MỤC LỤC
Tổng quan
Chương I
Những vấn đềchủyếu liên quan tới sựphát triển thương mại điện tửtại Việt Nam
Chương II
Quan điểm, mục tiêu và các chính sách phát triển
Chương III
Các chương trình, dựán trọng điểm
26 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất lượng dịch vụ sau bán hàng, v.v... qua đó nâng cao sức
cạnh tranh của mình. Trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam sẽ hội nhập sâu sắc và toàn diện vào
nền kinh tế thương mại quốc tế. Việt Nam có thể gia nhập WTO vào cuối năm 2005 hoặc trong năm
2006, hoàn thành việc cắt giảm thuế quan theo AFTA trong ASEAN, thực hiện đầy đủ các cam kết
với Hoa Kỳ theo Hiệp định Thương mại song phương, tham gia ký kết và triển khai Hiệp định
thương mại tự do ASEAN – Trung quốc (ACFTA) cũng như nhiều cam kết quốc tế khác liên quan
tới thương mại. Đồng thời với việc tiếp tục mở cửa thị trường trong nước theo lộ trình của các cam
kết quốc tế, hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội rất lớn để thâm nhập thị trường toàn
cầu. Phát triển mạnh mẽ thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội mới.
2. Doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt ứng dụng và phát triển TMĐT.
Doanh nghiệp là người bán, người mua, người phát triển phát triển công nghệ lớn nhất. Chính
mỗi doanh nghiệp sẽ tự quyết định có tham gia thương mại điện tử hay không, tham gia như thế nào,
vào thời điểm nào, sẽ đầu tư nhân lực và nguồn lực ra sao, v.v... Nói cách khác, doanh nghiệp là lực
lượng nòng cốt đối với việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử.
3. Nhà nước có vai trò tạo ra môi trường thuận lợi, cung cấp nhiều dịch vụ công hỗ trợ cho
TMĐT và tích cực ứng dụng TMĐT
Mặc dù doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò quyết định trong ứng dụng và phát
triển thương mại điện tử nhưng Nhà nước đóng vai trò quan trọng. Nhà nước có nhiệm vụ tạo ra môi
trường thuận lợi cho ứng dụng và phát triển thương mại điện tử, xây dựng khung khổ pháp lý, thiết
lập sự cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ tạo ra cơ chế giải quyết tranh chấp, bí mật riêng tư, bảo vệ người
tiêu dùng, v.v... Đồng thời, Nhà nước cũng là khách hàng rất lớn của các doanh nghiệp, chiếm tỷ
trọng đáng kể trong các giao dịch thương mại.
Nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho thương mại điện tử như hải quan
điện tử, thuế điện tử, đăng ký đầu tư điện tử, cấp phép nhập khẩu điện tử, v.v... Nếu nhà nước không
hoàn thành tốt nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công này thì thương mại điện tử cũng rất khó phát
triển một cách toàn diện và mạnh mạnh mẽ.
4. Nhà nước và doanh nghiệp cần chủ động, tích cực trong hợp tác quốc tế để tạo ra môi
trường thuận lợi, thu hút công nghệ tiên tiến cho sự phát triển TMĐT
Thương mại điện tử mang tính toàn cầu. Ngay từ năm 1998, Hội nghị bộ trưởng lần thứ hai
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã nhấn mạnh thương mại điện tử trên phạm vi toàn cầu
đang tăng trưởng nhanh chóng và tạo ra nhiều cơ hội mới cho thương mại. Các thành viên cũng cam
kết tiếp tục duy trì thực tế không đánh thuế hải quan đối với các giao dịch điện tử qua biên giới. Năm
2001 WTO tiếp tục khẳng định thương mại điện tử tạo ra nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đặt
ra những thách thức mới cho thương mại của mọi thành viên, dù là thành viên phát triển hay đang
- 11 -
phát triển, đồng thời WTO thừa nhận tầm quan trọng của việc tạo ra và duy trì một môi trường thuận
lợi cho sự phát triển của thương mại điện tử trong tương lai. Đồng thời, các nước thành viên một lần
nữa cam kết tiếp tục duy trì thực tế không đánh thuế hải quan đối với các giao dịch điện tử qua biên
giới.
Các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực khác như APEC, ASEM, ASEAN đều coi
thương mại điện tử có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế thương mại và cố gắng tạo ra môi
trường quốc tế thuận lợi cho thương mại điện tử. Các tổ chức chuyên môn, đặc biệt là các tổ chức
thuộc hệ thống Liên Hợp quốc như UNCTAD, UNCITRAL, AFACT, v.v... có nhiều hoạt động để
tạo ra môi trường thuận lợi trên phạm vi toàn cầu cho các hoạt động thương mại điện tử.
Ngoài việc tham gia các hoạt động quốc tế đa phương và nhiều bên, chúng ta cũng cần đẩy
mạnh các hoạt động hợp tác song phương với các nước và khu vực có khoa học công nghệ tiên tiến
và có quan hệ kinh tế thương mại chặt chẽ như Hoa Kỳ, EU, Nhật bản, Hàn quốc, v.v...
5. Phát triển TMĐT gắn chặt với ứng dụng và phát triển CNTT
Sự phát triển của thương mại điện tử gắn chặt với sự phát triển của CNTT và chính phủ điện
tử. Trong những năm qua CNTT ở nước ta đã phát triển khá nhanh. Chiến lược phát triển CNTT và
truyền thông đặt TMĐT như một trong những trụ cột chính của phát triển CNTT trong những năm tới.
Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT cần phù hợp với Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông
cũng như Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam tới 2010.
II. MỤC TIÊU
1. Phần lớn (khoảng 70%) các doanh nghiệp lớn tiến hành giao dịch doanh nghiệp tới doanh
nghiệp (B2B) và ứng dụng TMĐT ở mức cao.
Thực tiễn phát triển TMĐT trên thế giới cho thấy loại hình B2B ra đời trước khi xuất hiện
loại hình B2C. Khi đó các doanh nghiệp lớn tiến hành mua bán thường xuyên dựa trên các mạng giá
trị gia tăng (VAN – Value Added Network) với giá trị giao dịch lớn. Nhờ áp dụng TMĐT nên các
doanh nghiệp này đã nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của của mình. Internet ra
đời đã tạo ra một cuộc cách mạng về TMĐT. Tuy nhiên loại hình giao dịch B2B vẫn tiếp tục chiếm
ưu thế và có tác động chủ yếu tới nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như của
toàn bộ nền kinh tế.
Thống kê về TMĐT cho thấy tại những nước có hạ tầng CNTT tiên tiến, tỷ lệ hộ gia đình có
máy vi tính cao, kết nối Internet qua broadband, loại hình giao dịch B2B vẫn cao gấp nhiều lần so với
B2C.
Phấn đấu tới năm 2010 phần lớn (khoảng 70%) các doanh nghiệp lớn nắm vững kỹ năng kinh
doanh trên mạng và tiến hành các giao dịch B2B.
2. Hầu hết (khoảng 90%) các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) biết tới lợi ích của TMĐT và
có ứng dụng nhất định
Tại Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác trên thế giới, DNV&N rất năng động và có vị
trí quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này bị hạn chế về nguồn lực nên ứng
dụng TMĐT là cơ hội để họ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, tiết kiệm chi phí
giao dịch và chăm sóc khách hàng, v.v... Thực tế ở Việt Nam tới 2005 cho thấy chính các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng TMĐT.
- 12 -
Phấn đấu tới năm 2010 hầu hết (khoảng 90%) các DNV&N biết tới lợi ích của TMĐT và có
những ứng dụng nhất định vào từng khâu hay của toàn bộ các khâu của giao dịch thương mại.
3. Một bộ phận đáng kể (khoảng 15%) hộ gia đình và cá nhân có thói quen mua sắm trên mạng
(B2C)
Việt Nam là một nước đang phát triển có thu nhập thấp. Tuy nhiên, Việt Nam đã đề ra mục
tiêu GDP năm 2010 sẽ tăng gấp đôi so với năm 2001. Những thành tựu phát triển kinh tế trong giai
đoạn năm năm 2001 – 2005 cho thấy việc đạt được mục tiêu này có thể là hiện thực. Thu nhập bình
quân đầu người, nhất là ở các vùng đô thị, tăng nhanh trong khi chi phí cho máy tính cá nhân và
Internet giảm mạnh sẽ tạo ra cộng đồng ngày càng tăng các hộ gia đình và cá nhân sử dụng Internet
cho các mục đích khác nhau, đặc biệt là cho việc mua sắm trên mạng.
Đồng thời, tỷ lệ thanh niên được đào tạo tốt, tiếp thu nhanh cái mới và hấp thụ ảnh hưởng của
văn hoá thương mại các nước tiên tiến, v.v... ngày càng tăng nhanh sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy
các hộ gia đình và các cá nhân, đặc biệt ở vùng đô thị, mua sắm hàng hoá qua mạng Internet.
Các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ thiết yếu như nước máy, điện, điện thoại, ngân hàng,
v.v... đang phát triển mạnh các hình thức thanh toán tự động. Nhiều siêu thị bán lẻ và các nhà cung
cấp dịch vụ khác đã và sẽ tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ hình thức bán hàng hoá và dịch vụ qua mạng.
Các doanh nghiệp này sẽ tạo ra động lực và thói quen cho các hộ gia đình và cá nhân ứng dụng
TMĐT trong mua sắm hàng hoá và dịch vụ của họ.
Chính vì vậy, song song với việc ưu tiên hỗ trợ loại hình B2B, cố gắng để tới năm 2010 một
bộ phận đáng kể (khoảng 15%) hộ gia đình và cá nhân có thói quen mua hàng hoá và dịch vụ trên
mạng.
4. Tất cả các chào thầu mua sắm chính phủ được công bố trên các trang tin điện tử của các cơ
quan Chính phủ và 30% mua sắm chính phủ được tiến hành trên mạng (B2G).
Việt Nam đã đặt ra mục tiêu và triển khai các biện pháp mạnh mẽ thực hiện cải cách hành
chính nhằm nâng cao hiệu quả, đơn giản thủ tục, minh bạch hoá, hiện đại hoá nền hành chính của đất
nước. Song song với Chương trình cải cách hành chính, Việt Nam cũng xây dựng Kế hoạch tổng thể
phát triển Chính phủ điện tử tới năm 2010. Đây chính là các tiền đề quan trọng để các cơ quan chính
phủ cung cấp các dịch vụ công gắn chặt với TMĐT như thuế điện tử, hải quan điện tử, cấp giấy phép
nhập khẩu điện tử, chứng nhận xuất xứ hàng hoá qua mạng, v.v... Đồng thời quá trình cải cách hành
chính và xây dựng chính phủ điện tử cũng tạo điều kiện và bắt buộc các cơ quan chính phủ phải minh
bạch hoá các hoạt động mua sắm chính phủ sử dụng ngân sách nhà nước. Dần dần, các cơ quan chính
phủ từ cấp trung ương tới địa phương phải tuân thủ chặt chẽ các quy định về đấu thầu, cạnh tranh
trong mua sắm công, công khai việc mua sắm trên mạng.
Mục tiêu đặt ra là tới năm 2010 hầu hết các chào thầu mua sắm chính phủ sẽ được công bố
công khai trên mạng và 30% mua sắm chính phủ ứng dụng TMĐT hình thức B2G.
III. CÁC CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
Bốn mục tiêu nêu trên đối với TMĐT có thể đạt được nếu thực hiện tốt sáu chính sách lớn.
Thứ nhất, triển khai mạnh mẽ và liên tục hoạt động phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về TMĐT. Thứ
hai, nhanh chóng tạo lập môi trường thuận lợi cho TMĐT với việc ban hành đầy đủ và đồng bộ các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT. Thứ ba, các cơ quan chính phủ ở mọi cấp cần phải
đi tiên phong trong việc hỗ trợ và ứng dụng TMĐT. Thứ tư, phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT
trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Thứ năm, tổ chức thực thi các quy định pháp luật
- 13 -
liên quan tới TMĐT một cách cương quyết, kịp thời. Thứ sáu, tích cực tham gia các hoạt động hợp
tác quốc tế về TMĐT.
1. Phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về lợi ích và kỹ năng ứng dụng TMĐT phải đi trước một
bước và phải tiến hành liên tục. Nhà nước phải coi đây là một công việc lớn góp phần phát
triển TMĐT trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
TMĐT gắn chặt với công nghệ tin học và truyền thông hiện đại. Tuy nhiên chủ thể của mọi
hoạt động thương mại vẫn là con người, không phải là công nghệ mà chính con người là nhân tố
quyết định tới thành công của việc ứng dụng TMĐT. Kinh nghiệm một số nền kinh tế ở châu Á cho
thấy mặc dù không phát minh ra công nghệ nguồn, mang tính cách mạng, nhưng nhờ có chính sách
phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT tốt nên vẫn xếp thứ hạng cao trong ứng dụng CNTT và TMĐT
như Hàn quốc, Đài loan, Singapore. Trong khi đó thực tiễn ở Việt Nam tới năm 2005 cho thấy một
số doanh nghiệp ứng dụng CNTT rất tốt nhưng hầu như chưa biết tới lợi ích của TMĐT nên hầu như
chưa có kế hoạch triển khai để tận dụng các cơ hội do TMĐT mang lại.
Hoạt động phổ biến, tuyên truyền, đào tạo khó thu lợi nhuận, chậm thu hồi vốn nên các doanh
nghiệp ít quan tâm kinh doanh. Đây chính là một loại hình dịch vụ công thuộc chức năng của nhà
nước
1.1. Đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền về TMĐT, đặc biệt cho các DNV&N
Ứng dụng TMĐT có liên quan sâu sắc tới nhiều mặt kinh tế xã hội nên đòi hỏi sự hưởng ứng
và tham gia của tất cả tầng lớp nhân dân, mọi lĩnh vực kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp cũng như
các tổ chức kinh tế - xã hội.
Do đó, việc phổ biến, tuyên truyền sâu rộng về các vấn đề liên quan tới TMĐT có ý nghĩa
quyết định tới việc ứng dụng TMĐT. Trong giai đoạn 2006 - 2010 cần tập trung phổ biến, tuyên
truyền về lợi ích và kỹ năng TMĐT như sau:
i. Phổ biến, tuyên truyền cho các nhà quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N
i.1 Theo loại hình doanh nghiệp
• Các Tổng công ty lớn của nhà nước: loại hình doanh nghiệp này có quy mô lớn nhưng
chưa quan tâm đầy đủ tới công tác đào tạo cán bộ về TMĐT. Cần hỗ trợ cho các nhà lãnh
đạo các Tổng công ty lớn của nhà nước biết tới lợi ích của TMĐT, từ đó họ sẽ xây dựng
kế hoạch triển khai TMĐT tại chính đơn vị của mình.
• Các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần: loại hình doanh nghiệp này nói chung có
quy mô vừa và nhỏ, khá năng động trong kinh kinh doanh và dễ tiếp thu công nghệ mới.
Nếu giới chủ các loại hình doanh nghiệp này hiểu rõ lợi ích của TMĐT họ sẽ nhanh chóng
và mạnh dạn tổ chức triển khai trong doanh nghiệp của họ.
• Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: thường có công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản
lý cao và nhanh nhậy trong ứng dụng CNTT và TMĐT. Hoạt động tuyên truyền đối với
đối tượng này chủ yếu cung cấp thông tin cập nhật về môi trường pháp lý, về thực thi
quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, v.v... liên quan tới TMĐT của Việt
Nam.
i.2 Theo loại hình kinh doanh
Thực tế cho thấy có một số lĩnh vực kinh doanh có những yếu tố thuận lợi cho ứng dụng
TMĐT. Trong lĩnh vực dịch vụ là các hoạt động kinh doanh trong du lịch, tài chính, vận tải, giải trí,
- 14 -
phân phối. Trong lĩnh vực hàng hoá là các hoạt động kinh doanh các mặt hàng như thiết bị CNTT và
truyền thông, nông sản, hoá chất, cơ khí, dệt may, thủ công mỹ nghệ. Trong hoạt động phổ biến,
tuyên truyền cần chú trọng vào các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh này.
ii. Phổ biến, tuyên truyền cho các cán bộ lãnh đạo kinh tế các cấp
Các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
chính sách và thực thi pháp luật liên quan tới TMĐT nhưng ít có cơ hội tìm hiểu về lĩnh vực này. Cần
phổ biến, tuyên truyền về các lợi ích cũng như các rủi ro khi ứng dụng TMĐT cho các cán bộ lãnh
đạo kinh tế tại các bộ ngành ở Trung ương cũng như các nhà lãnh đạo kinh tế ở các tỉnh, đặc biệt là
cán bộ của các sở thương mại, tài chính, đầu tư, tư pháp.
iii. Phổ biến, tuyên truyền cho giới trẻ ở các đô thị
Trong giai đoạn 2006 – 2010 hạ tầng CNTT và TT trong khu vực dân cư sẽ tương đối phát
triển ở các đô thị lớn. Đồng thời các dịch vụ hỗ trợ cho TMĐT như phân phối, thanh toán cũng phát
triển khá nhanh ở các đô thị. Trong số người tiêu dùng thì giới trẻ rất năng động, thích tìm hiểu cái
mới và ngày càng chủ động về kinh tế. Vì vậy, phát triển TMĐT cho loại hình B2C trước hết tập
trung vào giới trẻ ở đô thị.
Chú trọng sử dụng các phương tiện phổ biến, tuyên truyền có sức truyền tải cao như truyền
hình, báo viết, báo điện tử. Phương pháp phổ biến, tuyên truyền cần hấp dẫn và kích thích người
tham gia ứng dụng vào thực tiễn.
1.2. Phổ biến, tuyên truyền lợi ích của TMĐT tới người tiêu dùng, đồng thời khuyến khích các doanh
nghiệp ứng dụng TMĐT trực tiếp bán hàng tới người tiêu dùng (B2C)
Không chỉ do khó khăn về các vấn đề công nghệ, đặc biệt là mức độ truy cập Internet còn
thấp, mà tập quán và tâm lý mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam cũng là một yếu tố cản trở cho
việc mua sắm qua mạng. Nước ta chưa phải là một nước công nghiệp hoá, phần lớn người tiêu dùng
chưa có tác phong công nghiệp, chưa tuân theo những quy định chặt chẽ về thời gian, tuân thủ pháp
luật, biết đòi hỏi lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, v.v...
Song song với hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng TMĐT bán hàng trực tiếp
tới người tiêu dùng, chúng ta cần phổ biến, tuyên truyền về lợi ích của TMĐT cho đông đảo người
tiêu dùng, trước hết là người tiêu dùng tại các đô thị và ưu tiên phổ biến về lợi ích mua trên mạng các
dịch vụ và các sản phẩm được “số hoá”.
1.3. Phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT một cách đồng bộ và cân đối
Việc đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền về TMĐT có tác động to lớn để xã hội quan
tâm tới các lợi ích của TMĐT. Tuy nhiên hoạt động này mang tính bề rộng và phong trào, cần phải
có các hoạt động nhằm phát triển nguồn nhân lực cho TMĐT một cách đồng bộ và cân đối mang tính
bề sâu, diễn ra liên tục. Dựa trên nguồn nhân lực có tri thức về nhiều khía cạnh liên quan tới kinh tế,
thương mại, CNTT và TT, pháp lý, sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, an ninh, v.v... mới có thể
đưa TMĐT thật sự đi vào cuộc sống.
Phát triển nguồn nhân lực là việc làm của toàn xã hội, nhà nước chỉ hỗ trợ mạnh trong giai
đoạn đầu, sau đó chính các doanh nghiệp là lực lượng chủ yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là tự chịu chi phí cho việc này.
i. Đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề
- 15 -
Tới năm 2005 một số trường đại học chuyên ngành kinh tế thương mại đã giảng dạy về
TMĐT. Điều này phản ánh sự năng động, nắm bắt thực tiễn và gắn hoạt động đào tạo với hoạt động
sản xuất kinh doanh trong công tác đào tạo đại học của chúng ta. Trong giai đoạn 2006 tới 2010 cần
mở rộng hoạt động đào tạo chính quy về TMĐT tại nhiều trường đại học khắp cả nước không những
trong chuyên ngành kinh tế thương mại mà cả các chuyên ngành khác như CNTT, pháp lý, an ninh.
Ngoài đào tạo về TMĐT ở cấp đại học, cần quan tâm đào tạo ở cấp cao đẳng và học nghề.
Các trường dạy nghề thuộc các chuyên ngành thương mại, du lịch, quản trị kinh doanh, v.v... sẽ đào
tạo ra đội ngũ đông đảo người lao động biết cách tham gia vào các hoạt động kinh tế trong thời đại
của Internet.
ii. Đào tạo cho cán bộ quản lý nhà nước
TMĐT chỉ có thể phát triển mạnh và góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia khi nhà nước tạo ra được môi trường thuận lợi. Có nhiều bộ ngành ở
Trung ương và tất cả các địa phương liên quan tới hoạch định chính sách và thực thi pháp luật liên
quan tới TMĐT. Việc đào tạo cán bộ tại các cơ quan nhà nước liên quan là rất cấp bách và phải đi
trước một bước.
Tuy nhiên, việc đào tạo phải bám sát chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để gắn chặt hoạt
động đào tạo với thực tiễn.
Có thể tổ chức đào tạo theo các chuyên đề. Chuyên đề liên quan tới khía cạnh kinh tế của
TMĐT cho các bộ ngành Thương mại, Tài chính, Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Thuỷ sản, Ngân hàng Trung ương. Chuyên đề liên quan tới an ninh, an toàn, sở hữu trí tuệ trong
TMĐT cho các bộ ngành Công an, Tư pháp,Văn hoá Thông tin, Khoa học và Công nghệ, Bưu chính
và Viễn thông. Chuyên đề về các tranh chấp trong TMĐT cho Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát Nhân dân
tối cao, Toà án Nhân dân tối cao. Các chuyên đề về bảo vệ người tiêu dùng, thống kê, cạnh tranh lành
mạnh v.v... liên quan tới TMĐT cũng cần được tổ chức cho các cơ quan tương ứng.
Song song với đào tạo cho các cán bộ quản lý nhà nước cấp trung ương cũng phải đào tạo cho
các cán bộ cấp địa phương, ưu tiên cho cấp tỉnh, theo các chuyên đề trên.
iii. Vận động và hỗ trợ một số doanh nghiệp tham gia hoạt động đào tạo về TMĐT:
Nguồn nhân lực của nhà nước có thể trực tiếp tham gia hoạt động đào tạo TMĐT có số lượng
chưa nhiều. Trong khi đó một số doanh nghiệp CNTT vì những lí do khác nhau khá nhiệt tình trong
hoạt động đào tạo TMĐT. Chúng ta cần khuyến khích các công ty CNTT, đặc biệt là các công ty đa
quốc gia và các công ty trong nước có hoạt động kinh doanh gắn chặt với sự mở rộng của TMĐT
cung cấp dịch vụ đào tạo về TMĐT.
1.4. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực và hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng TMĐT giữa các doanh nghiệp
lớn
Thực tiễn trên thế giới cho thấy giao dịch giữa các doanh nghiệp lớn chiếm tỷ trọng rất cao
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi các doanh nghiệp lớn ứng dụng mạnh mẽ TMĐT sẽ góp
phần rất nhanh và mạnh tới hiệu quả chung của mỗi doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
Tại hầu hết các nước phát triển loại hình B2B giữa các doanh nghiệp lớn đã hình thành cách đây vài
thập kỷ và tiếp tục phát triển nhanh. Trong khi đó ở Việt Nam các doanh nghiệp lớn hầu như chưa
ứng dụng TMĐT trong các hoạt động thương mại.
- 16 -
APEC đặt mục tiêu thương mại phi giấy tờ vào năm 2010 trong các nền kinh tế đang phát
triển. Tham gia hội nhập kinh tế trong APEC trong lĩnh vực thương mại phi giấy tờ trước hết đòi hỏi
chúng ta phải tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lớn.
2. Đẩy nhanh việc tạo lập môi trường pháp lý
TMĐT tạo ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp. Vì vậy, tới năm 2005 mặc dù giá trị
pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các giao dịch thương mại chưa được pháp luật thừa nhận nhưng
nhiều doanh nghiệp trong nước đã tích cực, chủ động ứng dụng TMĐT. Tuy nhiên, TMĐT chỉ có thể
phát triển mạnh mẽ khi các giao dịch thương mại thông qua phương tiện điện tử được pháp luật đảm
bảo.
TMĐT liên quan tới nhiều lĩnh vực nhưng do nguồn lực có hạn nên chúng ta cần xây dựng kế
hoạch soạn thảo và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật với trình tự hợp lý. Trước hết cần ban
hành các văn bản pháp quy thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các hoạt động
thương mại, tiếp đó là các văn bản điều chỉnh các vấn đề đảm bảo cho thông điệp dữ liệu có giá trị
pháp lý, cuối cùng là các văn bản điều chỉnh các hành vi khác liên quan tới TMĐT.
Khi soạn thảo các văn bản pháp quy cần phải tổ chức cho đông đảo công dân, cộng đồng các
doanh nghiệp và các nhóm lợi ích tham gia góp ý với các hình thức phù hợp. Đồng thời cần tham
khảo kinh nghiệm ban hành các văn bản luật tương ứng của các nước khác.
2.1. Các văn bản pháp quy thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu
Tới cuối năm 2006 cần ban hành các luật tạo nền tảng cho TMĐT là Luật Giao dịch điện tử,
Luật Thương mại (sửa đổi) và Bộ Luật dân sự (sửa đổi) (quy định chung về hợp đồng)
2.2. Các văn bản pháp quy điều chỉnh các vấn đề đảm bảo cho thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý
Tới cuối năm 2007 cần ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh nhiều khía cạnh liên quan
tới TMĐT như chữ ký số và chứng thực điện tử (CA), hợp đồng điện tử, an toàn và bảo mật, giải
quyết tranh chấp, v.v...
2.3. Các văn bản pháp quy khác
Trong các năm 2008 – 2010 cần ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
mọi khía cạnh liên quan tới TMĐT như bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tội
phạm trên mạng, các vấn đề về thuế nội địa và thuế hải quan, v.v...
3. Các cơ quan chính phủ phải nhanh chóng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ TMĐT và chủ động,
tích cực tham gia TMĐT
Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử tới năm 2010 sẽ hỗ trợ cho Chương trình cải
cách hành chính nhằm tạo ra sự công khai, minh bạch, hiệu quả của các cơ quan nhà nước từ Trung
ương tới địa phương. Ứng dụng TMĐT trong các cơ quan nhà nước là một biện pháp quan trọng góp
phần xây dựng thành công chính phủ điện tử ở nước ta. Hơn nữa mua sắm chính phủ chiếm tỷ lệ
đáng kể trong thương mại nên nếu các cơ quan nhà nước đẩy mạnh việc mua hàng hoá và dịch vụ
trên mạng sẽ kích thích các doanh nghiệp phải ứng dụng TMĐT để tăng cơ hội bán sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ của mình.
Song song với việc ứng dụng TMĐT trong mua sắm chính phủ tại các bộ ngành và chính
quyền địa phương (B2G), các cơ quan nhà nước cũng phải đẩy mạnh việc cung cấp các dịch vụ công
- 17 -
hỗ trợ cho TMĐT (G2B) như hải quan điện tử, khai báo và nộp thuế điện tử, cấp phép nhập khẩu
điện tử, đăng ký kinh doanh điện tử, chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu điện tử, v.v...
3.1. Ứng dụng TMĐT trong mua sắm chính phủ
Cải cách hành chính là hoạt động có mức ưu tiên cao từ nay cho tới 2010 với mục tiêu hiện
đại hoá, minh bạch hoá và nâng cao hiệu quả nền hành chính quốc gia. Xây dựng chính phủ điện tử
sẽ gắn liền với cải cách hành chính.
Mua sắm chính phủ chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giao dịch thương mại. Nhiều nước đã
ban hành các quy định chặt chẽ về nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước phải ứng dụng TMĐT trong
mua sắm công nhằm đạt hiệu quả cao nhất từ tiền thuế của nhân dân. Chẳng hạn, Chỉ thị của Tổng
thống Hoa Kỳ về thương mại điện tử ngày 17/12/1999 đã nhấn mạnh người đứng đầu các cơ quan
chính phủ phải thúc đẩy sử dụng thương mại điện tử để việc mua sắm của liên bang được nhanh hơn,
rẻ hơn, tiết kiệm cho người nộp thuế.
Trong giai đoạn 2006 – 2010 cần sửa đổi các quy định về đấu thầu trong mua sắm chính phủ
theo hướng bắt buộc các chủ đầu tư phải công bố mời thầu trên trang tin điện tử (trang web) chính
thức của tổ chức mời thầu và các trang tin điện tử của các cơ quan khác, chẳng hạn của Bộ KHĐT,
Thương mại, Tài chính đối với mua sắm của các cơ quan trung ương và của Sở KHĐT, Thương mại,
Tài chính đối với mua sắm của các cơ quan thuộc chính quyền địa phương.
3.2. Đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho TMĐT
Nhiều dịch vụ công là những mắt xích không thể tách rời trong chu trình giao dịch thương
mại, nếu các dịch vụ công này không được tin học hoá và đáp ứng các đòi hỏi tự động hoá giao dịch
trên mạng thì TMĐT cũng rất khó phát triển.
Trong giai đoạn 2006 – 2010 cần đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho TMĐT.
Quy định đến năm 2010 các cơ quan đưa được phần lớn (70%) dịch vụ công lên mạng. Những dịch
vụ cần ưu tiên cung cấp trên mạng càng sớm càng t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử ở việt nam giai đoạn 2006 - 2011.pdf