LỜI NÓI ĐẦ U 1
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN THUẾ GTGT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2
1.1 Những vấn đề chung về thuế GTGT 2
1.1.1 Khái niệm,lịch sử hình thành và phát triển của thuế GTGT 2
1.1.2 Vai trò và đặc điểm của thuế GTGT: 4
1.1.3. Căn cứ tính thuế. 7
1.1.4. Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế GTGT. 7
1.1.5 Phương pháp tính thuế 8
1.1.6. Những điều kiện để áp dụng thuế GTGT. 8
1.1.7. Kinh nghiệm của một số nước trong việc áp dụng thuế GTGT. 10
1.2. Kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp. 13
1.2.1. ý nghĩa và nhiệm vụ của kế toán thuế GTGT 13
1.2.2. Chứng từ kế toán sử dụng 13
1.2.3. Tài khoản kế toán sử dụng. 14
1.2.4. kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp theo phương pháp khấu trừ 15
1.2.5. Kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp theo phương pháp trực tiếp. 24
PHẦN II : HOÀN THIỆN KẾ TOÁN THUẾ GTGT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM. 26
2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thuế GTGT và kế toán thuế GTGT. 26
1-/ Về đối tượng chịu thuế GTGT: 26
2-/ Về thuế suất thuế GTGT: 26
3-/ Về phương pháp tính thuế GTGT: 27
4-/ Về phương pháp kế toán thuế GTGT: 28
5-/ Hoàn thuế GTGT: 30
2.2. Đánh giá kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp. 30
2.3. Một số ý kiến đề suất nhằm hoàn thiện kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp. 38
KẾT LUẬN 47
49 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế toán thuế giá trị gia tăng trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
Nguyên tắc hạch toán giá trị vật tư, hàng hóa, TSCĐ, dịch vụ mua vào.
CSKD thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phưong pháp khấu trừ thuế, giá trị vật tư, hàng hoá, TSCĐ, dịch vụ mua vào là giá mua thực tế không có thuế GTGT đầu vào.
Phương pháp hạch toán thuế GTGT đầu vào.
Kế toán mua hàng hóa, vật tư, dịch vụ trong nước thuộc đối tượng chịu thuế GTGT áp dụng phương pháp khấu trừ thuế được thể hiện qua sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 1: Kế toán mua hàng hoá chịu thuế GTGT theo PPKT
TK 111,112,331… TK 152,153,156
Mua hàng hoá ,vật tư nhập kho
(giá thanh toán) (giá vốn thực tế chưa có VAT)
TK 133
VAT đvào được khấu trừ
TK 627,641,642
Mua hàng hoá,vật tư sử
dụng ngay cho SX KD
chiết khấu,giảm giá,hàng trả lại khi mua hàng
Sơ đồ 2 : Kế toán thuế GTGT phải nộp đầu vào của hàng nhập khẩu
TK 111,112,331 TK 152,153,211
Giá mua và các khoản chi phí thu mua (a)
TK 3333
Thuế NK phải nộp (b)
TK 33312
Thuế GTGT phải nộp (c)
Nếu hàng nhập khẩu dùng để sản xuất kinh doanh các mặt hàng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế thì bút toán (c) không tính vào giá của hàng nhập khẩu mà sẽ hạch toán như sau :
TK 33312 TK 133
Số thuế GTGT phải nộp nhưng được khấu trừ
2.2.1.2 Hạch toán thuế GTGT đầu ra.
Để hạch toán thuế GTGT đầu ra, kế toán sử dụng TK 3331 “Thuế GTGT phải nộp”.
TK 3331 dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, số thuế GTGT đã nộp và còn phải nộp vào NSNN.
Đối tượng sử dụng: TK 3331 áp dụng cho các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và CSKD thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Kết cấu và nội dung phản ánh của TK 133.
Bên Nợ:
-Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ.
- Số thuế GTGT đã nộp vào NSNN.
- Số thuế GTGT được giảm trừ vào số thuế GTGT phải nộp.
- Số thuế GTGT của hàng bán bị trả lại.
Bên Có:
-Thuế GTGT đầu ra:
+Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hóa, dịch vụ đã tiêu thụ.
+Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu,tặng, sử dụng nội bộ.
+Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động tài chính và thu nhập khác.
-Số thuế GTGT phải nộp của hàng hóa nhập khẩu.
Số dư Có : Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ.
Số dư Nợ: Số thuế GTGT đã nộp thừa vào NSNN.
TK 3331 có 2 Tài khoản cấp 3:
-TK 33311- Thuế GTGT đầu ra: Dùng để phản ánh số thuế GTGT đầu ra, số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ.
-TK 33312: Thuế GTGT hàng nhập khẩu: Dùng để phản ánh thuế GTGT phải nộp, đã nộp, còn phải nộp của hàng nhập khẩu.
Thuế GTGT đầu ra
=
Giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ chịu thuế bán ra
x
thuế suất thuế GTGT của hàng hoá ,dịch vụ đó
Phương pháp hạch toán thuế GTGT đầu ra
Sơ đồ 3 : Kế toán thuế GTGT đầu ra
TK 511,515,711 TK 111,112,131
Giá chưa có VAT
Tổng giá
thanh toán
TK 133 TK 33311
Khấu trừ VAT đ/vào VAT đ/ra
phải nộp
TK 111,112
Nộp thuế
TK 711
Khoản được giảm thuế
Sơ đồ 4 : Trường hợp sản phẩm,hàng hoá,dịch vụ sử dụng nội bộ
TK 512 TK 334,621,627,641
Giá chưa có VAT giá đã có VAT
TK 33311
VAT đầu ra
TK 133
VAT đầu ra phải nộp nhưng được khấu
trừ (do dùng cho hoạt động được tính
thuế theo pp khấu trừ thuế
1.2.4.3. Kế toán khấu trừ thuế,nộp thuế,hoàn thuế GTGT
* Kế toán khấu trừ thuế.
Hầu hết các nước áp dụng phương pháp khấu trừ thuế đều sử dụng phương pháp lấy thuế đầu ra trừ thuế đầu vao. Nếu hoá đơn đầu vào không ghi số thuế GTGT thì không được khấu trừ. ậ nước ta trong các văn bản luật mới ban hành đã qui định cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào (1% đến 5%) nhưng chỉ áp dụng đối với hàng hoá nông, lâm hải sản mua trực tiếp của người sản xuất không có hoá đơn, nhưng có bản kê. Sau gần 9 tháng thực hiện, Chính phủ ban hành Nghị định 78/1999 - NĐ - CP cho phép khấu trừ thuế đầu vào đôi với cả phế liệu (3% đến 5%), đối với hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đầu vào (4%) và tất cả hàng hoá, dịch vụ đầu vào khác có hoá đơn hàng hoá thông thường được khấu trừ 3%. Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến khích sử dụng hoá đơn chứng từ. Đối với hàng hoá nông, lâm, hải sản không cần hoá đơn, chỉ cần bản kê dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế, các doanh nghiệp không lấy hoá đơn bán hàng, tạo kẽ hở để cơ sở kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các doanh nghiệp mua nông, lâm, hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu lại không được trừ thuế đầu vào.
Giải pháp trước mắt khi vẫn còn sử dụng 2 phương pháp tính thuế và các mức thuế suất như hiện nay:
Đối với hàng hoá, dịch vụ đầu vào mua của người trực tiếp sản xuất kinh doanh không có hoá đơn, chỉ có bản kê, được khấu trừ 3% trên giá trị hàng hoá, dịch vụ, kể cả mua để xuất khẩu và chế biến hàng xuất khẩu.
Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT mua của người kinh doanh có hoá đơn bán hàng thông thương, kể cà hàng hoá của cơ sở sản xuất thuộc diện tính thuế tiêu thụ đặc biệt, thì được khấu trừ 4% trên giá trị hàng hoá mua vào.
Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ bị huỷ bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trường hợp giảm giá, các khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng tà hợp lệ.
Giải pháp lâu dài: Khi dã áp dụng một phương pháp tính thuế và 2 mức thuế suất như kiến nghị ở trên thì toàn bộ giá trị hàng hoá, dịch vụ đầu vào không thuộc diện tính thuế GTGT mà đầu ra tính thuế GTGT thì sẽ được khấu trừ 4% giá trị trên bản kê hoặc hoá đơn thông thường tính cho cả những hàng hoá, dịch vụ bán trong nước, xuất khẩu hoặc chế biến hàng xuất khẩu.
* Nộp thuế GTGT.
Đối với cơ sở kinh doanh thực hiện nộp thuế hàng tháng theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất của tháng không quá ngày 25 của tháng tiếp theo.
Đối với những cơ sở có số thuế nộp hàng tháng lớn thì thực hiện tạm nộp thuế phát sinh trong tháng theo định kỳ 10 ngày hoặc 15 ngày 1 lần. Khi kê khai số thuế phải nộp của cả tháng, trừ số thuế đã tạm nộp, cơ sở sẽ nộp số thuế còn thiếu. Kỳ nộp do cơ quan thuế xác định và thông báo cho cơ sở.
Cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu hàng hoá phải nộp thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu thực hiện theo thời hạn thông báo nộp thuế nhập khẩu. Đối với hàng hoá không phải nộp thuế nhập khẩu hoặc có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0% thì thời hạn nộp thuế GTGT thực hiện như quy định đối với hàng hoá phải nộp thuế nhập khẩu.
Đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc diện không phải nộp thuế GTGT khi nhập khẩu như: Nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, quà biếu, quà tặng, hàng viện trợ nhân đạo... nếu đem bán hoặc xuất dùng vào mục đích khác thì phải kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế trực tiếp quản lý cơ sở như quy định đối với hàng hóa do cơ sở kinh doanh.
Cơ sở kinh doanh cố định đi mua nguyên liệu, hàng hoá, vận chuyển hàng của cơ sở đi bán hoặc trao đổi với cơ sở khác, vận chuyển trong nội bộ cơ sở phải có đủ hoá đơn, chứng từ theo quy định, nếu không sẽ phải nộp thuế GTGT tính trên giá trị hàng hoá; hàng nhập khẩu còn bị truy thu thuế nhập khẩu và thuế GTGT khâu nhập khẩu.
Trong một kỳ tính thuế, nếu cơ sở kinh doanh có số thuế nộp thừa kỳ trước được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo, nếu kỳ trước nộp thiếu thì phải nộp đủ số thiếu đó.
Thuế GTGT nộp vào NSNN bằng đồng Việt nam. Trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh thu hoặc mua hàng hoá, dịch vụ thanh toán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt nam theo tỷ giá mua, bán thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt nam công bố tại thời điểm phát sinh hoạt động mua, bán hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ để xác định số thuế GTGT phải nộp.
* Hoàn thuế GTGT và phương pháp hạch toán, đối tượng và các trường hợp được hoàn thuế .
CSKD thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế đầu vào trong các trường hợp sau :
Có số thuế đầu vào được khấu trừ của các tháng trong quý thường xuyên lớn hơn số thuế đầu ra phát sinh các tháng trong quý. Trường hợp này khi nhận được số tiền NSNN hoàn lại, ghi :
Nợ TK 111, 112
Có TK 133 : thuế GTGT được khấu trừ
CSKD xuất khẩu mặt hàng theo thời vụ hoặc theo từng lần xuất khẩu với số lượng lớn nếu phát sinh số thuế đầu vào được khấu trừ lớn thì được xét hoàn thuế GTGT đầu vào theo từng kỳ hoặc tháng. Trường hợp này khi nhận được tiền NSNN hoàn lại ghi :
Nợ TK 111, 112
Có TK 133
CSKD thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có đầu tư mua sắm TSCĐ, có số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn được hoàn thuế như sau :
Đối với cơ sở đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế nhưng chưa phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra nếu thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Trường hợp có số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn lớn thì được xét hoàn thuế từng quý.
Khi nhận được tiền NSNN hoàn lại ghi : Nợ TK 111, 112
Có TK 133
Trường hợp cơ sở mới đầu tư nhưng chưa thành lập doanh nghiệp hoặc đã thành lập doanh nghiệp nhưng chưa đăng ký nộp thuế thì không thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT đầu vào theo quy định .
Đối với CSKD đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư đã khấu trừ trong 3 tháng( kể từ tháng phát sinh thuế đầu vào của tài sản đầu tư ) mà chưa được khấu trừ hết thì được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ này:
Nợ TK 111, 112
Có TK 133
CSKD quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT đầu vào nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế GTGT nộp thừa.
Khi nhận được tiền NSNN hoàn lại ghi
Nợ TK 111, 112
Có TK 3331
CSKD được hoàn thuế trong trường hợp có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính yêu cầu phải hòan trả lại thuế cho CSKD
Trường hợp này khi nhận tiền NSNN hoàn lại ghi
Nợ TK 111, 112
Có TK 133: thuế GTGT được khấu trừ
1.2.5. Kế toán thuế GTGT trong doanh nghiệp theo phương pháp trực tiếp.
Xác định thuế GTGT phải nộp
Số thuế GTGT phải nộp
=
GTGT của hàng hóa , dịch vụ chịu thuế GTGT
x
thuế suất thuế GTGT của hàng hóa , dịch vụ đó
Phương pháp xác định làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng CSKD như sau :
Đối với CSKD đã thực hiện đầy đủ việc mua bán hàng hóa, dịch vụ có hóa đơn, chứng từ ghi chép sổ sách kế toán thì GTGT được xác định căn cứ vào giá mua , giá bán ghi trên chứng từ.
Đối với CSKD đã thực hiện đầy đủ hóa đơn, chứng từ bán hàng hóa, dịch vụ xác định được đúng doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ theo hóa đơn bán hàng hóa , dịch vụ nhưng không có đủ hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ thì GTGT được xác định bằng doanh thu nhân với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Đối với cá nhân (hộ) kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hóa đơn mua, bán hàng hóa, dịch vụ thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ ấn định mức doanh thu tính thuế GTGT được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ(%) GTGT tính trên doanh thu.
Tổng cục thuế hướng dẫn các cục thuế xác định tỷ lệ( %) GTGT tính trên doanh thu làm căn cứ tính thuế GTGT phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh và hợp lý giữa các địa phương .
Phương pháp hạch toán thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.
Sơ đồ 5 : Kế toán thuế GTGT theo pp trực tiếp
Đầu vào đầu ra
TK 111,112,331 TK 152,153,156 TK 511 TK 111,112,131
giá thanh toán DT bán hàng
(bao gồm cả VAT) (giá bán có VAT)
TK 33312 TK 33311 TK 511
VAT của hàng NK VAT đầu ra phải nộp
Phần II : Hoàn thiện kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp Việt Nam.
2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thuế GTGT và kế toán thuế GTGT.
1-/ Về đối tượng chịu thuế GTGT:
Đặc điểm của thuế GTGT là có diện bao quát rộng, bao gồm hầu như toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, đó là mảng tiêu dùng thu nhập đã có.
Theo Điều 3 Luật thuế GTGT và Điều 3 NĐ 28/1998/NĐ - CP thì tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh doanh hàng hóa,... đều là đối tượng nộp thuế GTGT. Vấn đề đặt ra ở đây là việc thu thuế một cách bao quát như vậy có hiệu quả hay không. Số thuế thu được trong một số trường hợp có bù đắp được chi phí cho việc quản lý thu thuế của một số trường hợp cụ thể hay không? đó là việc thu thuế ở các hộ kinh doanh nhỏ. ở nước ta việc thu thuế ở các đối tượng này rất khó khăn và phức tạp nên chăng loại trừ một số hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi đối tượng nộp thuế GTGT và dùng sắc thuế khác để điều chỉnh.
ở các nước, nhằm nâng cao tính hiệu quả của chính sách thuế họ quy định mức doanh thu bình quân tháng hoặc năm để giới hạn đối tượng nộp thuế. Cụ thể như Philippines quy định doanh thu của các doanh nghiệp hàng năm dưới 200.000 pê xô thì không phải là đối tượng nộp thuế GTGT, Thuỵ Điển là dưới 200.000 SEK,...
Ngoài ra, việc xác định đối tượng chịu thuế và không chịu thuế GTGT sẽ gây ra hiện tượng phân đoạn các hoạt động kinh tế, gây tác động khấu trừ thuế GTGT để các đơn vị đáp ứng đủ điều kiện của thuế GTGT đều được khấu trừ thuế. Và trong quy định phải thật đơn giản nhưng rõ ràng tránh mọi khả năng phân đoạn nền kinh tế một cách bất lợi như trên.
2-/ Về thuế suất thuế GTGT:
Một trong những ưu điểm của thuế GTGT so với thuế doanh thu là có ít mức thuế suất (4 mức thuế suất) nhưng chính điều này lại không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người giầu và người nghèo. Vì thuế GTGT có ít mức thuế suất cho nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau. Do đó thuế mang tính luỹ thoái. Tỉ lệ động viên qua thuế GTGT của người có thu nhập thấp lại lớn hơn tỷ lệ động viên đối với người có thu nhập cao.
Nhưng cũng chính điều này, hiện nay với 4 mức thuế suất ở ta là quá phức tạp và lạc hậu so với tiến bộ của thuế GTGT hiện đại. Đa số các nước công nghiệp phát triển đều áp dụng một mức thuế ưu đãi (khoảng 5%) và một mức thông dụng (khoảng 10%) ngoài mức 0% dành cho xuất khẩu. Điều này gây nhập nhằng và tuỳ tiện khi vận dụng, tạo cơ hội cho trốn lậu thuế. Tăng chi phí cho việc thanh tra kiểm soát thuế.
Do đó việc quy định thuế GTGT một cách đơn giản để nâng cao tính hiệu lực pháp lý của thuế GTGT thì lại mâu thuẫn với một trong những vai trò của chính sách thuế như đã nêu trên, đó là đảm bảo sự công bằng xã hội.
3-/ Về phương pháp tính thuế GTGT:
Luật thuế GTGT của Việt Nam quy định áp dụng hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng. Với hai phương pháp này đã tạo ra sự khác biệt giữa các doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế khác nhau. Theo phương pháp khấu trừ thuế:
= -
Theo phương pháp này, mỗi một ngường trung gian trong các khâu luân chuyển thu từng phần thuế và thanh toán lại cho ngân sách. Luật thuế GTGT khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ và khi áp dụng doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn chứng từ. Về phương pháp tính thuế này không có gì phải làm thêm, nhưng đối với phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT thì:
= x
Mà GTGT của hàng hoá, dịch vụ là khoản chênh lệch giữa giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra và giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng với loại hàng hoá bán ra. Cách tính trên cho thấy vẫn còn có hiện tượng thuế chồng thuế. Để khắc phục nhược điểm này, theo kinh nghiệm của một số nước bằng cách áp dụng phương pháp quy đổi thuế suất GTGT (theo luật thuế) thành thuế suất tính theo giá thanh toán như sau:
Y =
Trong đó: X là thuế suất thuế GTGT theo Luật thuế.
Y là thuế suất GTGT quy đổi.
Và căn cứ vào thuế suất quy đổi (Y) và giá thanh toán trên hoá đơn GTGT ta có thể xác định được thuế GTGT phải nộp và từ đó xác định được cả giá bán. Đây là một cách tính hợp lý, có thể tham khảo vận dụng.
4-/ Về phương pháp kế toán thuế GTGT:
Để thực hiện được thuế GTGT, công tác hạch toán kế toán, tổ chức chứng từ thanh toán phải rất khoa học. Đây là công việc phải có thời gian hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác kế toán. Việc kế toán thuế GTGT được hướng dẫn một cách cụ thể trong thông tư số 100/1998/TT-BTC ngày 15/7/1998 và được sửa đổi, bổ sung bởi các thông tư số 180/1998/TT-BTC ngày 26-12-1998 và thông tư số 120/1999/TT-BTC.
Đối với kế toán thuế GTGT em xin đưa ra một số ý kiến sau:
- Đối với vật tư hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT. Đối với trường hợp không thể hạch toán riêng số thuế GTGT đầu vào thì toàn bộ số thuế GTGT đầu vào sẽ được hạch toán vào TK 133. Chu kì kế toán xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu bán ra, số thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra trong kỳ.
Trường hợp thuế GTGT không được khấu trừ có giá trị lớn thì được tính vào giá vốn của hàng hoá bán ra trong kỳ tương ứng với doanh thu trong kỳ, số còn lại được tính vào giá vốn hàng bán ra của kỳ kế toán sau.
Quy định này là không khoa học bởi vì: nếu kỳ kế toán sau doanh thu đạt thấp đơn vị vẫn phải kết chuyển toàn bộ thuế GTGT không được khấu trừ vào giá vốn hàng bán, sẽ gây nên tình trạng lỗ giả.
Vì thuế GTGT không được khấu trừ là một bộ phận xác định chính xác kết quả kinh doanh, nên phân bổ dần thuế GTGT không được khấu trừ tương ứng với doanh thu thực hiện qua các kỳ kế toán như sau:
Kỳ này:
Nợ TK 142 - Chi phí trả trước.
Có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
Các kỳ sau:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Có TK 142 - Chi phí trả trước.
Việc hạch toán như vậy sẽ hợp lý hơn và tránh được tình trạng lỗ giả của doanh nghiệp.
- Đối với các đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp quy định: Thuế GTGT được hạch toán và chi phí quản lý doanh nghiệp (TK 642). Điều này không phản ánh đúng bản chất của nội dung nghiệp vụ bởi vì chi phí quản lý doanh nghiệp là một chỉ tiêu có liên quan đến việc phản ánh chất lượng công tác quản lý doanh nghiệp. Thông qua TK này có thể đánh giá công tác quản lý doanh nghiệp có hiệu quả hay không. Cho nên ở đây cũng giống như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT nên hạch toán giảm doanh thu (TK 511):
Nợ TK 511 : Doanh thu bán hàng.
Có TK 3331 : Thuế GTGT phải nộp.
Hạch toán như vậy ngoài chỉ rõ bản chất của nghiệp vụ nó còn giảm thiểu các bút toán đơn lẻ tránh được sự phức tạp cho quá trình thực hiện kế toán thuế GTGT.
- Đối với các khoản chiết khấu bán hàng, theo quy định mới được đưa vào chi phí hoạt động tài chính, bởi vậy doanh nghiệp không được ghi giảm số thuế GTGT phải nộp. Đây là điều hợp lý vì nếu được giảm thuế trong chiết khấu bán hàng thì doanh nghiệp có thể thoả thuận với khách hàng từ đó tìm cách gian lận, giảm thuế thông qua việc khai tăng chiết khấu bán hàng. Đối với giảm giá hàng bán, lẽ ra cũng phải quy định tương tự (không được ghi giảm thuế GTGT phải nộp trên khoản giảm giá). Vì doanh nghiệp thông qua việc giảm giá đã thực sự tiêu thụ được hàng. Đã phát sinh doanh nghiệp. Giảm giá chính là điều kiện mà doanh nghiệp phải đánh đổi để có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn sau khi đã cân nhắc lợi ích nào cao hơn giữa hai phương án này. Nhưng đối với hàng bán bị trả lại (TK 531) thì việc giảm thuế GTGT trên khoản hàng bị trả lại là hợp lý vì thực tế doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng không phát sinh doanh thu.
5-/ Hoàn thuế GTGT:
Về vấn đề hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp, đặc biệt là trong trường hợp đầu tư tài sản cố định cho sản xuất kinh doanh. Do giá trị tài sản là lớn nên số thuế GTGT đầu vào tính trên tỷ lệ (%) của tài sản là một khoản tài sản không phải là nhỏ. Đối với Nhà nước, việc hoàn lại tức thời cho doanh nghiệp số thuế GTGT đầu vào phát sinh lớn hơn so với số thuế GTGT đầu ra của doanh nghiệp, có thể gây ra giảm thu tạm thời. Nhưng về phía các doanh nghiệp số dư nợ của TK 133 quá lớn trong thời gian dài (3 tháng đối với tài sản cố định đầu tư mở rộng chiều sâu, quý hoặc năm đối với tài sản cố định đầu tư mới) làm chậm vòng quay vốn của doanh nghiệp, giảm hiệu quả hoạt động của đồng vốn và đôi khi doanh nghiệp chịu mất đi những cơ hội kinh doanh do thiếu vốn.
2.2. Đánh giá kế toán thuế GTGT trong các doanh nghiệp.
Thuế GTGT ra đời để khắc phục việc đánh thuế trùng lặp của thuế doanh thu nó chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tại mỗi công đoạn sản xuất, lưu thông làm sao cho tới cuối chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ thì tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ khớp với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Tuy nhiên, do sự tác động của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và đối với người tiêu dùng có sự khác nhau nên để có thể xem xét kỹ cơ chế vận hành của thuế GTGT ta có thể phân tích như sau:
* Đối với doanh nghiệp, thuế GTGT gắn liền với 2 yếu tố riêng biệt độc lập với nhau:
- Thứ nhất; yếu tố liên quan đến chế độ khấu trừ, tức là liên quan đến bộ phận thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ mua hàng hoá và dịch vụ đầu vào, kể cả nghiệp vụ mua tài sản cố định.
- Thứ hai: yếu tố liên quan đến chế độ tính thuế, tức là gắn liền với bộ phận thuế GTGT thu được (thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ bán hàng hoá và dịch vụ đầu ra kể cả nghiệp vụ bán tài sản cố định).
Chênh lệch giữa thuế GTGT thu được và thuế GTGT có thể khấu trừ rơi vào 1 trong 2 trường hợp sau:
+ Nếu là số dương (sau 1 kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp phải nộp.
+ Nếu là số âm (sau 1 kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp được Nhà nước thoái trả.
Cơ chế vận hành của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp được thể hiện qua ví dụ sau:
+ Giả định thuế suất là 5%
+ Doanh thu bán hàng: 30000 ; thuế GTGT: 1500
Doanh số mua hàng: 20000 ; thuế GTGT: 1000
thuế GTGT phải nộp: 500
+ Doanh thu bán hàng: 20000 ; thuế GTGT : 1000
Doanh số mua hàng: 30000 ; thuế GTGT : 1500
thuế GTGT được thoái trả: 500
2.2.1. Những kết quả đạt được.
Thuế GTGT được áp dụng ở nước ta từ năm 1999, trong thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta, gây ra những bất lợi, nhưng tính đến nay đã đạt được nhiều kết quả tốt và đang phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế.
Thứ nhất, thuế GTGT đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên đã có tác động tích cực đối với sản xuất, dịch vụ. Có một số ngành nghề, mặt hàng trong thời gian đầu áp dụng Luật thuế GTGT đã không tránh khỏi gặp khó khăn, lúng túng ban đầu do chậm chuyển đổi phù hợp với mức thuế mới như than, cơ khí (trừ cơ khí tiêu dùng), luyện cán - kéo kim loại, máy vi tính, hoá chất cơ bản, vận tải, bốc xếp, xây dựng, khách sạn, ăn uống, du lịch... Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản pháp quy tháo gỡ khó khăn như: cho bổ xung một số hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế, mở rộng việc khấu trừ thuế... Đến cuối năm 1999, các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng trên đã đi vào ổn định, sản phẩm tăng, nộp được thuế và có lãi. Có nhiều sản phẩm, tính chung cả năm 1999, tăng cao hơn so với năm 1998 như phân hoá học tăng 14%, sứ vệ sinh tăng 52,9%, gạch lát tăng 25%, thép cán tăng 12,9%, máy biến thế tăng 23,2%, động cơ đi-ê-zen gấp hơn 2,5 lần. Đối với một số doanh nghiệp đã bị thua lỗ lớn từ trước, qua hơn một năm áp dụng các luật thuế mới, chưa kịp chuyển biến nên sản xuất kinh doanh vẫn trì trệ và chưa hết lỗ.
Các hoạt động dịch vụ có khá hơn, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 3,5% so với năm 1998.
Việc thực hiện thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp còn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế phải tăng cường quản lý, thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ; đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới.
Về lưu thông hàng hoá, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế GTGT chỉ điều tiết trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên đã thúc đẩy việc lưu thông hàng hoá thuận lợi. Tính chung cả năm 1999, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng 5,1% (bao gồm cả yếu tố trượt giá 4,7%).
Thứ hai, Luật thuế GTGT và các Luật thuế mới đã khuyến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thời, trong quá trình thực hiện, Chính phủ còn có những biện pháp khuyến khích thêm như: đối với những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao trong năm 1998 sang năm 1999 mới thanh toán thì được nộp thuế theo mức thuế doanh thu cũ; từ 01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó, trong năm 1999, tuy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K1163.doc