Đề tài Kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 và các giải pháp thực hiện

Mục lục 1

Lời mở đầu 2

Phần thứ nhất: Vai trò của kế hoạch tăng trưởng kinh tế trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 3

I. Kế hoạch tăng trưởng kinh tế 3

1. Tăng trưởng kinh tế 3

2. Vai trò của kế hoạch tăng trưởng kinh tế trong hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 4

II. Nội dung và phương pháp xây dựng các chỉ tiêu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế 7

1. Nội dung của kế hoạch tăng trưởng 7

2. Phương pháp xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng kinh tế 8

2.1. Phương pháp xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng kinh tế theo mô hình tăng trưởng đầu tư 8

2.2. Phương pháp xây dựng các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế theo phương pháp hồi quy tuyến tính (thực nghiệm – xu thế) 10

Phần thứ hai: Đánh giá việc thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 11

2001 – 2005 11

I. Nội dung của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2001 – 2005 11

II. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2001 – 2005 11

1. Những thành tựu 11

2. Những yếu kém, tồn tại 13

3. Nguyên nhân của thành tựu và yếu kém 14

Phần thứ ba: Xây dựng kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 15

I. Nội dung kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 - 2010 15

II. Đánh giá thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2006 và 2007 16

1. Tình hình thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2006 16

2. Tình hình thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2007 17

3. Những nhiệm vụ của kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008 và khả năng thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 17

III. Một số giải pháp thực hiện 18

1. Giải pháp về các nguồn lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế 18

1.1. Giải pháp về lực lượng lao động 18

1.2. Giải pháp về khối lượng vốn đầu tư 19

1.3. Giải pháp về phát triển khoa học công nghệ 22

2. Một số giải pháp khác 26

2.1. Giải pháp về phát triển các doanh nghiệp 26

2.2. Giải pháp về xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thể chế kinh tế 26

2.3. Giải pháp về phát triển đồng bộ các loại thị trường 28

Kết luận 30

 

doc31 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 và các giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lâm nghiệp tăng 1,4%; thuỷ sản tăng 12,1%. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng bình quân 3,8%/năm (mục tiêu đề ra là 4,3%) Khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16%/năm, cao hơn 2,9% so với mục tiêu đề ra và cao hơn so với 5 năm trước, đã góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước tăng 11,5%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 21,9%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,8%. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp tăng bình quân 10,1%/năm. Năng lực sản xuất của nhiều ngành, nhiều sản phẩm tăng lên đáng kể, nhiều sản phẩm đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước, đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế và đóng góp lớn cho xuất khẩu. Mục tiêu sản xuất nhiều sản phẩm được hoàn thành trước thời hạn. Một số ngành công nghiệp đã phát triển nhanh như: khai thác và chế biến khí thiên nhiên, đóng tàu, chế tạo thiết bị đồng bộ, sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, chế biến đồ gỗ... Tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị chế tạo trong nước ngày càng tăng. Cơ cấu sản phẩm và công nghệ chuyển dịch theo hướng tiến bộ, gắn sản xuất với thị trường. Quá trình nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới ngày càng được chú trọng và có xu hướng phát triển. Tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí chế tạo và tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm công nghiệp tăng lên Khu vực dịch vụ có bước dịch chuyển tích cực, theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm, cao hơn kế hoạch đề ra. Giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ tăng gần 7,0%/năm (kế hoạch 6,2%); riêng năm 2005, giá trị tăng thêm tăng 8,5%, cao hơn mức tăng GDP 2. Những yếu kém, tồn tại 2.1. Đánh giá tổng quát Tuy trong 5 năm 2001 – 2005 đã đạt được nhiều thành tựu lớn, rất quan trọng nhưng bên cạnh đó thì tăng trưởng kinh tế nước ta chưa thực sự vững chắc. Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố khoa học và công nghệ tuy có tăng lên, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Trong nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng trên diện rộng, giống cây trồng, vật nuôi tốt còn thiếu, chưa đáp ứng đủ và kịp thời cho sản xuất. Năng suất nhiều cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp, còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn còn chậm, nhiều nơi còn mang tính tự phát, chưa bền vững. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn chưa được triển khai một cách có bài bản. Nhiều sản phẩm chủ yếu của nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chưa xây dựng được thương hiệu nên hiệu quả kinh tế còn thấp. Mặc dù giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản tăng cao và vượt mục tiêu đề ra nhưng chi phí sản xuất cao, nên giá trị tăng thêm của toàn ngành không đạt mục tiêu, chỉ tăng 3,8% so với mục tiêu đề ra là 4,3% Trong công nghiệp, tuy có tốc độ tăng trưởng cao nhưng hiệu quả chung của toàn ngành chưa được cải thiện, sản phẩm, thương hiệu có sức cạnh tranh tiến bộ chậm; giá trị sản xuất ngành công nghiệp 5 năm 2001-2005 tăng 16%/năm. Tỷ trọng công nghiệp chế tác trong công nghiệp khoảng 60-70%, nhưng giá trị gia tăng thấp; đặc biệt là các ngành công nghiệp gia công như: may mặc, da giày, chế biến gỗ xuất khẩu... có giá trị sản xuất cao, nhưng phần lớn chi phí lại là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, giá trị tăng thêm rất thấp. Công nghiệp hiện đại trong các ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng thấp, tốc độ đổi mới công nghệ chậm. Đến nay, nước ta sử dụng phổ biến công nghệ trung bình; số ngành, lĩnh vực đạt trình độ công nghệ hiện đại còn ít. Sản xuất vật liệu, đặc biệt vật liệu mới để tạo tiền đề cho các ngành công nghiệp khác phát triển chưa hình thành. Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp chế biến với phát triển các vùng nguyên liệu nông sản. Sự phát triển của công nghiệp ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chưa được chú trọng đúng mức; việc thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn còn lúng túng, chưa có hướng đi cụ thể, chưa đóng góp nhiều cho công cuộc xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong dịch vụ, tốc độ tăng trưởng tuy đạt vượt mức kế hoạch, nhưng còn thấp so với khả năng phát triển; tỷ trọng của ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước còn ở mức thấp; chất lượng và hiệu quả các hoạt động dịch vụ chưa cao; nhiều loại phí dịch vụ còn bất hợp lý và cao hơn nhiều nước trong khu vực. Năng lực tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp còn yếu. Các ngành dịch vụ có giá trị tăng thêm cao như dịch vụ tài chính, tiền tệ... gần đây có chuyển biến, nhưng nhìn chung phát triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Riêng dịch vụ giao dịch bất động sản thị trường thiếu ổn định. Việc tạo môi trường, khuyến khích, huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ngành du lịch chưa đáp ứng nhu cầu và khả năng phát triển ngành. 3. Nguyên nhân của thành tựu và yếu kém a. Nguyên nhân của thành tựu Thứ nhất, đó là kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bước đầu đã hoàn thiện và đồng bộ các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, xã hôi. Nhiều chủ trương, chính sách về phát huy nội lực và thu hút ngoại lực để phát triển nông nghiệp và nông thôn, phát triển thị trường trong nước, ngoài nước... đã phát huy tác dụng tích cực Thứ hai, kết quả đầu tư của nhiều năm qua cùng với sự huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, nhất là nguồn vốn trong dân đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm tăng năng lực sản xuất của nhiều ngành, có thêm nhiều công nghệ hiện đại, tăng khả năng cạnh tranh b. Nguyên nhân của yếu kém Thứ nhất, tư duy kinh tế chậm đổi mới. Một số vấn đề lý luận quan trọng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, độc lập, tự chủ về kinh tế... chưa được làm sáng tỏ, dẫn đến lúng túng, chậm trễ trong việc cụ thể hoá và thực hiện một số chủ trương lớn như sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng (dịch vụ bất động sản, tài chính, ngân hàng, du lich). Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường Thứ hai, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế Phần thứ ba: Xây dựng kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 I. Nội dung kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 - 2010 1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2006 – 2010 là: đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy ta có mục tiêu quan trọng nhất của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 là phải tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế để tạo tiền đề vật chất thực hiện các mục tiêu phát triển khác 2. Nhiệm vụ chủ yếu Mục tiêu tổng quát của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 được cụ thể hoá thành nhiệm vụ chủ yếu sau: Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế 3. Các chỉ tiêu chủ yếu Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp 2,1 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng GDP bình quân trong 5 năm 2006 – 2010 đạt 7,5-8%, phấn đấu đạt trên 8% Quy mô GDP đến năm 2010 đạt khoảng 1.690-1.760 nghìn tỷ đồng (theo giá hiện hành), tương đương 94-98 tỷ USD và GDP bình quân đầu người khoảng 1.050-1.100 USD Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3-3,2% Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng 9,5-10,2% Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 7,7-8,2% II. Đánh giá thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2006 và 2007 1. Tình hình thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2006 Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%. Trong 8,17% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng góp 3,34 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%, thấp hơn mức tăng 4% của năm 2005, chủ yếu do tốc độ tăng của ngành nông nghiệp và thuỷ sản chậm lại vì ảnh hưởng của thời tiết bất thường và dịch bệnh. Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng thấp hơn mức tăng của năm 2005 do sản xuất công nghiệp giảm (dầu thô khai thác đạt 17 triệu tấn, thấp hơn mức 18,5 triệu tấn của năm 2005; công nghiệp chế biến và điện, nước, ga cũng giảm so với mức tăng trưởng của năm trước. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó một số ngành có tỷ trọng lớn duy trì được mức độ tăng cao như thương nghiệp; vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch; khách sạn, nhà hàng; tài chính ngân hàng, bảo hiểm. 2. Tình hình thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2007 Trong 9 tháng đầu năm 2007, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,16% so với 9 tháng năm 2006, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,02%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,15%; khu vực dịch vụ tăng 8,54%. Đối chiếu 9 tháng các năm trước thì khu vực I tăng trưởng không cao do sản xuất lương thực giảm và chăn nuôi của nhiều địa phương bị dịch bệnh, hiệu quả chăn nuôi thấp, nhưng khu vưc II và khu vực III tăng tương đối cao nên năm nay là năm có tốc độ tăng GDP 9 tháng cao nhất trong 10 năm gần đây. Đáng chú ý là, trong 9 tháng vừa qua, tốc độ tăng GDP quý sau luôn cao hơn quý trước: Quý I tăng 7,73%; quý II tăng 7,89%; quý III tăng 8,69%. Từ đó trên cơ sở tình hình 9 tháng đầu năm và dự báo khả năng phát triển của quý IV, có thể đánh giá rằng, các mục tiêu và nhiệm vụ do Quốc hội đề ra cho năm 2007 đã và đang được thực hiện khá thuận lợi, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế đều đạt và vượt kế hoạch tăng trưởng đề ra. Trong đó những thành tựu chủ yếu là: nền kinh tế nước ta trong năm 2007 đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%), tạo khả năng hoàn thành nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 ngay trong năm 2008. Và ngành nông nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng vẫn vươn lên đạt được kế hoạch. Công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và tăng thêm tỷ trọng công nghiệp chế biến. Lần đầu tiên trong nhiều năm qua, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP. Tuy nhiên, bên cạnh chúng ta đạt được một tốc độ tăng trưởng ấn tượng thì tăng trưởng kinh tế năm 2007 vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Đó là: tốc độ tăng trưởng cao nhưng vẫn chưa thật bền vững, vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước và tăng trưởng kinh tế vẫn chưa thật sự đi vào chiều sâu. 3. Những nhiệm vụ của kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008 và khả năng thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 a. Nhiệm vụ của kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008 Năm 2008 có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, là năm bản lề của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010. Những thành tựu đạt được của kế hoạch tăng trưởng kinh tế của các năm trước, đặc biệt là của năm 2007 đã tạo nên nền tảng vững chắc cho việc tiếp tục thực hiện thành công kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008. Như vậy, nhiệm vụ chủ yếu của năm 2008 là: tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đồng thời phải chú trọng đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế. Một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế năm 2008: - Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 8,5-9,0% so với năm 2007; GDP theo giá hiện hành dự kiến khoảng 1.337-1.347 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 83 tỷ USD; GDP bình quân theo đầu người khoảng 960 USD. Trong chỉ đạo điều hành, phấn đấu đạt tốc độ tăng GDP là 9%. - Giá trị tăng thêm của ngành nông lâm ngư nghiệp tăng khoảng 3,5-4%; ngành công nghiệp và xây dựng tăng 10,6-11%; ngành dịch vụ tăng khoảng 8,7-9,2% b. Khả năng thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 Năm 2007, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng mười năm qua (8,5%). Trong đó, lần đầu tiên tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của tổng sản phẩm trong nước (8,7%). Với đà tăng trưởng ấn tượng như vậy thì nhiều khả năng chúng ta sẽ hoàn thành một cách xuất sắc các mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng 2008. Bao gồm: GDP tăng 8,5-9% so với năm 2007; trong đó phấn đấu đạt 9%; GDP theo giỏ hiện hành dự kiến tương đương 83 tỷ USD; GDP đầu người khoảng 960 USD. Từ đó sẽ tạo một tiền đề vững chắc cho việc thực hiện không những thành công mà còn vượt các mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006-2010 đã đề ra. III. Một số giải pháp thực hiện 1. Giải pháp về các nguồn lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế 1.1. Giải pháp về lực lượng lao động Từ năm 2008, sẽ triển khai các giải pháp đồng bộ để tạo ra những đột phá về nâng cao chất lượng và hiệu quả của đào tạo nhân lực, làm cho nguồn nhân lực trở thành một yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư và là một lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. Nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo nghề từ trình độ sơ cấp tới đại học với phương châm đào tạo theo nhu cầu xã hội. Có chính sách và cơ chế khuyến khích để các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tổ chức đào tạo và cung cấp nhân lực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất kinh doanh. Tập trung xây dựng một số trường dạy nghề, trường đại học, cao đẳng đạt trình độ quốc tế. Triển khai trong cả nước việc cho vay với lãi suất thích hợp để học nghề ở mọi trình độ, tăng nhanh tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Tiếp tục cuộc vận động chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục phổ thông, nâng cao đạo đức nhà giáo. Chú trọng việc đổi mới phương pháp giảng dạy và đánh giá; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập; nâng cao chất lượng và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên; khuyến khích phát triển mạnh việc giảng dạy và học ngoại ngữ. Đổi mới và phát triển các trường chuyên trong cả nước như một giải pháp cơ bản để bồi dưỡng nhân tài ở lứa tuổi học sinh. Thực hiện phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi, tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học; phấn đấu để năm 2010 sẽ hoàn thành đạt phổ cập trung học cơ sở ở 46 tỉnh, thành phố. Xây dựng chính sách về nhân tài; có cơ chế phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài; khuyến khích phát huy tài năng, đặc biệt là tài năng của lớp trẻ. Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực từ khâu tuyển dụng, bố trí công việc, chính sách tiền lương, khen thưởng, kỷ luật. Tôn vinh các nhà khoa học có đóng góp thiết thực cho phát triển đất nước. Làm tốt hơn công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Thực hiện tốt chiến lược y tế dự phòng, quy hoạch hệ thống y tế và các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, sức khoẻ, vệ sinh môi trường. Lồng ghép các mục tiêu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong các chính sách, các chương trình, các dự án phát triển. Xây dựng cơ chế đồng bộ để kiểm soát thị trường thuốc. Hoà thiện chính sách hỗ trợ khám chữa bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và những người cận nghèo. Tập trung giải quyết tốt vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm và xây dựng Luật An toàn thực phẩm; hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý, thanh tra, kiểm nghiệm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Kiện toàn đủ mạnh tổ chức làm công tác kế hoạch hoá dân số thuộc Bộ Y tế từ Trung ương đến cơ sở, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động và kết hợp chặt với thực hiện các biện pháp chuyên môn kỹ thuật, phấn đấu đạt kế hoạch giảm sinh đã đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006 -2010. Thực hiện đồng bộc các giải pháp để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và công tác bảo đảm an toàn lao động. Xây dựng nhân cách, phát huy giá trị văn hoá, tinh thần của người Việt Nam, tăng sức đề kháng chống lại văn hoá đồi truỵ. Thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Tăng cường các biện pháp phòng chống các tệ nạn xã hội, xây dựng môi trường sống lành mạnh, an toàn tại các đơn vị cơ sở, phường xã, doanh nghiệp, trường học, khu dân cư... Tăng kinh phí cho công tác bảo tồn, tôn tạo, chống xuống cấp các di tích lịch sử văn hoá, gắn với phát triển du lịch để phát huy có hiệu quả giá trị di sản văn hoá dân tộc. 1.2. Giải pháp về khối lượng vốn đầu tư Để đạt mục tiêu của kế hoạch tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010 là 7,5-8% thì ước tính nhu cầu vốn đầu tư cho 5 năm tới lên đến khoảng 140 tỷ USD, tỷ trọng huy động vốn đầu tư xã hội trung bình cả giai đoạn là 38-40% GDP, với tốc độ tăng bình quân 12-13%/năm trong đó nguồn vốn đầu tư trong nước chiếm từ 60-65%... Vì vây, cần có hệ thống giải pháp huy động vốn đầu tư hiệu quả trong nhưng năm còn lại của kế hoạch 5 năm 2006 -2010. Trong đó, cần tập trung vào các giải pháp chính sau đây: - Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các giải pháp huy động vỗn cho đầu tư phát triển. Trong kênh huy động vỗn của ngân sách nhà nước, cần tính toán chi tiết hiệu quả sử dụng vốn. Đánh giá về hiệu quả kinh tế của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đợt cuối năm 2005 và việc phát hành và sử dụng vốn phát hành công trái, trái phiếu Chính phủ để có biện pháp điều chỉnh trong huy động vốn trong thời gian tới. Kho bạc Nhà nước không trực tiếp bán lẻ tín phiếu hay trái phiếu Chính phủ, hay công trái quốc gia mà để tổ chức đấu thầu từng đợt qua Ngân hàng Nhà nước hay trên thị trường chứng khoán dựa trên nhu cầu vốn. Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ trong dân cho đầu tư phát triển, lãi suất hấp dẫn trước hết phải để chính người dân được hưởng mà chưa cần phải phát hành trên thị trường quốc tế. Việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và tham nhũng trong các dự án , cần tránh đầu tư dàn trải là giải pháp rất quan trọng. Yêu cầu này cần được thực hiện chặt chẽ đối với ngân sách trung ương. Các tỉnh, thành phố cũng cần tránh tình trạng nôn nóng, hay đầu tư theo kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý chí. Chấm dứt tình trạng dự án chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chưa được bố trí kế hoạch vốn đầu tư, đã giao hay chỉ định thầu cho doanh nghiệp triển khai thi công, vay vốn ngân hàng cho đầu tư, để lại hậu quả nặng nề cho việc cân đối ngân sách, dàn trải về hiệu quả sử dụng vốn. Rà roát, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng vốn ODA, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng bộ, ngành trong quản lý nguồn vốn tài trợ này. Vốn ngân sách nhà nước, vốn tài trợ quốc tế và các nguồn vốn khác cho vay xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, hỗ trợ sinh viên nghèo vay vốn học tập, cho các mục tiêu chính sách xã hội khác... chủ yếu cần tập trung qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội để giải ngân cho các đối tượng theo được quy định. - Đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thì trường chứng khoán phát triển, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các công ty cổ phần niêm yết cổ phiều và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đối với các ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, nên xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua với tỷ lệ không quá 49% vốn cổ phần của ngân hàng đó và một nhà đầu tư mua không quá 30% vốn cổ phần của một ngân hàng Việt Nam. Việc nâng tỷ lệ này, vẫn đảm bảo tỷ lệ chi phối của phía Việt Nam trong ngân hàng, mặt khác cho phép thu hút vốn đầu tư của các nhà đẩu tư lớn vào Việt Nam. Hơn thế nữa, gắn liền với huy động vốn, chúng ta còn thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại, trình độ quản trị điều hành ngân hàng tiên tiến, thúc đẩy sự phát triển và nâng cao nâng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong nước. - Tiếp tục đổi mới lĩnh vực thanh toán, mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Thực hiện mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị trong ngành tài chính, như: thực hiện thu thuế và lệ phí, bảo hiểm... bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức khác, như: thu cước phí bưu chính viễn thông, thu tiền điện nước, phí sử dụng cáp truyền hình, các hoạt động thu phí và thanh toán ổn định khác,... cũng cần chủ động và sẵn sàng phối hợp với ngân hàng trong sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Các tổ chức có khối lượng tiền mặt lớn, như: Bảo hiểm xã hội, các doanh nghiệp và tổ chức có đông người lao động,... sử dụng việc chi trả lương qua hệ thống ATM của ngân hàng. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt, quy định mức giá trị của các khoản thanh toán không được sử dụng tiền mặt. Về phía hệ thống ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư hiện đại hoá công nghệ, phát triển dịch vụ, phát triển mạng lưới máy rút tiền tự động ATM... Thực hiện giải pháp này không những huy động khối lượng vốn rất lớn trong xã hội vào hệ thống ngân hàng mà còn tiết kiệm các khoản chi khổng lồ cho các hoạt động tiền mặt, góp phần hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong xã hội. - Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, thông thoáng và lành mạnh cho các NHTM và tổ chức tín dụng hoạt động sẽ cho phép huy động khối lượng vốn rất lớn và nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư. Đặc biệt là các NHTM cổ phần cũng nâng cao khả năng quản trị kinh doanh vốn, nên thị trường liên ngân hàng, đầu tư vốn trên thị trường tiền gửi của các tổ chức tín dụng phát triển mạnh mẽ hơn. Nhiều NHTM đa dạng hoá danh mục tài sản hiện có, không chỉ cho vay trực tiếp, mà còn phân tán rủi ro bằng cách đầu tư trên thị trường tiền gửi, bán buôn vốn ngắn hạn cho các NHTM khác có điểu kiện mở rộng cho vay an toàn, đầu tư vào trái phiếu chính phủ, công trái và tín phiếu Kho bạc nhà nước, trái phiếu đô thị, trái phiếu doanh nghiệp... Khi cần vốn khả dụng, các ngân hàng có thể giao dịch các loại giấy tờ có giá trên thị trườn mở với Ngân hàng Nhà nước, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế. - Tiếp tục đổi mới xây dựng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ. Đổi mới các hoạt động khác của Ngân hàng Nhà nước, như: điều hành thị trường mở, thị trường đấu thầu tính phiếu kho bạc, đổi mới thanh toán và mở rộng thanh toán điện tử liên ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến sự phát triển thị trường vốn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của Việt kiều, vốn đầu tư của người dân trong thành lập và bỏ vốn kinh doanh,... cần được thực hiện theo hướng vừa thúc đẩy các kênh xúc tiến đầu tư, mời gọi đầu tư, vừa cải tiến các quy trình, thủ tục, vừa chống tiêu cực, phiền hà, nhưng phải giám sát chặt chẽ phù hợp với thông lệ quốc tế, chống các hoạt động lừa đảo hay tiêu cực khác. 1.3. Giải pháp về phát triển khoa học công nghệ 1.3.1. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ a. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo hướng thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước, không chồng chéo với hoạt động sự nghiệp, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính; tăng cường sự chỉ đạo và điều hoà phối hợp của Chính phủ trên cơ sở phân cấp và quy định rõ trách nhiệm trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ đối với các bộ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. b. Tổ chức và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ Đổi mới cơ chế tổ chức và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ: - Cơ chế tổ chức và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải mở rộng sự tham gia của các nhà khoa học và doanh nghiệp, tổ chức xã hội, bảo đảm dân chủ, cạnh tranh, khách quan, công khai và bình đẳng trong việc tuyển chọn tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; đổi mới căn bản công tác đánh giá khoa học và công nghệ, lấy chất lượng và hiệu quả làm tiêu chuẩn, bảo đảm sự tương hợp với chuẩn mực quốc tế, nhằm đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống. - Đối với các nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, thực hiện cơ chế liên kết giữa cơ quan quản lý nhà nước, tổ chưc khoa học và công nghệ, triển khai thực hiện, đánh giá và đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trongthực tiễn. - Kết hợp phương thức tuyển

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0273.doc
Tài liệu liên quan