về tình hình phát triển của lực lượng lao động thời

gian từ 2001 – 2003 5

Phần 1 Kế hoạch lao động và việc làm trong thời kì 2001 – 2005 5

Phân 2 Tình hình thực hiện trong những năm từ 2001 – 2003 8

Phần 3 Kế hoạch lao động, việc làm năm 2004 14

CHƯƠNG III NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM NĂM 2004 VÀ TRONG KÌ KẾ HOẠCH 2001 – 2005 16

I) Những chính sách chủ yếu 16

II) Những biện pháp chủ yếu 22

Chương IV Kết luận 26

Danh mục tài liệu tham khảo 27

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch lao động – Việc làm và các pháp giải quyết việc làm trong thời kì kế hoạch 2001 - 2005 ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông thôn khoảng 74,37% 2. Năm 2002 Tình hình dân số năm 2002 Tại thời điểm điều tra ngày 1/7/2003, dân số Việt Nan có khoảng 79,930 nghìn người, trong đó thành thị có 19,880 nghìn người, chiếm 24,78% tổng dân số. Khu vực nông thôn có khoảng 60,05 nghàn người, chiếm 75,13% dân số. Số người trong độ tuổi lao động và đang lao động là khoảng 39.286 nghìn người, tăng 1,612 triệu người Tình hình thực hiện chung trong năm đã tạo việc làm mới và tăng thêm việc làm cho 1,42 triệu lao động ( trong báo cáo Quốc Hội khoá 10 là 1,4 triệu lao động), đạt 101,4% kế hoạch và tăng 1,4% so với thực hiện năm 2001; trong đó thu hút vào các nganh nông , lâm ngư nghiệp khoảng 87 van người; công nghiệp và xây dựng cơ bản khoảng 30 vạn người, dịch vụ, thương mại 25 vạn người. Ngoài ra trong năm đã xuất khẩu được khoảng 46 nghìn lao động, vượt 15,3% kế hoạch. Riêng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã giải quyết được việc làm cho khoảng 32 vạn động, đạt 106,6% kế hoạch, chiếm khoảng 3,5% tổng số lao động đuợc tạo làm mới Cơ câú lao động đã có bước chuyển biến tích cực, theo hướng giảm dần lao động ở khu vực nông nghiệp, tăng lao động hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, có khoảng 60,95% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, giảm 1,8% so với năm 2001, khu vực công nghiệp có khoảng 15,08%, tăng 07%, khu vực dịch vụ khoảng 23,96%, tăng 1,16% so với năm 2001 Số lao động mới được giải quyết tập trung chủ yếu trong các hoạt động phát triển trang trại và kinh tế vườn, khoảng 10 vạn người, phát triển làng nghề và sản xuất hàng xuất khẩu, 27 vạn người, khai hoang và bố trí lại dân cư, 15 vạn người, các khu công nghiệp và chế xuất chỉ thu hút được 4,5 vạn người. Trong các hình thúc tổ chức sản xuất thì các doanh nghiệp tư nhân thu hút được nhiều lao động mới nhất, khoảng 18 vạn lao động Tỉ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị khoảng 6,01%, giảm 0,27% so với năm 2001, tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn khoảng 75,3%, tăng 0,9% so với năm 2001 Về công tác hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực Kể từ năm 2000 cho đến hết năm 2002, cả nước đã tổ chức khoảng 20 hội chơ việc làm ở tại 14 tỉnh thành, thu hút khoảng 722 vạn đơn vị kinh tế tham gia, với khoảng 20 vạn người đăng kí tham gia, đã tuyển dụng khoảng 1677 người và dăng kí học nghề 2363 lượt người. Các hình thức dự án quốc tế như Dự án trung tâm dịch vụ việc làm, dự án cải thiện cơ hội việc làm cho người tàn tật, cho lao động trẻ và mở rộng cơ hội làm việc cho lao động nữ, chương trình quốc gia về phòng ngừa và xoá bỏ việc sử dụng lao động trẻ em Về công tác dạy nghề năm 2002, các hoạt động dạy nghề đã có những kết quả quan trọng, nối bật là đã tuyển mới khoảng 1.005.000 học sinh, đạt 100,5% kế hoạch đề ra, tăng khoảng 13,4% so với năm 2001. 3. Năm 2003 Tạo việc làm và bổ sung việc làm mới cho 1,5 triệu người, Đào tạo nghề cho trên 1 triệu người Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng là 15,9% tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 59,8%; tỷ trọng lao động ngành dịch vụ tăng là 24,3%. Giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn 5,81%, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 77% Đào tạo nghề cho 1090 nghìn người. B).Bất cập còn tồn tại 1)Tốc độ tăng dân số và tăng nguồn lao động nhanh Hằng năm dân số nước ta tăng khoảng 1,2 triệu người . việc tăng dân số như vậy là tương đối nhanh nếu so với các nước khác.Hiện tượng này vừa có mặt tích cực vừa có những ảnh hưởng không hay đối với phát triển kinh tế. Theo các chuyên gia dân số dự báo từ nay đến năm 2019 tình hình dân số và lực lượng lao động nước ta có sự chuyển biến như sau: Nhóm tuổi 1994 1999 2004 2009 2014 2019 0 – 9 17381,4 16592,5 15780,5 15320,0 15424,8 15056,7 10 – 14 8542,5 8853,3 8270,1 8112,5 7506,4 7680,6 Dân số trong tuổi lao động 38462,0 44470,2 50656,3 55606,0 59253,1 61264,5 60-64 1814,4 1704,9 1678,3 1868,1 2756,8 3914,3 Trên 65 3559,4 4168,0 4537,2 4752,7 5060,6 6105,0 Dân số cả nước 70777,9 76787,1 82004,2 87218,1 92216,5 96706,2 Tỷ lệ % so vớidân số 54,34 57,91 61,77 63,76 64,25 63,75 Đơn vị : Nghìn người (Nguồn: Tổng cục thống kê) Như vậy , nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Bước sang năm 2005, theo dự báo của bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn người bước vào độ tuổi lao động và đây là một thuận lợi lớn của nước ta về khả năng đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội. Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua các năm . Cụ thể , năm 1994 chiếm 53,34% so với dân số, năm 1999 chiếm 57,91% và năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm 1998, cả nước có khoảng 45,2 triệu lao động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người, trung bình tăng 1,3 triệu người hàng năm. Đây là kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định của những năm trước. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực lượng lao động nước ta là 35,9 triệu người. Tốc độ tăng bình quân 2,95%/năm.Với số lao động mới tăng thêm, 4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết việc làm năm 1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu người; số lao động dôi ra do chuyển dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của việc nâng quỹ thời gian lao động trong nông thôn đã được sử dụng 72,11% năm 1996 lên 75% năm 2000. Trong 4 năm (1996-2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết việc làm. Cộng với đó, trong thời kì kế hoạch 2001 –2005, số lao động hằng năm tăng thêm khoảng 1,2 triệu người mối năm. Con số này cũng không phải là nhỏ. Nhưng trong những năm đầu tiên của kì kế hoạch này, tình trạng thất nghiệp có những chuyển biến khá tích cực. ở khu vực thành thị, năm 2000, tỉ lệ thất nghiệp là 6.44%, năm 2001 là 6,28% và năm 2002 là 6,01%. Thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng tăng lên dáng kể. Năm 2000, thời gian lao động là 73,86%, năm 2001 là 74,37%và 75,41% vào năm 2002. con số này vào năm 2003 là 77%. 2.Đặc tính nguồn lao động có nhiều điểm chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước không chỉ đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao về tay nghề và trí tuệ mà còn phải có cơ cấu hợp lý. Chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay nhìn chung thấp, điều đó không chỉ thể hiện ở tình trạng sức khoẻ và trình độ chuyên môn kỹ thuật yếu mà còn thể hiện ở những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động. Về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Về lề lối, tác phong làm việc, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên còn chậm chạp, thiếu động lực sáng tạo trong lao động. Năng xuất lao động nghìn chung còn thấp, cho nên thu nhập của người lao động vẫn chưa cao, tính trong năm 2001 –2002, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 357nghìn đông/người/tháng, trong đó ở nông thôn chỉ có 276 nghìn đồng/người/tháng.Thành thị khoảng 626 nghìn đồng/người/tháng 3. Cơ cấu lao động của nước ta còn nhiều điều phải bàn Thứ nhất, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH, HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ cao, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao dộng xã hội cao. Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước một bước trong việc chuẩn bị lực lượng lao động (LLLĐ) có trình độ học vấn, tay nghề cao, có cơ cấu hợp lý và đồng bộ. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH song tỷ lệ lao động giản đơn còn quá cao (khoảng trên dưới 85%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển thể hiện ở tháp sau: Tháp lao động của Việt Nam các nước công nghiệp 0,5%5 0,3% Các nhà khoa học 5% 2,7% Kỹ sư 24,5% 33,5% Chuyên viên kỹ thuật 35% 5,5% Lao động lành nghề 35% 88% Lao động không lành nghề Nhìn vào hai hình trên cho thấy trình độ nguồn lao động nước ta chủ yếu là LLLĐ không lành nghề. Trong khi LLLĐ lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35% trong tổng số LLLĐ xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. LLLĐ có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30% còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến giữa năm1999 số này mới có khoảng 14%, ). Trong một số ngành kinh tế quan trọng cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng 1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7%(hiện nay LLLĐ của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng LLLĐ đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp 1,55% và đại học 0,74%. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ hai, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao nhất nước (khoảng 20,5% và 21,7% tổng LLLĐ xã hội). Trong khi đó vùng Tây Nguyên rộng lớn, LLLĐ chỉ có khoảng 4%, vùng duyên hải Miền Trung khoảng 10,4% và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh quốc phòng của quốc gia. 2.Nguyên nhân gây ra những bất cập. Thứ nhất Tình hình tăng trưởng dân số nhanh dẫn tới tăng nhanh về LLLĐ. Đây vừa là một và thuận lợi cũng là một khó khăn. Thuận lợi nếu chúng ta biết cách đào tạo và sử dụng đúng nguồn lao động dồi dào này, nhưng khó khăn lớn nhất là nó tạo áp lực lớn về giải quyết việc làm. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này sẽ dẫn tới những tệ nạn xã hội gây những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Thứ hai, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề (ĐTN) dài hạn, mất cân đối với đào tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính ngành giáo dục và đào tạo. Cùng với tâm lí của người dân, họ chưa coi trọng việc học nghề, chỉ coi đó là bước đi cuối cùng của mình, khi không còn sự lựa chọn nào khác. Vì thế các cơ sở đào tạo nghề thường không hấp dẫn đối với học sinh khi lựa chọn công việccho bản thân Thứ ba, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề thường nhỏ, trên 50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải. Cùng với đó là việc đầu của xã hội cho đào tạo nghề còn khá khiêm tốn. Nguồn vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo chủ yếu được đưa vào các trường đại học và cao đẳng , phổ thông trung học..chứ ít được đưa vào các trường dạy nghề. Vì thế chất lượng của việc dạy và học chưa thực sự cao Thứ tư, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy sô” khá phổ biến.Nhưng theo một đánh giá của Bộ Giáo dục và đào tạo thì đội ngũ giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá chất lượng cao hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có bằng đại học và sau đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa đủ để phản ánh toàn diện chất lượng giáo viên. Số năm thâm niên trung bình cao có thể cảnh báo một xu hướng già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên ở các trường ĐTN. Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn học ngành nghề hiện nay đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, điểm yếu vẫn đang tập trung ở các trường kỹ thuật ngành nghề. Việc lao động phân bố không đồng đều ngoài các nguyên nhân khách quan cón phải kể đến một nghuyên nhân,đó là hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có việc làm cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm gia tăng tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị mà còn tạo xu thế kém phát triển lâu dài ở các vùng nông thôn rộng lớn tình trạng chậm phát triển ở khu vực này, càng làm tăng khoảng cách về phát triển cũng như thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời còn làm xói mòn các kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực Phần 3 kế hoạch lao động và việc làm năm 2004 I) phương hướng và nhiệm vụ, giải pháp về lao động việc làm thời kì 2004 - 2005 1. Dự báo khả năng phát triển của nguồn nhân lực trong thời gian tới Tốc độ tăng của lực lượng lao động khoảng 2,9%. Theo đánh giá chung, số lao động có thể giải quyết trong thời gian tới khoảng 3,8 – 4,1 triệu người. Trong đó, giải quyết cho khoảng 2,4 – 2,6 triệu việc làm mới, giải quyết thất nghiệp khoảng 0,5 triệu lao động. Việc nâng tỉ lệ lao động trong nông nghiệp lên 80% vào năm 2005 đồng nghĩa với việc tạo ra khoảng 0,7 triệu lao động. Vấn đề tiêu thị nông sản thô trong nước và thế giới có thể bị chậm lại. Do đó, nếu không có chiến lược nâng cao chất lượng nông sản, chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp thì khả năng thu hút lao động trong khu vực này trong thời gian tới có thể gặp khó khăn Vấn đề thất nghiệp ở thành thị cũng là khó khăn trong thời gian tới, theo nhận địng trong thời gian tới, lao động trong khu vực này có thế tiếp tục gia tăng, và nếu không giải quyết tốt cho lượng lao động tăng thêm này thì khả năng tỉ lệ thất nghiệp trong khu vực thành thị cũng khoảng trên dưới 6% II. Mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch năm 2004 Năm 2004 là năm thứ 4 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đây là năm có ý nghĩa rất quan trọng giữ vai trò quyết định trong việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, trên cơ sở kết quả thực hiện 3 năm qua, năm 2004 phải đạt được những bước chuyển biến căn bản của nền kinh tế-xã hội nước ta, tập trung thực hiện các trọng tâm sau đây: Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học và công nghệ, coi đây là khâu then chốt để phát triển nhanh và vững chắc. Số học sinh trung học cơ sở tăng 1,8%, học sinh trung học phổ thông tăng 5,7%. Tiếp tục thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Số học sinh tuyển mới học nghề tăng 6-7%, tuyển mới đại học tăng 5%. Giảm tỷ lệ sinh bình quân trong năm 0,4‰; quy mô dân số 81,75 triệu người, tăng 1,28%. Tạo việc làm cho khoảng 1,5 triệu lao động, trong đó xuất khẩu lao động 6 vạn người. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị khoảng 5,7%; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 77,5%. Chương III những chính sách ,biện pháp cơ bản để thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá lao động và việc làm năm 2004 và trong kì kế hoạch 2001-2005 I)những chính sách chủ yếu Để nâng cao chất lượng lao động và giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để cho người lao động có điều kiện hoàn thiện năng lực, tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua các chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu lao động, đồng thời làm cho cung và cầu lao động phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động. Có thể đưa ra một số chính sách chủ yếu có tính chất định hướng như sau nhằm thực hiện tốt hơn kế hoạch về lao động và việc làm giai đoạn 2001-2005: 1.Chính sách khuyến khích và đãi ngộ người có trình độ Mục tiêu của người lao động là có thu nhập tương ứng khả năng của mình, đảm bảo cuộc sống ổn định cho gia đình. Vì vậy, càng có những yếu tố vật chất và tinh thần để khuyến kích và đãi ngộ thì người lao động càng nâng cao trình độ của mình, đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội. Cần tập trung vốn cho giáo dục và đào tạo nhằm khuyến khích mọi người tự nâng cao và được nâng cao trình độ học vấn, tay nghề của mình đồng thời phải có những hình thức đãi ngộ riêng cho những người có trình độ cao hơn người khác, xã hội đang khan hiếm từ đó có động lực hơn cho mọi lao động phấn đấu. 2.Nâng cao chất lượng nguồn lao động Thứ nhất, khẩn trương điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung vào ba hướng sau: -Với đào tạo đại học, cao đẳng: Tăng chỉ tiêu tuyển sinh ở những trường sư phạm, kỹ thuật, nông nghiệp nhất là các trường nằm ngay ở đồng bằng sông Cửu Long và trung du miền núi phía Bắc. Để làm tốt điều này, cần rà soát lại chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để điều chỉnh kịp thời chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm cho các trường, các ngành học. Các cơ sở đào tạo, một mặt, phải thực hiện đúng chỉ tiêu tuyển sinh, khắc phục tình trạng tuỳ tiện tăng chỉ tiêu, mặt khác phải tiến hành khâu tuyển sinh chặt chẽ, nghiêm túc, đảm bảo chất lượng đầu vào cho các trường và ngành học. -Nhanh chóng mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật. Trong mấy năm qua, quy mô đào tạo tuy đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Cần dấy lên phong trào học nghề trong toàn xã hội, phải quy hoạch lại hệ thống dạy nghề theo hướng đồng bộ cả về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng kinh tế và ở từng địa phương. Đổi mới phương pháp, nội dung và giáo viên dạy nghề cho phù hợp với thực tế. Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực trong đó cần đặc biệt coi trọng các chính sách sau: tập trung đầu tư thoả đáng vào đào tạo lao động cho khu vực công nghệ cao; khuyến khích các doanh nghiệp, giáo viên và người học trong lĩnh vực đào tạo nghề; khuyến khích người học nghề phát triển tài năng và mở đường cho họ phát triển không hạn chế tài năng; khuyến khích vật chất và đãi ngộ tài năng thoả đáng (tiền lương, phụ cấp, bồi dưỡng vật chất) cho các nghệ nhân dạy nghề và truyền nghề ... Thứ ba, phát triển và nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm vào việc đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho người lao động, cũng như nhu cầu vay vốn dài hạn với lãi xuất ưu đãi cho kinh tế hộ nông thôn nhằm giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở khu vực này, giải toả sức ép di dân đến đô thị. 3.Bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô 3.1.Chính sách tạo vốn Yếu tố cơ bản trước tiên của giải quyết việc làm là phải có vốn. Chính sách tạo vốn phải chú ý hai hướng: Một là, tập trung nguồn lực vốn cho mở rộng việc làm thông qua các chương trình tổng thể, nhất là các chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình khai thác tiềm năng các vùng đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ... Hai là, huy động đến mức cao nhất nguồn vốn trong nhân dân bằng các chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển việc làm như chính sách cho thuê, mượn đất đề người có vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh... Trong chính sách tạo vốn, quan trọng nhất là hoàn thiện chính sách về hệ thống tín dụng. Cần phải hình thành hệ thống tín dụng với cấu trúc như sau: -Hệ thống tín dụng thương mại. Hệ thống này chủ yếu phục vụ các đối tượng là chủ thể sản xuất, kinh doanh đúng theo cơ chế thị trường. Người vay được áp dụng theo chính sách lãi suất đúng thị trường. -Hệ thống tín dụng có tính chất tài trợ của Nhà nước cho các chương trình xã hội. Thực chất là Nhà nước trợ giúp tạo mở việc làm thông qua chính sách tín dụng với lãi suất nâng đỡ. -Hệ thống tín dụng nhân dân. Là hình thức tín dụng trong cộng đồng, giúp nhau tạo vốn phát triển sản xuất, kinh doanh. 3.2.Chính sách đất đai Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng khuyến khích nhân dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tạo ra nhiều việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. 3.3.Chính sách thuế Mặc dù nước ta đã có luật thuế, Chính phủ cũng luôn thay đỏi mức thuế cụ thể cho phù hợp với thực tế, song để khuyến khích các chủ kinh tế phát triển, giải quyết việc làm cho nhiều người trong cơ chế thị trường, Nhà nước cần bổ sung, hoàn chỉnh một số vấn đề trong chính sách thuế theo hướng: Thứ nhất, cần áp dụng chính sách khuyến khích doanh nghiệp đưa công nghệ thích hợp vào sản xuất, trong đó vừa đảm bảo yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, vừa tạo thêm việc làm mới cho người lao động, đặc biệt là tạo ra các tầng khác nhau để sử dụng được nhiều lao động. Thứ hai, thực hiện chính sách miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình mới ra đăng kí kinh doanh lần đầu (2-3 năm đầu) thu hút được thêm lao động. Thực hiện chính sách này phải có sự phân biệt đối tượng để có sự ưu tiên đứng mức, trước hết là: -Các doanh nghiệp, các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn (làng nghề). -Các hộ gia đình, các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn sử dụng lao động nhàn rỗi. -Các cơ sở sản xuất của người tàn tật, thương binh, các đối tượng tệ nạn xã hội, người thôi việc trong khu vực Nhà nước, lao động hợp tác nước ngoài trở về, người mãn hạn tù... Thứ ba, có các biện pháp khuyến khích thúc đẩy sự ra đời và trưởng thành của thị trường lao động, thông qua việc hố trợ và quản lí hoạt động của các công ty môi giới việc làm, các trung tâm hỗ trợ việc làm... 4.Hình thành hệ thống đồng bộ các chính sách chủ yếu khuyến khích các hình thức và lĩnh vực thu hút được nhiều lao động 4.1.Chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ gia đình để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Để giải quyết việc làm cho lao dộng nông thônthông qua hình thức kinh tế hộ gia đình, Nhà nước cần bổ sung một số chính sách cụ thể sau: -Tăng tỷ lệ đầu tư vào khu vực nông thôn từ ngân sách thông qua các chương trình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện chuyển các hộ gia đình sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá. -Lập quỹ tín dụng cho các hộ gia đình vay theo món nhỏ với lãi suất hợp lý và theo chu kỳ sản xuất. Tăng dần tỷ lệ cho vay trung hạn để mọi người có điều kiện tập trung đầu tư theo chiều sâu. Đặc biệt khuyến khích các hộ gia đìng vay vốn để phát triển tiểu thủ công nghiệpvà dịch vụ, tổ chức sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại... -Thiết lập hệ thống chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, và các hộ gia đình để sản xuất các mặt hàng nông sản gắn với xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. -Có chính sách trợ giá cho nông nghiệp hoặc nghiên cứu lập quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho các hộ gia đình, xác lập mối quan hệ giá cánh kéo hợp lý trong từng thời kỳ. 4.2.Đổi mới chính sách di dân xây dựng các vùng kinh tế, xã hội dân cư mới để gắn lao động với đất đai và tài nguyên đất nước Những định hướng cơ bản đổi mới chính sách này cóthể khái quát như sau: -Thay đổi chính sách đầu tư khai thác các vùng trên cơ sở đó thực hiện phân bố lại lao động, dân cư và giải quyết việc làm. -Tiếp tục đổi mới các hình thức di dân xây dựng các vùng kinh tế mới theo chương trình, dự án quốc gia, vùng và địa phương. Nhà nước tập trung vào một số vùng trọng điểm theo dự án quốc gia, còn lại cần quy hoạch để dân tự đến khai thác, trong dó cần chú ý luồng di dân tự do từ các tỉnh phía Bắc vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. -Sửa đổi, bổ sung một số chính sách cụ thể liên quan đến di dân xây dựng các vùng kinh tế mới như: thực hiện việc đánh thuế đất đai để sử dụng tiết kiệm đất, trao quyền sử dụng đất lâu dài cho dân, tạo vốn cho các hộ gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới... 4.3.Chính sách khuyến khích phát triển khu vực kinh tế quy mô nhỏ và linh hoạt trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ở thành thị để giải quyết việc làm Đây là loại chính sách tác động vào phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0152.doc
Tài liệu liên quan