LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.Vai trò của kế hoạch xuất khẩu đối với phát triển kinh tế xã hội
1. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu đối với phát triển kinh tế xã hội
1.1. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
1.2. Kế hoạch xuất khẩu hàng hoá
1.3. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu hàng hoá
2.Vai trò của kế hoạch xuất khẩu dệt may
2.1.Vai trò của dệt may xuất khẩu
2.2. Ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
2.2.1. Đặc trưng của ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam
2.2.2. Những cơ hội và thách thức của ngành dệt may xuất khẩu
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
2.3. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may
3. Nội dung của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2006-2010
3.1. Mục tiêu chung cho hoạt động xuất khẩu
3.2. Nhiệm vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
3.3. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
3.4. Cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu
3.5. Thị trường xuất khẩu chủ yếu
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may trong thương mại quốc tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o động hoặc sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu đồng thời nhập khẩu lao động có kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà nước ta chưa có. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào rẻ hơn khắc phục được khó khăn do khan hiếm nguyên liệu cho sản xuất.
Ngành dệt may Việt Nam sẽ trải qua quá trình sang lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi những doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng cạnh tranh. Nhờ đó, sản phẩm xuất khẩu trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng nhanh hơn với các điều kiện thay đổi quốc tế. Trên cơ sở đó từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Như vậy, hội nhập sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, nhà nước chỉ tác động bằng công cụ chính sách, đồng thời hội nhập cũng làm tăng sức cạnh tranh cho ngành, mở ra cơ hội kinh doanh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên với năng lực còn non kém của mình, ngành dệt may xuất khẩu của chúng ta phải đương đầu với không ít những thách thức.
* Những thách thức
Thách thức trước hết là sự cạnh tranh gay gắt của các nước xuất khẩu hàng dệt may hiện nay. Đó là Trung Quốc với ưu thế phong phú về chủng loại hàng hoá giá rẻ. Đó còn là Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Hồng Kông, Inđônêxia, Thái Lan Philippin, những nước xuất khẩu lớn và có sẵn thị trường tiêu thụ. Tuy họ có giá nhân công cao hơn nhưng nhờ họ có ưu thế tự túc được nguyên liệu vải và các phụ kiện may chất lượng cao nên đã góp phần làm giảm giá thành sản phẩm, tạo lên nhiều nhãn hiệu uy tín. Ngoài ra các nước khác ngoài Châu Á như Mêhicô, Ba Lan, Bungari… cũng đang là những quốc gia có điều kiện thuận lợi để gia tăng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản. Họ cũng là đối thủ cạnh tranh khá mạnh trong lĩnh vực này
Thách thức thứ hai là tính phức tạp của hệ thống luật quốc tế cũng như luật thương mại Mỹ với những đòi hỏi khắt khe đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam, một nước chậm phát triển đang trong quá trình chuyển đổi, khi tham gia vào thị trường thế giới buộc phải tuân thủ theo các nguyên tắc trên để tự bảo vệ mình. Mặt khác, những nhà hoạch định chính sách của Mỹ vẫn chưa hết những quan niệm cũ về một nươcs Việt Nam mới trong quan hệ hiện nay với chúng ta.
Thứ ba là sự quản lý chồng chéo của các bộ hữu quan đối với ngành dệt may khiến cho cơ cấu tổ chức thiếu năng động, dễ tuột mất những cơ hội tốt, những cơ hội ngàn năm cho sự phát triển.
Thách thức và cơ hội thường là hai mặt đối lập của quá trình phát triển mà chúng ta phải xem xét một cách toàn diện trong phương pháp tiếp cận. Như vậy đối với nền kinh tế nói chung và dệt may xuất khẩu nói riêng chúng ta cần phải có những biện pháp nhằm tận dụng tốt hơn những cơ hội, đương đầu với thách thức để có thể đưa ngành dệt may xuất khẩu của chúng ra phát triển nhanh và hiệu quả hơn trong khung cảnh kinh tế mở như hiện nay.
2.3. Vai trò của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta đang trên lộ trình thực hiện việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan và trợ cấp đối với các mặt hàng xuất khẩu. Chính những điều đó tạo lên không ít những thuận lợi, khó khăn cho ngành sản xuất hàng dệt may xuất khẩu của chúng ta. Và hơn lúc nào hết kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may càng phải thể hiện rõ nét vai trò của nó để định hướng và hướng dẫn cho các hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Trước hết là trong việc xác định quy mô và tốc độ xuất khẩu hàng dệt may. Phải phản ánh được sự đóng góp to lớn của dệt may xuất khẩu vào kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Thể hiện vai trò chủ đạo của mặt hàng này trong cán cân xuất khẩu. “Phấn đấu đến năm 2010 phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và trên thế giới.” Kim ngạch xuất khẩu đạt 8000-9000 triệu USD
Sau đó là đến vấn đề xác định danh mục sản phẩm hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu. Với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng ở các thị trường nhập khẩu hàng dệt may của chúng ta, kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may đưa ra các chỉ tiêu cho từng loại sàn phẩm chủ yếu và chúng đảm bảo phát huy được lợi thế về nguồn lao động đồng thời phải nâng cao năng suất lao động tăng gía trị tăng thêm trên mỗi đơn vị sản phẩm.
Cuối cùng là việc định hướng các thị trường xuất khẩu. Kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may phải có những dự báo về sự biến động ở các thị trường này, xác định thị trường chủ yếu để từ đó chúng ta có những kế hoạch sản xuất đáp ứng tốt nhất nhu cầu ở các thị trường này.
3. Nội dung của kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2006-2010
3.1. Mục tiêu chung cho hoạt động xuất khẩu
Phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng và các sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặ hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 68-69 tỷ USD vào năm 2010, và 259 tỷ USD trong 5 năm 2006-2010, gấp 2,3 lần so với 5 năm trước và tốc độ tăng 16%/năm
3.2. Nhiệm vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, do đó xuất khẩu dệt may của nước ta ra thị trường thế giới sẽ gặp nhiều thách thức, đặc biệt là cạnh tranh với các nước trong khu vực Châu Á. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may nước ta, cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, từ hạ giá thành sản xuất, đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã, cho tới liên kết hợp tác trong ngành, xây dựng thương hiệu, tập trung vào thị trường có lợi thế, hình thành các trung tâm giao dịch, các chợ đầu mối cung cấp nguyên, phụ liệu may. Dự kiến xuất khẩu dệt may 2006-2010 tăng 15,6%/năm, năm 2010 khoảng 10 tỷ USD.
3.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Bảng kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2006-2010
Năm
2006
2007
2008
2009
2010
Tốc độ tăng bình quân(%)
Xuất khẩu(triệu USD)
5.400
6.000
7.000
8.000
10.000
15,6
3.2. Cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu
Đối với ngành dệt, bao gồm: sản xuất nguyên liệu dệt, sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất:
- Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo; khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này.
- Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường; quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn.
- Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Đối với ngành may:
- Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động.
- Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may. Tập trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động, giảm giá thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu.
Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, để phát triển cơ khí dệt may, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong nước.
Phấn đấu đến năm 2010, sản phẩm chủ yếu đạt: Bông xơ 80.000 tấn; xơ sợi tổng hợp 120.000 tấn; sợi các loại 300.000 tấn; vải lụa thành phẩm 1.400 triệu mét vuông; dệt kim 500 triệu sản phẩm; may mặc 1.500 triệu sản phẩm.
- Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu: Đến năm 2010: Trên 75%
3.3. Thị trường xuất khẩu chủ yếu:
Thị trường Mỹ
Thị trường EU
Thị trường Nhật
Các nước Đông Bắc Á khác trừ Nhật
Các nước ASEAN
Canada
Nga
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM
I. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2001-2005
1. Tổng quan về hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2001-2005
Hoạt động xuất khẩu đã đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, riêng năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 32,4 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 17,1%/năm. Trong số 7 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD thì có 5 mặt hàng công nghiệp. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp đạt 75,8%, trong đó công nghiệp chế biến đạt trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng hoá Việt Nam hiện đã xuất khẩu sang hầu hết các châu lục và có mặt trên thị trường hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đã được mở rộng và tăng trưởng khá cao, hầu hết đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.
2. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may
Ngành dệt may Việt Nam trong 5 năm (2001-2005) luôn có tốc độ tăng trưởng cao và liên tục bình quân đạt 20%/năm. Song theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, do chưa đột phá được ở lĩnh vực sản xuất vải và nguyên phụ liệu cho may xuất khẩu nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá trong giá trị hàng xuất nên dệt may vẫn mang tiếng là “ngành làm thuê”.
2.1. Những thành tựu đạt được
Bảng xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 2001-2005
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Xuất khẩu(triệu USD)
1.975
2.752
3.689
4.430
4.838
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã vượt trên con số 4,430 tỷ USD; chiếm 16,35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và tiếp tục duy trì được ở vị trí thứ hai trong số các ngành dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2005 đạt 4,838 tỷ USD. Việt Nam đặt chỉ tiêu xuất khẩu đạt khoảng 8-9 tỷ USD vào năm 2010.
Từ năm 2001, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mở cửa thị trường Mỹ cho hàng dệt may Việt Nam, đồng thời kích thích thêm lượng tiêu thụ mặt hàng này. Theo số liệu của Hải quan Hoa kỳ, năm 2001, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ mới chỉ đứng ở vị trí 70 trong tổng số gần 200 nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, thì đến năm 2002 đã vượt lên xếp thứ 23; năm 2003 bứt phá mạnh hơn, xếp thứ 8 và năm 2004, xếp ở vị trí thứ 6, vượt 64 bậc sau 3 năm. Năm 2004, ngành dệt may Việt Nam chiếm gần 3,5% thị phần nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ với đơn giá xuất khẩu bình quân vượt Trung Quốc và trở thành một trong những nước có đơn giá xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ thuộc loại cao nhất trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cụ thể, năm 2001, đơn giá xuất khẩu bình quân là 1,51 USD/m2 sản phẩm, đến năm 2004 tăng lên 3,14 USD/m2 sản phẩm; trong khi Trung Quốc từ 2,96 USD/m2 sản phẩm, tụt xuống còn 1,25 USD/m2 sản phẩm. Nếu tính những chủng loại hàng (cat) nóng nhất trên thế giới hiện xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng rất mạnh; ví dụ như mặt hàng áo sơ mi dệt kim (cat. 388/339) tính trong 9 tháng đầu năm 2004, Việt Nam được xếp vị trí thứ năm trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ; đặc biệt là cat. 347/348, Việt Nam xếp thứ hai trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ.
Mức tăng trưởng của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ mạnh đến mức có một số nhóm vận động hành lang để Quốc hội Mỹ ban hành qui chế kiểm soát mới (từ năm 2003, Oasinhtơn đã áp dụng qui chế hạn ngạch mới đối với hàng dệt may của Việt Nam). Trong khi đó, các nhóm kinh doanh Mỹ khác, như Hiệp Hội Dệt May Quốc gia (NTA) có trụ sở ở Boston, công khai ủng hộ việc bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam khi chúng ta trở thành thành viên WTO. Năm 2005, theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, Mỹ dành cho Việt Nam hạn ngạch dệt may trị giá khoảng 1,8 triệu USD. Tính chung, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt khoảng 2,6-2,8 tỷ USD trong năm 2005.
Trái ngược với Mỹ, EU và Canada chọn giải pháp hoan nghênh hàng dệt may Việt Nam. Năm 2005, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU có thể đạt giá trị khoảng 1,33 tỷ USD nếu như tận dụng được hết số lượng hạn ngạch đã được phê chuẩn. Với việc bãi bỏ hạn ngạch từ 2005 của các thị trường này, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sẽ có điều kiện phát triển cho dù thị trường Mỹ áp dụng biện pháp khống chế. Mặc dù là thị trường lớn, nhưng EU cũng không thể hấp thụ được tất cả hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam; do vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đẩy mạnh lợi thế cạnh tranh nếu như họ muốn duy trì phát triển lâu dài ở các khu vực thị trường khác thông qua công tác tiếp thị, thiết kế mẫu mã và công tác quảng bá, xây dựng thương hiệu, hình ảnh ngành dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Với chủ trương cắt giảm chi phí, Chính phủ Việt Nam muốn nâng tỷ lệ sử dụng nguyên liệu từ nguồn nội địa, đảm bảo cung ứng kịp thời nguyên phụ liệu cho ngành may. Hiện nay, chỉ có dưới 50% nguyên liệu hàng dệt may của Việt Nam có xuất xứ nội địa. Điều này đặc biệt khó thực hiện đối với bông, bởi vì hiện nay nguồn nhập khẩu đáp ứng khoảng 80% nhu cầu về mặt hàng này của ngành dệt may Việt Nam. Chính phủ Việt Nam hy vọng sẽ nâng được sản lượng bông từ mức 25.000 tấn hiện nay lên 180.000 tấn vào năm 2010. Ngoài ra, việc bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu (do Bộ Thương mại cấp) cũng sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó ch ính phủ cũng có nhiều biện pháp nhằm giảm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh trong thời “hậu hạn ngạch”.
Hợp tác tốt hơn với các quốc gia láng giềng châu á cũng có thể góp phần phát triển dệt may của Việt Nam thông qua việc để các bên tận dụng tiềm lực của nhau, giảm chi phí cho sản phẩm dệt may trong khu vực và tăng cường tính cạnh tranh. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN, tổ chức ở Viên Chăn (Lào) tháng 11/2004, các quốc gia thành viên ASEAN nhất trí ký văn bản "Liên kết có hệ thống khu vực sản xuất dệt may", với việc loại bỏ thuế quan đối với tất cả hàng dệt may trong khu vực, khi đó những xe chở hàng dệt may sẽ được qua lại thuận tiện tại các của khẩu giữa các nước. Bản thoả thuận thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, cũng được ký tại hội nghị nói trên, góp phần giúp doanh nghiệp Việt Nam hạ giá thành sản phẩm thông qua khai thác nguồn nguyên liệu rẻ của các nhà gia công Trung Quốc.
2.2. Những hạn chế
2.2.1. Về sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
Vải cho ngành dệt may chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. Năm 2004, kim ngạch XK của ngành dệt may trong nước là 4,38 tỷ USD. Với đà tăng trưởng này năm 2005, ngành dệt may đặt ra chỉ tiêu XK khoảng từ 5,2 đến 5,4 tỷ USD. Tuy nhiên, con số này đã không đạt được
Phân tích hiện tượng trên ta thấy một trong những nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta đã không chủ động nguồn vải phục vụ cho sản xuất. Trong tổng số hàng may mặc mà chúng ta xuất khẩu thì lượng vải do các nhà máy dệt trong nước “đóng góp” ở thời điểm lớn nhất chỉ là 25%. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta phải nhập khẩu tới 75% lượng vải phục vụ cho các đơn hàng may mặc trong nước. Sự phụ thuộc này có khả năng dẫn đến việc làm tăng giá thành sản xuất, tỷ suất lợi nhuận vốn đã rất thấp lại còn thấp hơn. Tốc độ phát triển quá nhanh của ngành may khiến cho “người em” dệt chạy hụt hơi mà vẫn khoảng cách ngày càng bị kéo xa.
Công nghiệp phụ trợ còn kém. Một điểm yếu cố hữu của ngành dệt may VN chính là việc thiếu một quy hoạch đồng bộ. Sự phát triển theo kiểu “dàn hàng ngang”, mỗi địa phương đều “cố gắng” có vài ba nhà máy may XK đã tạo ra sự đua tranh bất hợp lý. Việc các DN ở TP HCM đang than đứng than ngồi vì thiếu lao động là một thực tế tồn tại mà các DN dệt may đang phải đối mặt. Việc đặt các nhà máy rải rác như vậy còn khó có thể tạo điều kiện tốt nhất nhằm phát triển cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành này.
Trong khi đó, đầu tư cho công nghiệp phụ trợ lại đang “có vấn đề”. Nếu như một DN đầu tư vào một nhà máy kéo sợi, dệt vải thì tỉ suất lợi nhuận trên tổng vốn đầu tư nếu đạt khoảng 2-3% đã là “quá ổn”. Đầu tư một nhà máy sản xuất hoàn chỉnh lại đòi hỏi rất nhiều vốn. Trong khi đó, đầu tư nhà máy sản xuất kiểu này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro như đầu ra của hàng hoá, chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào đầu tư công nghệ… Chính những nguyên nhân này khiến cho các DN không mặn mà với việc đầu tư vào ngành này. Việc kêu gọi đầu tư nước ngoài vào nhà máy dệt khó khăn hơn rất nhiều vào đầu tư dây chuyền may mặc. Có một số DN nước ngoài đầu tư vào dệt và kéo sợi ở trong nước thì thực chất họ chỉ chuyển công nghệ vào và tận dụng giá nhân công rẻ và “đầu ra” của sản phẩm đã gắn với các DN may đi kèm.
Việc cung cấp bông cũng là một bài toán nan giải khó tìm được câu trả lời hiệu quả. Ước tính hiện nay, mỗi năm chúng ta nhập khẩu khoảng trên 100.000 tấn bông để phục vụ cho các nhà máy kéo sợi và dệt vải. Công ty Bông Việt Nam, thành viên sản xuất bông lớn nhất của Tổng công ty Vinatex trong liên vụ 2003-2004 chỉ cung cấp được 12.100 tấn bông xơ, đáp ứng được 10-15% cho các nhà máy kéo sợi. Theo công ty này, việc tăng diện tích cũng như sản lượng trong năm 2005 và những năm sau là hết sức khó khăn.
Dệt thoi - khâu yếu nhất. Sau 5 năm thực hiện Chiến lược tăng tốc dệt may (2001-2005), mục tiêu nội địa hoá (NĐH) các sản phẩm xuất khẩu từ mức 25% năm 2000 lên 50% vào năm 2005 đã không đạt được do sản lượng bông xơ và vải dệt thoi tăng thấp khiến tỷ lệ nội địa hoá toàn ngành hiện mới đạt khoảng 30% .Tổng công suất vải dệt thoi hiện có là 680 triệu m2 và 38.000 tấn khăn/năm. Tuy nhiên, hầu hết lượng vải sản xuất trong nước đều chưa đáp ứng được yêu cầu làm hàng xuất khẩu. Sản lượng còn thấp, chủng loại mặt hàng chưa đa dạng, chất lượng thấp và không ổn định về độ đồng đều màu và độ bền màu của vải nhuộm, giá cả không cạnh tranh, khâu tiếp thị lưu thông, phân phối còn yếu kém là những trở ngại căn bản khiến vải dệt thoi phần lớn chỉ tiêu thụ được ở thị trường trong nước. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ mới chiếm khoảng 13- 14%.
Cuộc “rượt đuổi” giữa hai anh em dệt và may vẫn kéo dài và là tồn tại của ngành dệt may hiện nay. Phải chăng sự phát triển thiếu bền vững của ngành may mặc là nguyên nhân chính khiến cho ngành dệt may bị hụt hơi khi tham dự một sân chơi lớn và khắc nghiệt?
2.2.2. Về năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của ngành dệt may xuất khẩu còn yếu. Ngành dệt may nước ta lâm vào tình trạng bất lợi là: vừa bị hạn chế bởi hạn ngạch, vừa bất lợi vì năng lực cạnh tranh. năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam đang thực sự có vấn đề. Điều đó xuất phát từ tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may vào 2 thị trường chính là Hoa Kỳ và EU giảm sút. Gần 7 tháng đầu năm 2005, các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ
đạt 783,7 triệu USD giảm gần 10% so với cùng kỳ năm 2004. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm trên là do xuất khẩu của các nước đã tăng mạnh ở một số loại hàng chủ lực của Việt Nam như áo thun và quần (cat. 338/339 và 347/348). 2 cat. này có tỷ lệ thực hiện chỉ đạt xấp xỉ 78% so với cùng kỳ 2004 trong khi chúng chiếm tỷ trọng trên 50% về số lượng và gần 70% kim ngạch trong 25 nhóm mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch. Theo phân tích của Bộ Thương mại, nguyên nhân chủ yếu của sự sụt giảm ki m ngạch xuất khẩu sang thị trường EU cũng là do xuất khẩu của Ấn Độ, Pakistan, Srilanca tăng rất mạnh. Việt Nam bị mất thị phần do sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng dệt may các nước này. Tuy nhiên những nguyên nhân khách quan này cũng cho thấy bản chất của sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu trong những tháng đầu năm là từ năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam.
3. Đánh giá bài học kinh nghiệm
Để phát triển ngành dệt may xuất khẩu, bên cạnh những hỗ trợ về mặt cải cách thủ tục hành chính của Liên bộ Thương mại - Công nghiệp, cần phải xây dựng một thương hiệu dệt may Việt Nam vào những thị trường trọng điểm. Để có riêng một hình ảnh dệt may Việt Nam, ngành dệt may trong nước cần phải hoàn thiện nhiều quy trình đào tạo, sản xuất… Là một kế hoạch dài hơi, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng đây là những nhu cầu cần thiết nhằm tạo lập một sự phát triển lâu dài cho một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam. Đã đến lúc dệt may Việt Nam phải nhận thấy sự cần thiết của đội ngũ thiết kế mà khả năng đào tạo trong nước còn rất yếu. Đây là một trong những khâu để hoàn thiện quy trình đào tạo, sản xuất nhằm xây dựng hình ảnh dệt may Việt Nam.
Bên cạnh đó, là việc xây dựng những trung tâm nguyên phụ liệu dệt may phục vụ cho sản xuất của ngành dệt may nói chung và ngành sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nói riêng. Hợp tác chặt chẽ không những ở
trong nước mà ngay cả các nước trong khu vực lân cận. Vì đối với các nước trong khu vực tuy một mặt là đối thủ cạnh tranh, nhưng mặt khác lại bổ sung cho doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề cung cấp nguyên phụ liệu. Ví dụ, chi phí vải của một cái áo sơ mi dệt tại Banglades chỉ mất 59%, phụ liệu 16%, chi phí quản lý là 8%, 7% chi phí khác và 10%
còn lại là lợi nhuận. Do đó nếu tiết kiệm được 10% chi phí xuất khẩu thì
lợi nhuận thu được tăng lên 16%. Nhưng nếu giảm được 10% chi phí nhập khẩu vải thì chi phí lợi nhuận tăng lên chóng mặt 60%.
Ngoài ra doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải gia tăng dịch vụ làm sao cho tốt hơn để thu hút đơn đặt hàng. Vì người quan tiêu dùng tâm đến vấn đề chất lượng, sự tin tưởng và uy tín của dịch vụ.
Các bước đi cụ thể sẽ bao gồm việc đầu tư các nhà máy dệt nhuộm để tạo ra các sản phẩm có chất lượng đáp ứng yêu cầu cho may xuất khẩu. Từng nhà máy sẽ được đầu tư đồng bộ chuyên môn hoá, đầu tư thiết bị máy móc hiện đại gắn liền với công tác đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ và quản lý sản xuất.
II. Kế hoạch xuất khẩu hàng hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2006-2010
1. Tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2006
. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 5.834 tỉ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng trưởng 20,5% so với năm trước. Về thị trường: thị trường Mỹ xuât khẩu đạt 3,044 tỉ USD (chiếm 55%), thị trường EU 1,243 tỉ USD (chiếm 20%), thị trường Nhật 628 triệu USD (chiếm 11%). Các nước Đông Bắc A khác (trừ Nhật) đạt 325 triệu USD(chiếm 5,6%), các nước ASEAN 107 triệu USD (2%), Canada 97 triệu USD, Nga 62 triệu USD.
Tuy đang đứng trong tốp các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất mấy năm trước nhưng ngành dệt may lại có rất nhiều điểm yếu. Chính vì phần lớn là làm gia công nên trong hơn 5 tỷ USD xuất khẩu, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm rất thấp nên lương của công nhân ngành may lại rơi vào nhóm có thu nhập thấp nhất. Tình trạng này đã dẫn đến thiếu công nhân cục bộ tại các thành phố lớn. Các DN liên tục phải tuyển lao động, chủ yếu là lao động phổ thông rồi đào tạo nhưng có khi số lao động ra đi còn nhiều hơn số lao động tuyển vào.
Để đảm bảo tăng trưởng bền vững dệt may cần có công nghiệp phụ trợ mạnh nhưng ngành công nghiệp phụ trợ của ngành dệt may Việt Nam lại quá yếu, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khả năng đáp ứng nhanh bị hạn chế. Thiết kế mẫu mốt cũng kém nên kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu không cạnh tranh được với các sản phẩm của nước ngoài. Phần lớn doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu nên xuất khẩu trực tiếp rất khó khăn và không được giá. Ngay cả đối với người tiêu dùng trong nước, số các thương hiệu nổi tiếng cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ngoài những điểm yếu trên dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Phải cạnh tranh với Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Bangladesh… là những cường quốc sản xuất, thương mại dệt may, luôn tăng cường đầu tư phát triển, và có tham vọng tăng gấp đôi xuất khẩu của mình vào 2010. Đặc biệt là các rào cản thương mại, kỹ thuật quốc tế, trước hết là cơ chế giám sát chống bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ, thị trường chiếm đến 54% kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.
Giải pháp nhằm Phát triển bền vững và hiệu quả. Nhận thấy, dệt may là ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực, tạo nhiều việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội, cần được ưu tiên phát triển theo hướng đẩy nhanh việc hiện đại hoá; đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Phát triển dệt may phải đặt trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập và hợp tác quốc tế, tiếp nhận nhanh làn sóng dịch chuyển sản xuất dệt may từ các nước phát triển và các nước công nghiệp mới. Phải tăng cường mối liên kết hợp tác với các tập đoàn phân phối, bán lẻ lớn trên thế giới nhằm ổn định khách hàng, thị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0674.doc