MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KHẢ NĂNG CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN 5
1.1.Tính chuyển đổi của đồng tiền 5
1.2. Đánh giá tính chuyển đổi của đồng tiền 5
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền: 7
1.4. Các yếu tố nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền: 8
CHƯƠNG II: BÀI HỌC LỘ TRÌNH CỦA TRUNG QUỐC 9
VÀ LIÊN HỆ VIỆT NAM 9
2.1. Lộ trình Trung Quốc 9
2.2. Liên hệ với Việt Nam qua các giai đoạn: 15
CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 23
KHẢ NĂNG CHUYỂN ĐỔI VND 23
3.1. Nguyên nhân của thực trạng trên: 23
3.2. Mục tiêu nâng cao tính chuyển đổi của VND 24
3.3. Giải pháp nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền: 24
KẾT LUẬN 30
DANH MỤC CÁC BẢNG. BIỂU 31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
31 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1884 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng chuyển đổi của đồng tiền, bài học lộ trình của Trung Quốc và liên hệ thực tiễn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
RUNG QUỐC
VÀ LIÊN HỆ VIỆT NAM
2.1. Lộ trình Trung Quốc
Trong tiến trình mở rộng kinh tế, Trung Quốc đang nỗ lực đưa đồng Nhân dân tệ (CNY) trở thành đồng tiền quốc tế, tạo thế cân bằng với đồng USD trong hệ thống tiền tệ toàn cầu, CNY trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi, đưa Nhân dân tệ thành một trong số những đồng tiền dự trữ của thế giới, sánh ngang với những đồng tiền như USD hay EUR.
Hành trình điều chỉnh CNY của Trung Quốc qua các giai đoạn:
- 1988: Trung Quốc lập các trung tâm hoán đổi tiền tệ bán chính thức, cho phép giao dịch đồng CNY ở một tỷ giá sát hơn phản ánh nhu cầu thị trường.
- 1/1/1994: Tỷ giá chính thức và tỷ giá ở các trung tâm hoán đổi được thống nhất, theo đó đồng CNY bị đánh tụt giá trị khoảng 33% xuống còn 8,7 CNY/USD.
- 4/1994: Thị trường tiền tệ liên ngân hàng đầu tiên được thành lập ở Thượng Hải. Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường để duy trì đồng CNY ổn định.
- 1/12/1996: Cho phép đồng CNY có khả năng chuyển đổi toàn diện.
- 1994 - 1996: Đồng CNY tăng từ 8,7 lên 8,28 CNY/USD.
- 1997 - 1999: Trung Quốc được đánh giá cao khi giữ đồng CNY ổn định trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
- 2000: Đồng CNY được cho phép có biên độ tỷ giá rộng hơn so với đồng USD, cụ thể là 8,2760 - 8,2800 CNY/USD.
- 12/2001: Trung Quốc gia nhập WTO và cam kết sẽ dần điều chỉnh chính sách tiền tệ.
- 2003: Sức ép tăng mạnh về định giá lại đồng CNY để giúp cân bằng thương mại toàn cầu.
- 12/2004: Trung Quốc tuyên bố sẽ dần theo cơ chế tiền tệ linh hoạt.
- 21/7/2005: Đồng CNY được nâng giá trị 2,1% lên một “tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát” theo cách gọi của Trung Quốc.
- 7/2008: Ngân hàng trung ương “trói” đồng CNY ở mức 6,83 CNY/USD đối phó với khủng hoảng
- Tháng 6/2010: Trung Quốc tuyên bố nối lại cải cách tỷ giá hối đoái đồng CNY, tăng tính linh hoạt tiền tệ.
Với bước đi vững chắc của mình, Trung Quốc đã trở thành quốc gia có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. GDP của Trung Quốc qúy II năm 2010 tăng 10,3%, quý I năm 2010 tăng 11,9% so với cuối năm 2009; trong khi GDP của Hoa Kỳ quý II năm 2010 chỉ tăng 0,6% và quý I năm 2010 tăng 0,9% so với cuối năm 2009. Trong khi nhập siêu của Hoa Kỳ vẫn chưa có chiều hướng giảm (tháng 4 năm 2010 nhập siêu 40,3 tỷ USD, tháng 5 tăng lên 42 tỷ USD và tháng 6 là 49,9 tỷ USD) thì Trung Quốc liên tục tăng xuất siêu (tháng 4 năm 2010 xuất siêu đạt 1,7 tỷ USD, tháng 5 là 19,6 tỷ USD và tháng 6 là 20 tỷ USD)
Trong thương mại quốc tế, Trung Quốc luôn theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái trên cơ sở định giá thấp đồng nhân dân tệ so với các ngoại tệ khác (đặc biệt với USD) để tạo lợi thế thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thặng dư cán cân thương mại tạo sự ổn định và bền vững trong dự trữ ngoại hối.
Bảng 1: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại, dự trữ ngoại tệ
của Trung Quốc 2002-2009
(Nguồn:
Với việc duy trì tỷ giá phù hợp đã giúp Trung Quốc luôn đạt được thặng dư thương mại, kể cả trong giai đoạn khó khăn nhất của nền kinh tế thế giới (Cán cân thương mại thặng dư 261,9 triệu USD trong năm 2007 đến năm 2008 tăng lên 297 triệu USD, năm 2009 giảm nhưng không đáng kể, đạt 198 triệu USD. Bên cạnh thặng dư cán cân thương mại liên tiếp qua các năm phải kể đến sự bền vững kho dự trữ ngoại hối của Trung Quốc (tăng từ 1.528 tỷ USD trong năm 2007 lên 1.946 tỷ USD và tính đến hết năm 2009, con số này lên đến 2.400 tỷ USD).
Biểu đồ 1: Tỷ giá CNY/USD trung bình qua các năm
(Nguồn: Reuter)
Một số nước đã hối thúc Trung Quốc nới lỏng kiểm soát tiền tệ hơn nữa, mục tiêu là giảm sự mất cân đối thương mại và tiết kiệm giữa các quốc gia. Đề xuất này đã buộc Trung Quốc phải lưu tâm và mới đây đã tiến hành nới lỏng tiền tệ, góp phần tăng tỉ giá giữa đồng nhân dân tệ với USD. Đồng nhân dân tệ lên giá đã tạo ra khả năng đa dạng hóa cơ cấu dự trữ quốc gia, hệ quả là đẩy đồng đô la giảm sâu hơn so với các đồng tiền mới nổi nhưng tăng lên so với euro. Một số Ngân hàng Trung ương vốn đã mua USD nhằm duy trì việc neo tỉ giá này đã nhanh chóng đa dạng hóa danh mục dự trữ bằng cách bán 1/3 lượng USD thu được để mua những ngoại tệ khác, chủ yếu là euro vì có rất ít lựa chọn khác và nếu đồng nhân dân tệ tăng giá thì tương quan euro/đô la sẽ giảm xuống. Điều này được nhiều nhà đầu tư và đầu cơ kỳ vọng, kết cục là giá vàng đã tăng lên so với euro, bảng anh và yên nhật trong thời gian qua (bắt đầu từ ngày 23/11/2009).
Biểu đồ 2: Tỷ giá CNY/USD theo ngày trong 2 tháng đầu năm 2010
(Nguồn: Reuter)
Có nhiều áp lực phải đánh giá lại đồng nhân dân tệ, nhất là sự mất giá gần 40% của USD trong 8 năm qua thể hiện sự không tương xứng với những ngoại tệ chủ chốt, trong khi Trung Quốc và nhiều nền kinh tế mới nổi lại neo tỉ giá với USD vốn đang trượt giá để hỗ trợ xuất khẩu.
Nhằm đạt được mục tiêu của mình, Trung Quốc từng bước thực hiện lộ trình của mình:
Trước tiên, Trung Quốc sẽ thúc đẩy hơn nữa cải cách cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng CNY nhằm tăng tính linh hoạt về tỷ giá đồng tiền này trong khi vẫn chú trọng quan hệ cung - cầu của thị trường.
Tiếp đến là các nỗ lực thúc đẩy mạnh mẽ chương trình cho phép các công ty trong nước thanh toán các giao dịch quốc tế bằng đồng CNY. Trung Quốc đã và đang đẩy mạnh việc sử dụng rộng rãi đồng CNY ở nước ngoài, ký một loạt các hiệp định trao đổi tiền tệ song phương. Trung Quốc đã nới lỏng những hạn chế đối với giao dịch bằng đồng tiền này tại Hong Kong - đặc khu hành chính vẫn mở rộng cửa cho các nhà đầu tư quốc tế và dự kiến sẽ là bệ phóng cho đồng nội tệ của Trung Quốc tiến ra toàn cầu. Theo quy định mới, bất cứ công ty nào trên thế giới cũng có thể mở một tài khoản bằng đồng CNY ở Hong Kong và chuyển đổi sang các đồng tiền khác tùy thích, đồng thời các tổ chức tài chính ở đặc khu này được tự do thực hiện các công cụ đầu tư bằng CNY. Trung Quốc cũng không hạn chế các đối tượng doanh nghiệp được nhận vốn vay hay hạn chế các loại hình vốn vay bằng nội tệ - một bước tự do hóa cơ bản có thể dẫn tới bùng nổ các giao dịch tín dụng bằng đồng CNY ở nước ngoài
Trung Quốc cũng thực hiện thí điểm dùng đồng CNY để thanh toán qua biên giới. Mở rộng sử dụng CNY để thực hiện các giao dịch mua bán qua biên giới có ý nghĩa rất lớn, giúp các công ty tránh được rủi ro về dao động tỷ giá hối đoái cũng như giảm được chi phí phát sinh trong quá trình trao đổi ngoại tệ
Những bước đi này có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó tạo ra các công cụ mới cho các công ty nước ngoài nắm giữ và đầu tư đối bằng nguồn CNY họ thu được qua các giao dịch thương mại với Trung Quốc. Rõ ràng, đây là những động thái thể hiện một sự điều chỉnh quan trọng trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc theo hướng linh hoạt, rộng mở và phổ biến hóa đồng CNY
Tuy nhiên, các nhà phân tích cảnh báo sẽ phải mất hàng thập kỷ nữa đồng CNY mới có thể đảm đương vai trò quốc tế thực sự và thách thức đồng USD. Đồng CNY chưa đủ khả năng để nắm giữ vai trò quốc tế. Để có thể đảm nhận vai trò quốc tế, một đồng tiền phải hội tụ các yếu tố sau: một là, tính cạnh tranh kinh tế của đồng tiền đó; hai là, thị trường tài chính của nước đó phải rất mạnh và phát triển và bản thân đồng tiền phải chuyển đổi được; ba là, môi trường mà đồng tiền đó được sử dụng phải ổn định.
Đồng CNY hiện không thể chuyển đổi một cách tự do mà thay vào đó được gắn với một rổ tiền tệ và bị kiểm soát chặt chẽ bởi cơ quan ngoại hối của Trung Quốc.
Trung Quốc cũng như Việt Nam là những nước có nền kinh tế đang phát triển ở trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ chế kế hoạch hoá tập trung "khép kín" sang nền kinh tế phát triển dựa trên cơ chế thị trường "mở" chịu sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Mặc dù, thời điểm bắt đầu chuyển đổi và "mầu sắc" của định hướng có khác nhau, nhưng ở nhiều góc độ chúng ta đều có thể nhận thấy có những nét tương đồng giữa hai nền kinh tế này. Đặc biệt, với những thành công “đáng nể” sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa rồi, Trung Quốc đáng là một “tấm gương” để Việt Nam học tập. Qua bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về điều hành chính sách tỷ giá, nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền, Việt Nam cần phải có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô và duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong từng giai đoạn.
2.2. Liên hệ với Việt Nam qua các giai đoạn:
Việc đánh giá tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam (VND) sẽ chủ yếu dựa trên sự đánh giá tính chuyển đổi trong nước thông qua phân tích vị thế của VND, chính sách quản lý ngoại hối và khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng. Do đặc thù của cơ chế quản lý và biến động của kinh tế thế giới có ảnh hưởng đến Việt Nam, việc đánh giá tính chuyển đổi của Việt Nam chia thành các giai đoạn như sau:
2.2.1. Giai đoạn trước khi mở cửa
- Về tình hình kinh tế trong nước:
Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức và cá nhân sở hữu, sử dụng trong nước phải thực hiện bằng VND
- Khả năng chuyển đổi của VND trong giai đoạn này:
Việc chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá (tỷ giá mậu dịch và tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất, nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các hiệp định song biên-đa biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng Rúp và đồng nhân dân tệ. Vì vậy, khả năng chuyển đổi của VND rất hạn chế. Cuối giai đoạn này xuất hiện dấu hiệu khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá-lương-tiền; trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán
2.2.2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực (1988-1997):
- Tình hình kinh tế trong nước:
Việt Nam chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước dần xóa bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế để phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định (trung bình gần 8%/năm), lạm phát được kiểm soát ở mức dưới 10%, kinh tế đối ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập khẩu, đầu tư và vay nợ nước ngoài. Hình thành trung tâm giao dịch ngoại tệ, Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển, VND được hỗ trợ bởi các ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn làm cho việc sử dụng thuận tiện hơn. Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát đã được kiềm chế nên mức lãi suất cao làm cho VND trở nên khá hấp dẫn.
Khả năng chuyển đổi của VND:
Tính chuyển đổi của VND đã được nâng cao đáng kể so với giai đoạn trước do vị thế của VND đã được phục hồi, chính sách quản lý ngoại hối có sự nới lỏng hơn và khả năng đáp ứng ngoại tệ được cải thiện một bước:
+ Giao dịch vãng lai:
Các tổ chức kinh tế được mua ngoại tệ để thanh toán xuất nhập khẩu, trả lãi các khoản vay nước ngoại, chuyển lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài về nước theo tỷ giá giao dịch của Ngân hàng. Kiều hối được khuyến khích chuyển ngoại tệ về, được gửi vào ngân hàng và được rút ra bằng ngoại tệ. Người cư trú Việt Nam khi có nhu cầu về ngoại tệ để đi công tác, học tập, lao động, du lịch chữa bệnh ở nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp phép cho mua số ngoại tệ cần thiết.
+ Giao dịch vốn:
Tổ chức kinh tế được vay nước ngoài và mua ngoại tệ để trả nợ nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài được phép mua ngoại tệ trong một số trường hợp đặc biệt (xây dựng hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu). Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế như nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ cân đối ngoại tệ, việc tiếp cận ngoại tệ phải có giấy phép của Ngân hàng Nhà nước, vay nợ nước ngoài phải được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không được vay ngoại tệ của ngân hàng
+ Khả năng đáp ứng cung cầu ngoại tệ:
Khả năng đáp ứng cung cầu ngoại tệ của hệ thống ngân hàng được cải thiện hơn do xuất khẩu tăng và nguồn vốn nước ngoài vào nhiều qua vay nợ và đầu tư trực tiếp. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu phát huy tác dụng. Tỷ giá chính thức vẫn do Ngân hàng Nhà nước công bố nhưng linh hoạt hơn do đã áp dụng biên độ tỷ giá. Về cuối giai đoạn, khi khu vực bị khủng hoảng, vay nợ và đầu tư nước ngoài giảm mạnh thì cung-cầu ngoại tệ bị mất cân đối nghiêm trọng. Mặt khác, do cơ chế tỷ giá còn thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ kém phát triển, công cụ thị trường còn hạn chế làm chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế bị ách tắc, khó mua được ngoại tệ nên các tổ chức kinh tế và ngân hàng cũng có xu hướng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ
2.2.3. Giai đoạn từ khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực đến nay:
2.2.3.1. Giai đoạn từ 1998 đến 2001:
Do khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực mức tăng GDP của Việt Nam bị giảm mạnh, trung bình chỉ còn 6%/năm. Năm 1998, lạm phát lên đến 9,2% (năm 1997, lạm phát ở mức 3,6%), sau đó rơi vào giảm phát mà thấp nhất là vào năm 2000 (-0,6%). Trong giai đoạn này, tawngg trưởng xuất nhập khẩu cũng biến động ới mức độ lớn, đầu tư trực tiếp nước ngoài su giảm mạnh và vay nợ cũng gặp khó khăn
Trước tình hình đó, để chấn hưng nền kinh tế, Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp tich cực như đẩy mạnh tự do hóa thương mại, cải tổ chính sách thuế, ban hành các loại luật quan trong như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại. Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, đồng thời thực hiện việc đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các tập đoàn mạnh để nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi ký hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Hệ thống ngân hàng tiếp tục được củng cố sau khi ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các Tổ chức tín dụng. Tiến hành sắp xếp và cơ cấu lại các NHTM cổ phần. Hình thành thị trường Chứng khoán với quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường
+ Giao dịch vãng lai: hình thành cơ bản xu hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai. Chỉ còn một số hạn chế liên quan đến thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của daonh nghiệp FDI, hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của các cá nhân
+ Giao dịch vốn: Có một số nới lỏng hơn về kiểm soát vay ngắn hạn nước ngoài và điều kiện vay nợ nước ngoài, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong việc thoả thuận,ký kết hợp đồng vay vốn nước ngoài, sau đó phải đăng ký khoản vay với Ngân hàng Nhà nước (trừ các trường hợp là doanh nghiệp nhà nước). Xoá bỏ chế độ tự cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI
+ Khả năng đáp ứng ngoại tệ: Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ nên khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Để điều hoà cung cầu ngoại tệ, Chính phủ đã pjải áp dụng chế độ kết hối ngoại tệ với tỷ lệ rất cao, đồng thời phải áp dụng một số hình thức ưu tiên bán ngoại tệ, giấy phép mua ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI. Trong thời gian này, tỷ giá hối đoái của VND có nhiều biến động do ảnh hưởng của khủng hoảng
2.2.3.2. Giai đoạn từ 2002 đến nay:
- Về tình hình kinh tế trong nước:
Kinh tế bắt đầu phục hồi và bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ trên 7%/năm, kim ngạch xuất khẩu lần đầu tiên đạt gần 60 tỷ USD vào năm 2004. Đầu tư và vay nợ nước ngoài cũng tăng mạnh do sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, lạm phát đã đột ngột tăng cao trở lại với mức 9,5% năm 2004 do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là thiên tai, dịch cúm gia cầm và giá nguyên, nhiên vật liệu trên thế giới tăng
Đây là thời kỳ nhà nước đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hoá và thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO. Thị trường ngoại hối phát triển, hoàn thiện các công cụ phaá sinh để tạo điều kiện tiến đến một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn
- Khả năng chuyển dổi của VND trong giai đoạn này:
Vị thế của VND được cải thiện mạnh mẽ qua việc đổi mới về mệnh giá, hình thức của đồng tiền, sự phát triển của hệ thống các Tổ chức tín dụng với nhiều tiện ích và thanh toán hiện đại. Điều hành chính sách tiền tệ đã có sự thay đổi về chất và quy định quản lý ngoại hối tiếp tục được nới lỏng. Về cơ bản, giao dịch vãng lai và một phần giao dịch vốn đã được tự do hoá, khả năng đáp ứng ngoại tệ tiếp tục được cải thiện, đáp ứng tương đối đầy đủ các giao dịch được phép
+ Giao dịch vãng lai: Việt Nam đã thực hiện tự do hoá giao dịch vãng lai và đã được IMF công nhận:
Bảng 2: Tỷ trọng nhập khẩu của các nước sang Việt Nam
Tỷ trọng nhập khẩu của các nước sang Việt Nam
Nước
2007
2008
2009
Khối ASEAN
25.34%
24.24%
19.98%
Trung Quốc
20.25%
19.79%
23.77%
Đài Loan
11.07%
10.36%
9.04%
Nhật Bản
9.86%
10.21%
10.80%
Hàn Quốc
8.51%
8.99%
10.09%
Khối EU
8.19%
7.20%
8.43%
Australia
1.69%
1.68%
1.52%
Hồng Kông
3.11%
4.28%
1.36%
Ấn Độ
2.16%
2.59%
2.36%
Các nước khác
7.11%
8.67%
9.44%
Nhập khẩu cả nước
100.00%
100.00%
100.00%
Về nhập khẩu, ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và khối EU là những thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua. Nhưng ngoại tệ được sử dụng trong thanh toán hàng nhập khẩu của Việt Nam hầu như là USD, luôn chiếm trên 90% tỷ trọng các loại ngoại tệ được sử dụng trong thanh toán nhập khẩu hàng hoá. 6 tháng đầu năm 2009, tỷ trọng thanh toán nhập khẩu bằng USD của Việt Nam chiếm 92,24%, tiếp đến là EUR với 3,01% và JPY là 2,89%. Tính chung cho 6 tháng đầu năm 2010, tỷ trong thanh toán nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam bằng USD đã tăng lên 96,41%, JPY chiếm 1,17% và EUR chiếm 1,5%.
Bảng 3: Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
Nước
2007
2008
2009
Mỹ
20.23%
18.96%
20.00%
Khối EU
18.21%
17.38%
16.40%
Khối ASEAN
16.23%
16.49%
15.13%
Nhật Bản
12.19%
13.51%
11.08%
Trung Quốc
7.30%
7.74%
8.64%
Australia
7.12%
6.74%
4.01%
Đài Loan
2.28%
2.24%
1.97%
Hàn Quốc
2.49%
2.86%
3.64%
Các nước khác
13.47%
14.07%
19.13%
Xuất khẩu cả nước
100.00%
100.00%
100.00%
Về xuất khẩu, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam qua các giai đoạn chủ yếu là Mỹ, khối EU, khối ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và Australia. Cũng tương tự như nhập khẩu, loại ngoại tệ được sử dụng chủ yếu trong thanh toán hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là USD. 6 tháng đầu năm 2009, tỷ trọng thanh toán xuất khẩu hàng hoá của các nước cho Việt Nam chủ yếu bằng USD với 96,76%, bằng EUR chiếm 1,61%, JPY chíêm 1,18% và các loại ngoại tệ khác chiếm 0,45%. Đến 6 tháng năm 2010, Việt Nam thu ngoại tệ từ thanh toán xuất khẩu bằng USD chiếm 96,68% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tiếp đến là 2,2% thanh toán EUR, các loại ngoại tệ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ với 1,12%.
+ Giao dịch vốn: Đã thành công trong việc bỏ quyđịnh về thời hạn chuyển ngoại tệ sau 1 năm đơi với đầu tư gián tiếp. Tuy nhiên, giao dịch vốn vẫn còn một số hạn chế:
Doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến của Ngân hàng Nhà nước trước khi ký hợp đồng vay
Doanh nghiệp FDI vẫn còn danh mục ưu tiên cân đối ngoại tệ. Còn hạn chế tỷ lệ góp vốn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Chưa có quy định cụ thể về đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khóan còn bị hạn chế về tỷ lệ mua và tỷ lệ nắm giữ. Góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài còn bị hạn chế
+ Khả năng đáp ứng cung - cầu ngoại tệ: Khả năng đáp ứng cung -cầu ngoại tệ của hệ thống ngân hàng được cải thiện đáng kể do cơ chế tỷ giá đã có sự thay đổi cơ bản. Tuy Ngân hàng Nhà nước vẫn công bố tỷ giá bình quân thị trường liên ngân hàng nhưng biên độ đã được nới rộng ra. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước đã mở rộng thời gian của các giao dịch, bỏ các trần kỳ hạn cố định để xác định tỷ giá kỳ hạn theo mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Với những quy định hiện hành, tỷ giá đã phản ánh tương đối sát quan hệ cung-cầu ngoại tệ trên thị trường cũng như kỳ vọng về giá trị đối ngoại của VND. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại không cao qua việc nhiều dự án FDI vẫn yêu cầu được Chính Phủ đảm bảo cân đối ngoại tệ, vẫn tồn tại chế độ ưu tiên bán ngoại tệ để nhập khẩu. Hơn nữa, lạm phát cao và nhập siêu gia tăng trong khi Dự trữ ngoại hối Nhà nước còn hạn chế là những vấn đề đang và tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến tính chuyển đổi của VND
Tính chuyển đổi trong nước của VND đã tăng rất nhiều do vị thế của VND liên tục được nâng lên, chính sách quản lý ngoại hối đã thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai và tiếp tục tự do hoá có chọn lọc các giao dịch vốn. Khả năng đáp ững ngoại tệ của hệ thống ngân hàng cũng liên tục được cải thiện qua việc đổi mới cơ chế tỷ giá và sự phát triển, hoàn thiện các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của nền kinh tế, mức độ đô la hoá, trình độ của hệ thống ngân hàng, dịch vụ thanh toán, quy mô và hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, sự bất tiện trong sử dụng, sự gia tăng của chỉ số lạm phát có thể khẳng định rằng vị thế của VND chưa cao, chưa được thị trường thực sự tin tưởng và yêu thích; hầu như chưa có tính chuyển đổi quốc tế
CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
KHẢ NĂNG CHUYỂN ĐỔI VND
3.1. Nguyên nhân của thực trạng trên:
Tính chuyển đổi của VND còn thấp, bởi những lý do cơ bản sau:
Nền kinh tế còn một số bất cập. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy, trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế, đặc biệt là nhanh chóng vượt qua thời kỳ bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2010 tương đối khả quan, đạt mức trên 6% (quý I, GDP tăng trưởng 5,82%, quý II tăng gần 6,4%); lạm phát được kiểm soát ở mức mong muốn và tương đối ổn định trong 3 tháng gần đây (tháng 3, CPI tăng 0,75%, tháng 4 tăng 0,14%, tháng 5 tăng 0,27%, tháng 6 tăng 0,22%); đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, tháng 6, FDI tăng 900 triệu USD, nâng mức vốn FDI 6 tháng lên 5,4 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm ngoái...
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu vẫn theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng chưa cao, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp so với thế giới. Có sự mất cân đối kinh tế vĩ mô như thâm hụt lớn giữa tiết kiệm và đầu tư, vấn đề nợ công ngày càng tăng, tiềm ẩn nguy cơ lạm phát… Tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chưa thực hiện dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả. Việt Nam chưa ra khỏi tình trạng kém phát triển và vẫn thuộc danh sách các nước nghèo;
Thị trường tài chính tiềm ẩn một số nhân tố bất ổn. Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những bất cập của nền kinh tế Việt Nam được biểu hiện rõ nét trong năm 2008 và 2009 vừa qua (lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, đầu tư nước ngoài giảm...), cùng với hệ lụy của các giải pháp, chính sách chống suy giảm kinh tế đã gây nên những hạn chế nhất định đến mức độ chuyển đổi của VND, đó là gây sự ép giảm giá VND, gây khan hiếm ngoại tệ, nhu cầu thanh toán ngoại tệ của doanh nghiệp có những lúc không được đáp ứng đầy đủ và kịp thời...
Hệ thống NH còn kém phát triển, các thị trường tài chính hoạt động chưa đồng bộ và thiếu hiệu quả;
Chính sách quản lý ngoại hối còn có những quy định chặt chẽ không cần thiết. Cơ chế tỷ giá chưa có tính thị trường cao. Chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bị ách tắc, nhất là việc sử dụng ngoại tệ trong chính sách tài chính công làm cho khả năng đáp ứng ngoại tệ bị hạn chế và phản ánh không đúng thực chất. Chính sách tài chính - tiền tệ chưa hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát để tạo niềm tin lâu dài vào VND, còn mâu thuẫn về chính sách để thực hiện mục tiêu giảm tình trạng đô la hóa.
3.2. Mục tiêu nâng cao tính chuyển đổi của VND
Thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của VND ở trong nước, tạo cơ sở để nâng cao tính chuyển đổi quốc tế của VND trong tương lai:
- Tự do hóa hoàn toàn giao dịch vãng lai, xây dựng cơ chế để VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu
- Tiếp tục tự do hóa có lựa chọn các giao dịch vốn. Bước đầu cho VND tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
3.3. Giải pháp nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền:
Việc thực hiện mục tiêu nâng cao tính chuyển đổi của VND và khắc phục từng bước tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu chung là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững
- Đưa ra những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán là 1 trong 6 giải pháp lớn góp phần nâng cao tính chuyển đổi của VND.
- Về mặt trung, dài hạn, Việt Nam cần cấu trúc lại nền kinh tế theo mô hình phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng; tập trung vốn đầu tư vào những ngành nghề trọng điểm có thể làm đòn bẩy phát triển kinh tế của cả nước; nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, nói cách khác là hướng tới một mô hình phát triển kinh tế phù hợp với thực tiễn và hoàn cảnh mới để có thể phát huy tối đa năng lực cạnh tranh của quốc gia. Lộ trình cấu trúc lại nền kinh tế phải đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khả năng chuyển đổi của đồng tiền Bài học lộ trình của Trung Quốc và liên hệ thực tiễn Việt Nam.doc