Tạ Chấn Dục謝振煜 sinh năm 1936 tại Nha Trang, bắt đầu làm thơ từ năm 1943, số lượng bài thơ ông sáng tác cũng tương đối khá, hầu như năm nào ông cũng có ít nhất 1 bài, nhiều thì 23 bài, trong 13 năm ông đã sáng tác 160 bài thơ. Phần lớn các bài thơ ông viết được đăng trên báo, tạp chí. Sau khi biên soạn, chỉnh lý lại còn được 76 bài, thế nhưng đây vẫn chưa thỏa nguyện tác giả. Ngoài thơ ông còn viết tản văn, truyện ngắn, tạp văn và phê bình văn học. Ông tiếp tục lao động nghệ thuật cho ra thêm nhiều tác phẩm nữa. Ông cũng từng viết các tác phẩm như Hai cô con gái 兩個女兒 (1963), Triều Dương mới 新生的朝陽,Khúc đợi chờ 期待曲,Con khóc rồi 孩子、你哭了,
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2659 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát điền dã văn học người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tất nhiên tình thế đã thay đổi, việc mua bán ngày càng có nề nếp hơn. Vào Chợ Lớn, “món gì cũng có, có tiền là có ngay”. Người qua lại tấp nập, không người nhàn rỗi. Nếu chúng ta thấy nhiều người Hoa và Việt tụ họp ở quán cà phê bình dân hoặc hiệu ăn sang trọng, không phải họ hưởng lạc thuần túy, chẳng qua là gặp nhau để thông báo về giá cả, tình hình cung cầu, biến động thị trường hoặc “gút lại công việc làm ăn nào đó” mà thôi.
Có thể nói giới công thương người Hoa không những thông hiểu mà còn nhạy cảm với đường lối chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, hiện nay trên các lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật, thương mại, dịch vụ, ngân hàng, lĩnh vực nào cũng có phần đầu tư của giới công thương ngưòi Hoa. Điều đáng nói là phạm vi đầu tư của họ không chỉ đóng khung trong các quận, huyện của thành phố mà còn mở rộng ra các vùng lân cận thuộc các tỉnh khác, thậm chí vương sang cả nước bạn Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan…. Ngành nghề mà họ đầu tư bao gồm cả những nghề sinh lợi ngay như nhà hàng, khách sạn, dịch vụ du lịch, vui chơi - giải trí lẫn những ngành nghề phải đầu tư lâu dài, phải liên tục đổi mới thiết bị, công nghệ, phải cạnh tranh vất vả, mới thu được lợi nhuận như các ngành sản xuất tiêu dùng, chế biến hàng xuất khẩu, ngành xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng…. Nguồn vốn của họ ngoài vốn tự có, vốn của các tập đoàn công thương gia trong nước, còn có nguồn vốn do thân nhân bà con nước ngoài hỗ trợ. Nhìn chung, hoạt động kinh tế của cộng đồng người Hoa ngày càng sôi nổi, nhộn nhịp, phát triển theo chiều hướng đi lên. Những năm qua, họ đã đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng kinh tế của thành phố và góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động của thành phố.
Tuy sống ở khu vực gần như riêng biệt, nhưng từ lâu, người Việt và người Hoa vẫn khăng khít trong việc làm ăn mua bán; lại giống nhau trên nét lớn về tín ngưỡng dân gian, đa thần, thờ Phật, thờ Quan Công, ăn Tết âm lịch, mùng 5 tháng 5 (Đoan Ngọ), ăn rằm tháng 7, vui tiết trung thu….Nhưng ở đồng bào người Hoa có một số mặt tích cực, cần được nghiên cứu và đề cao:
- Hiếu khách, nhớ ơn bạn bè, đã mang ơn thì nhớ ơn rất bền lâu.
- Lấy chữ Tín làm đầu, đã hứa là giữ lời hứa mặc dầu bị thiệt thòi. Trả nợ đúng thời hạn, chấp nhận bị lỗ vốn khi hàng hóa sụt giá thình lình. Không thích dùng giấy tờ, giao kèo, hoặc kiện tụng đến cửa quan. Giải quyết êm thấm nội bộ là tốt nhất.
- Không tự ái vụn vặt vì lời ăn tiếng nói lúc xã giao, giúp đỡ tận tình với bạn bè.
- Gắn bó với người Việt trong giai đoạn chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thời Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, người Hoa ở Hội kín đã trợ giúp nghĩa quân, mặc dầu việc lớn không thành, nhưng những đóng góp của họ là không thể phủ nhận. Công nhân, lớp người nghèo thành thị người Hoa đã hưởng ứng những cuộc tranh đấu giai đoạn khi vừa có Đảng, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Nhiều người Hoa đã can đảm hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng của cách mạng, thậm chí thân sa vào vòng tù đày nơi khám Chí Hòa, nơi nhà tù Côn Đảo, nhưng họ vẫn quyết một lòng trung trinh với Đảng với đất nước. Lòng từ thiện của người Hoa còn biểu hiện rõ rệt trong các phong trào xóa đói giảm nghèo, quyên góp cứu trợ đồng bào khi thiên tai, lũ lụt.
1.3. Tình hình chung về văn học trong cộng đồng người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh
Người Hoa đến Việt Nam cư trú lâu dài, đã mang theo những hoài cảm lẫn văn hóa vùng đất tổ. Con cháu họ tiếp tục được thừa kế văn hóa của tổ tiên mang từ cố quốc sang, lại tiếp thu vốn văn hóa tinh hoa của vùng đất mới cho nên đã nảy sinh không ít nhân tài. Vì thế, hai giai đoạn phát triển rực rỡ của văn học Hoa văn thành phố Hồ Chí Minh đều được lưu tiếng đến đời sau.
Trong giai đoạn đầu, vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, văn học Hoa văn phát triển rực rỡ, vẫn còn lưu lại tiếng thơm cho đến ngày nay với các thi xã như, thi đàn Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên vốn thuộc thành Gia Định, nhóm Gia Định sơn hội, một số thành viên trong Bạch Mai thi xã. Tên tuổi gắn liền với văn học thời kỳ này phải kể đến Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Huỳnh Ngọc Uẩn, Trương Hảo Hợp, Diệp Minh Phụng, Vương Kế Sanh, Vương Văn Anh… tên tuổi của họ đã hợp chung và hoà vào dòng chảy văn học Việt Nam, trở thành yếu tố cấu thành không thể thiếu trong dòng văn học Việt Nam giai đoạn cổ trung đại. Giai đoạn tiếp theo, được xem là thời kỳ suy thoái của văn học người Hoa.
Sau khi Pháp đánh chiếm miền Nam, tiếng Việt ngày càng bị Latinh hóa, Quốc ngữ cũng dần dần định hình, trước phong trào vận động sử dụng chữ Quốc ngữ rầm rộ của nhà cầm quyền, không còn mấy người học Hán văn, thành ra văn học Hoa văn càng ngày bị suy thoái. Nhà thơ Trần Tế Xương đã từng than rằng: phong trào nho học đã suy tàn, mười người học thì có đến chín người thôi. Vì muốn bảo lưu bản sắc văn hóa dân tộc, những gia đình người Hoa giàu có đã đưa con cái họ về lại Trung Quốc để học tập sách thánh hiền, lớp trẻ này do đó mà sự liên hệ về tình cảm và văn hóa đối với “đất mới” miền Nam Việt Nam không còn chặt chẽ như các thế hệ cha ông chúng.
Sau giai đoạn suy thoái, khoảng giữa thế kỷ 20, văn học người Hoa bắt đầu phát triển trở lại, đây là giai đoạn được đánh giá là thời kỳ phát triển thứ hai trong lịch sử phát triển của dòng văn học người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh. Sau chiến tranh Trung - Nhật và cuộc đại chiến thế giới lần hai, càng có nhiều trí thức người Hoa từ Trung Quốc di cư đến Việt Nam, không chỉ thông hiểu văn học truyền thống, họ còn rất hiểu biết về Tây học và tư tưởng tiến bộ. Họ mở trường học, mở toà soạn tòa báo nhằm thúc đẩy việc phát triển văn hóa Hoa văn. Về phương diện văn học, những việc làm đó đã cổ vũ mạnh mẽ cho sự phát triển văn học bạch thoại, đặc biệt là thơ và tản văn mới. Từ cuối thập niên 40 đến đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, trong số những di dân người Hoa này đã xuất hiện không ít những nhân tài và những con người lòng tràn đầy nhiệt huyết đối với văn học, như Đặng Hồng Nho, Hoắc Văn, La Phong, Diệp Truyền Hoa, Trần Hữu Cầm, Triệu Đại Độn...Có thể nói đây là những người đi đầu trong việc tạo ra đỉnh cao thơ hiện đại và thơ cổ ở cả hai thập niên 60 và 70.Giai đoạn này có khá nhiều tác phẩm được xuất bản, như Thập nhị thi tập, Tượng Nham cốc thi diệp, Thuỷ thủ, Kiếp Dư ngâm thảo, Thính Vũ lâu thi thảo, Long Trai thi tập, Diệp Truyền Hoa thi tập, Hiến cấp ngã đích ái nhân, Thuỷ chi mê, Bút luỹ, Phong xa, Trung học sinh, Mê phong…. Về thành tựu đa dạng phong phú của văn học ở giai đoạn này, trước mắt vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào xoáy vào nội dung nêu trên, lại thêm các công trình trên phần nhiều thất lạc, hiện chúng tôi chỉ tìm lại được khoảng 50% số tài liệu nêu trên.
Giai đoạn thứ tư, giai đoạn tiềm tàng của văn học Hoa văn. Sau giải phóng miền Nam năm 1975 đến trước ngày đất nước bắt đầu mở cửa, văn học Hoa văn ở trạng thái lắng xuống bởi giáo dục Hoa văn bị đình trệ suốt hơn 10 năm, hình thành một thời văn hóa trống rỗng của người Hoa. Nhìn chung cũng vì kinh tế khó khăn nên những người chấp bút đành phải gác bút để tìm kế sinh nhai, không ai còn tâm trí dành cho việc sáng tác. Một bộ phận giới trí thức và nhân sĩ trung lưu ngày trước cũng lần lượt tìm đường ra nước ngoài định cư. Những nhân tố kể trên cùng với nhiều lý do khác khiến cho văn học Hoa văn không còn được như trước nữa.
Giai đoạn sau khi nước ta cải cách mở cửa đến nay, trước mắt ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ còn có một tờ báo Hoa văn là báo Sài Gòn Giải Phóng, từ năm 1987 báo này đã thành lập “Câu lạc bộ Văn hữu” (Câu lạc bộ bạn văn), câu lạc bộ này đã tiếp nhận tất cả các bạn văn ở tờ phụ san Văn nghệ vốn định kỳ hàng tuần phát hành, tạo không khí cho các văn sĩ chấp bút và sáng tác. Từ năm 1990, hoạt động văn học Hoa văn phát triển mạnh trở lại. Ở giai đoạn này, ngoài những cây bút đã nổi danh trước giải phóng sau một thời gian dài gác bút nay “tái xuất giang hồ”, như Ngân Phát 銀髮, Ông Nghĩa Tài 翁義才,Lý Chí Thành李志成,Trần Quốc Chính陳國正,Thu Mộng秋夢,Thạch Linh石羚…; còn xuất hiện không ít những cây bút mới nổi, như Dư Vấn Canh 余問耕,Tuyết Bình 雪萍,Phương Phương 方方,Khâu Lăng 丘淩,Ngọc Hoa 玉華,Trường Phong長風…; sự tích cực tham gia của thế hệ các văn, nhà thơ thuộc thế hệ trước, đã cổ vũ tinh thần các bạn văn, khiến họ không ngừng tích cực tham gia vào văn đàn đương đại.
Mặt khác, ngày nay với những đổi mới về kinh tế chính trị, không ít người Hoa ra nước ngoài định cư thường quay lại Việt Nam để thăm hỏi bạn bè, gia quyến, hoạt động giao lưu văn hóa của đồng bào người Hoa thành phố với các nước lân cận vì thế không ngừng mở rộng thêm. Vì thế trình độ văn hóa của người Hoa ngày càng cao, việc này hiển nhiên kích thích một bộ phận văn sĩ người Hoa tái cầm bút sáng tác. Những năm lại đây, ngoài Câu lạc bộ Văn hữu của báo Sài Gòn Giải Phóng, Hội Văn học Hoa văn cũng được Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thành phố Hồ Chí Minh ráo riết chuẩn bị cho việc thành lập. Hai tổ chức này kết hợp với Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc và một số nhà xuất bản khác không ngừng ấn hành một số sách vở Hoa văn, trong đó quan trọng có thể kể đến Mê giang nhã ngâm湄江雅吟,Việt Nam hiện đại thi sao 越南現代詩鈔,Hướng dương tập 向陽集,Minh Đạo thi từ tập明道詩詞集,…và gần đây còn có Đặc san Văn học nghệ thuật Hoa Việt 華越文學藝術特刊 (đến nay đã ra được 7 số) của các tác giả Chợ Lớn và các tác giả dùng chữ Hán sáng tác trên khắp toàn cầu. Ngoài ra, các nhà văn người Hoa còn có cơ hội tham dự Hội nghị văn học Hoa văn thế giới tổ chức ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Chương II
CÁC TÁC GIẢ TÁC PHẨM VĂN HỌC HOA VĂN
2.1. Các tác giả tác phẩm văn học Hoa văn trước khi Pháp đánh chiếm miền Nam
Văn học Hoa văn trong thời gian này phát triển hết sức rực rỡ, tiêu biểu nhất có Gia Định Sơn hội 嘉定山薈. Gia Định Sơn hội hoạt động vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, thành phần gồm có các nhà thơ: Chỉ sơn Trịnh Hoài Đức 止山鄭懷德, Nhữ sơn Ngô Nhân Tĩnh 汝山吳人靜, Kì sơn Diệp Minh Phụng 祁山葉明鳳, Phục sơn Vương Kế Sanh 伏山王繼生, Hội sơn Huỳnh Ngọc Uẩn 薈山黃玉蕴. Bạch Mai thi xã thì do sư trụ trì chùa Cây Mai là Hoằng Ân Sang殷弘創 lập ra, có rất nhiều người Việt Nam và người Minh Hương tham gia sáng tác Nôm văn và Hán văn. Theo cuốn “Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh” cuốn 1, Cao Tự Thanh đã phân tích: sự xuất hiện của Sơn hội đã đóng góp một phần quan trọng trong tiến trình văn hóa từ đó về sau của Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Ngày nay, các tác phẩm của các thi nhân trong Sơn hội và một số thi nhân giai đoạn sau còn tồn tại như: Gia Định tam gia thi嘉定三家诗thu thập thơ ca của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh; Gia Định thành thông chí 嘉定城通誌 , Cấn Trai thi tập艮斋詩集 , Gia Định tam thập cảnh 嘉定三十景của Trịnh Hoài Đức; Nhất thống địa dư chí 一統地輿誌 , Hoa Nguyên thi thảo 华原诗草 của Lê Quang Định; Thập Anh thi tập 拾英詩集, Thập Anh văn tập拾英文集 của Ngô Nhân Tĩnh, Trương Mộng Mai thi tập张梦梅诗集 hay Mộng Mai đình thi thảo 夢梅梅亭詩草của Trương Hảo Hợp,… nghiễm nhiên được coi là di sản Việt Nam.
2.1.1. Gia Định tam gia thi 嘉定三家詩do Trịnh Hoài Đức khắc in, sách đã mất nhưng hiện còn lời tựa cho tập này của Trịnh Hoài Đức. Sách gồm ba tập thơ của ba tác giả in độc lập vào những thời điểm khác nhau, theo thứ tự:
2.1.1.1. Cấn Trai thi tập toàn biên mục lục 艮齋詩集全編 Ngoài lời tựa Nguyễn Định Cát, Ngô Thời Vị và Cao Huy Diệu ở đầu, bài tự tự ở phần cuối, thứ tự tập thơ được xếp theo thứ tự:
Thoái thực truy biên thi, gồm 127 bài thơ.
Quan Quang tập thi , gồm 152 bài thơ
Khả dĩ tập thi, gồm 48 bài thơ.
2.1.1.2. Hoa Nguyên thi thảo 華原詩草 : Ngoài 77 bài thơ còn có bài tựa của Lê Bá, tức Thanh Hoa Lê Lương Thận, giữ chức Hàn lâm viện chế cáo viết vào tháng 8 năm Gia Long thứ sáu (1807).
2.1.1.3. Thập Anh đường thi tập拾英堂詩集 : Ngoài 187 bài thơ còn có ba bài tựa của Trần Tuấn Viễn, Nguyễn Địch Cát và Bùi Dương Lịch được khắc in ở phần đầu.
2.1.2. Cấn Trai thi tập艮斋诗集: Trịnh Hoài Đức hiệu Cấn Trai biên soạn và viết lời tựa khi khắc in năm Gia Long 18 (1819). Phần đầu có lời tựa của Nguyễn Địch Cát, bài bạt của Ngô Thì Vị và Cao Huy Diệu. Sách hiện do thư viện thựôc Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội điển tàng, gồm 2 bản in (A.780, A.1392), 1 bản viết (A.3139). Sách gồm ba tập, sắp theo thứ tự như sau:
Thoái thực truy biên , 127 bài thơ soạn năm Nhâm dần (1782).
Quan quang tập, 152 bài thơ do tác giả làm trong dịp đi sứ Trung Quốc (1802).
Khả dĩ tập, 48 bài thơ mang nội dung tặng đáp, thù tạc….
Sách này hiện thư viện Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh cũng lưu giữ 1 bản, nhưng đã rách nát.
2.1.3. Thập Anh đường thi tập拾英堂詩集 , 187 bài thơ của Ngô Nhân Tĩnh khi làm quan và khi đi sứ Trung Quốc. Sách do thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội điển tàng, bản in, ký hiệu A.779. Phần sau sách này có phụ thêm Hoa Nguyên thi thảo 华原诗草của Lê Quang Định.
2.1.4. Thập Anh văn tập拾英文集 , văn tập gồm 187 bài kinh nghĩa của Ngô Nhân Tĩnh. Sách do thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội điển tàng, bản viết tay, ký hiệu A.1679.
2.1.5. Mộng Mai đình thi thảo梦梅亭诗草, gồm 170 bài thơ do Trương Hảo Hợp hiệu Lượng Trai sáng tác khi đi sứ Trung Quốc. Sách do thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội điển tàng, bản viết tay, ký hiệu A. 1529.
2.2. Các tác giả tác phẩm văn học Hoa văn từ những năm 40 đến những năm đầu thập niên 70
Chợ Lớn đương thời có khoảng 16 tờ báo Hoa văn lớn nhỏ, mỗi tờ phụ san báo giấy đều lập ra trang “văn nghệ” là nơi để các tác giả Hoa văn thi triển tài năng. Các thi xã, văn xã cũng dần dần thành lập, có vài thi xã chỉ có một hai người, có nhà thơ cùng lúc tham gia nhiều thi xã. Ví dụ như, Tồn tại thi xã 存在詩社trong những năm 70 có các thành viên: Ngân Phát 銀髮 , Trọng Thu 仲秋 , Ngã Môn 我門 (Huỳnh Kỷ Nguyên 黃紀原), Dược Hà 藥河 (Trần Bổn Minh 陳本銘), Cổ Huyền 古弦 và Tạ Nguyệt 射月; Hải Vận văn xã 海韻文社 có Từ Trác Anh徐卓英 , Hà Dã 菏野, Thôn Phu 村夫, Lê Khải Khanh 黎啟鏗, Mộng Linh 夢玲; Đào Thanh văn xã 濤聲文社 có Duẫn Linh 尹玲, Tư Băng 斯冰, Hiển Huy 顯輝, Dư Huyền 餘弦, Hữu Ái Linh 友愛玲, Xuân Mộng 春夢, Trần Quốc Chính 陳國正; Tư Tập văn xã 思集文社 có Thu Mộng 秋夢, Hoài Ngọc Tử 懷玉子, Thi Hán Uy 施漢威, Dật Tử 逸子; Bôn Lưu thi xã 奔流詩社 có Dũ Dân 牖民, Lý Hy Kiện 李希健, Phiêu Bạc 飄泊, Hồng Phụ Quốc 洪輔國; Phiêu Phiêu thi xã 飄飄詩社 có Lý Chí Thành 李志成, Trần Hằng Hạnh 陳恒行, Tây Mục 西牧, Thi Minh Đông 施明東; Thư Sinh văn xã 書生文社 có Lô Siêu Hồng 盧超虹, Ngải Hồng 艾虹, Hiểu Tinh 曉星; Văn Nghệ xã 文藝社 có Tạ Chấn Dục 謝振煜… Ngoài ra có bộ phận tác giả không tham gia một thi xã hay văn xã nào, như: Đỗ Phong Nhân 杜風人, Kỳ Dị 奇異, Ngạc Lục 萼綠, Kiếm Minh 劍鳴, Thái Dương 太陽, Ngô Kiện Phù 吳健孚, Trần Tuyết Anh 陳雪英, Dục Nhật 浴日, Khí Như Hồng 氣如虹, Trần Mộng Thơ 陳夢詩, Trần Xuyên Chiết 陳川浙, Huỳnh Quảng Cơ 黃廣基 . Đầu thập niên 70, các thi xã văn xã khác bỗng xuất hiện nhiều, như: Phong Địch thi xã風笛詩社, Dã Thanh 野聲, Đài Phong 颱風, Hướng Nhật Quỳ 向日葵, Trường Hà 長河, Nam Phong 南風, Sinh Mệnh生命, Trung Nghệ 中藝, Nghệ Hải藝海. Trong thời gian này họ cũng xuất bản rất nhiều sách và thơ, kể đến như: Thập nhị nhân thi tập 十二人詩輯,Tượng Nham cốc thi diệp 象岩谷詩葉,Thủy thủ 水手, Diệp Hoa thi tập 葉花詩集,Gửi tặng người tình của tôi 獻給我的愛人,Thủy chi mê水之湄,Lũy bút 筆壘,Xe gió 風車,Học sinh Trung học 中學生,Mê Phong湄風,Long Trai thi tập 龍齋詩集 …
2.2.1. Long Trai thi tập 龍齋詩集 , Đường về cố quốc xa vời vợi 故國路遙 - Lý Văn Hùng
Tác giả Lý Văn Hùng李文雄sinh thời luôn tận tâm vào việc nghiên cứu tinh thông văn hóa Trung Việt, về thanh vận, văn tự, văn chương tam học, từ những năm 40 trở đi đã xuất bản nhiều cuốn từ điển, tự điển, sách giáo khoa, truyện, thơ ,… Ông từng đi chu du khắp nước Việt Nam, qua nhiều danh lam thắng cảnh, đến đâu cũng có đề vịnh, tổng hợp thành túi sách một cách ung dung tự tại. Tập thơ Long trai thi tập ra đời năm 1960, tập hợp những bài thơ, đề vịnh đã ghi dấu bước chân ông trên khắp đất nước và những bài bạn bè ông sáng tác. Đường về cố quốc xa vời vợi là cuốn tiểu thuyết được Lý Văn Hùng viết và in năm 1951. Ngoài ra ông còn xuất bản hàng loạt sách công cụ và sách khảo cứu khác. Hình 1: Long Trai thi tập (bản photo)
2.2.2. Diệp Hoa thi tập葉花詩集 – Diệp Truyền Hoa
Tác giả Diệp Truyền Hoa葉傳華sinh ngày 14/9/1918 ở Hội An (Quảng Nam). Năm 1993 về Trung Quốc học ở trường Bồi Chính Quảng Châu đến năm 1937 thì trở lại Hội An. Năm 1938, trong thời kỳ kháng Nhật, ông đã thành lập Đoàn Thanh niên Hoa kiều ở Hội An, tiến hành công việc cứu nước. Sau kháng chiến thắng lợi ông trở lại Hội An và kết hôn ở đó. Ông từng học Trường Đại học Thanh Hoa, thi vào khoa Triết học Trường Đại học Liên hợp Tây Nam, từng giảng dạy ở trường công học Trung Hoa… Về Việt Nam ông từng nhận công tác giảng dạy ở khoa Ngoại ngữ trường Đại học Sư phạm và khoa Triết học trường Đại học Văn khoa ở Sài Gòn, sau đó cũng nhận dạy ở Đại học Văn Khoa Thuận Hóa…. Ngày 05/11/1970 ông bệnh và qua đời ở bệnh viện Nguyễn Văn Học (Sài Gòn).
Tác phẩm Diệp Hoa thi tập được xuất bản bởi Cục in ấn Đạt Hưng, số 64 đường Tản Đà, Chợ Lớn, năm 1971; đã tập hợp tất cả các sáng tác của Diệp Truyền Hoa trong suốt 26 năm, từ khi cầm bút đến khi qua đời. Tập được sắp xếp thành các chương:
Tiểu thi (những bài thơ ngắn bày tỏ tâm tư cảm xúc của bản thân tác giả, ngay cả nhan đề tác phẩm của mình Diệp Truyền Hoa cũng chỉ dành một chữ để đặt); Tân thi ( những bài thơ viết theo lối mới, dài hơn, tự do hơn, các bài tản văn; những sáng tác này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của văn đàn thơ đương đại và sau này); Thơ hiện đại ( gồm những bài thơ, tản văn lối văn trang nhã phóng khoáng, kế thừa và phát triển thêm từ những vần thơ Tân thi). Trọn Diệp Hoa thi tập có tất cả là 108 bài thơ và tản văn.
2.2.3. Gửi tặng người vợ của tôi 獻給我的愛人 – Tạ Chấn Dục
Tạ Chấn Dục謝振煜 sinh năm 1936 tại Nha Trang, bắt đầu làm thơ từ năm 1943, số lượng bài thơ ông sáng tác cũng tương đối khá, hầu như năm nào ông cũng có ít nhất 1 bài, nhiều thì 23 bài, trong 13 năm ông đã sáng tác 160 bài thơ. Phần lớn các bài thơ ông viết được đăng trên báo, tạp chí. Sau khi biên soạn, chỉnh lý lại còn được 76 bài, thế nhưng đây vẫn chưa thỏa nguyện tác giả. Ngoài thơ ông còn viết tản văn, truyện ngắn, tạp văn và phê bình văn học. Ông tiếp tục lao động nghệ thuật cho ra thêm nhiều tác phẩm nữa. Ông cũng từng viết các tác phẩm như Hai cô con gái 兩個女兒 (1963), Triều Dương mới 新生的朝陽,Khúc đợi chờ 期待曲,Con khóc rồi 孩子、你哭了,…
Tập thơ Gửi tặng người tình của tôi gồm 77 bài thơ Tạ Chấn Dục viết tặng cho người vợ của mình, thay lời cảm tạ, lời yêu thương gửi tới người đã vì ông theo ông bên cuộc đời. Tập thơ được hoàn thành vào ngày 25 tháng 11 năm 1960 và được xuất bản năm 1961.
Sự nghiệp sáng tác của Tạ Chấn Dục khá phong phú, ngoài tác phẩm nêu trên, ông còn Hiếu biện tập (tập phê bình thơ, 1963), Tản- Cổ quái-Hiện đại thi (1975), Song sinh nhật (2008); ông còn là dịch giả của rất nhiều tác phẩm dịch thuật từ tiếng Việt sang tiếng Trung và tiếng Trung sang tiếng Việt.
Hình 2: Gửi tặng người tình của tôi
2.2.4. Kiếp dư thi thảo劫馀诗草 , 197 bài thơ cổ thể, cận thể của Giáo sư Trần Hữu Cầm, tên hiệu Kiếp Dư sinh. Phần đầu sách có lời tựa của Phùng Trác Huân người đất Nam Hải, phần sau có lời tự bạt của tác giả vào năm 1973. Sách do báo Tân Luận Đàn in tháng 1 năm 1974.
2.2.5. Thính Vũ lầu thi thảo听雨楼诗草 , 146 bài thơ cổ thể, cận thể của Triệu Đại Độn sáng tác. Phần đầu có lời tựa của Hà Kiếm Bình, Lý Du, Trương Tác Mai, Lý Ích Bá. Sách in tháng 10 năm 1969.
2.2.6. Lan Hiên ngâm thảo 蘭軒吟草 tác giả La Sở Nam 羅楚楠được xuất bản năm 1972 gồm 435 bài thơ, phú, ngâm vịnh. Phần đầu có lời đề từ của Trần Sĩ Minh, Dương Tôn Hiền.
2.2.7. Trương Nhân Thơ nam du tập張紉詩南遊集,
Tác giả Trương Nhân Thơ là một nữ sĩ tài hoa không những có tài ứng đối thơ văn rất tài tình mà còn là một nghệ sĩ vẽ hoa mẫu đơn rất sắc sảo, nữ giới đương thời ở Chợ Lớn không ai sánh bằng. Đây là tập viết tay của tác giả, đầu tập có lời đề của Thuận Đức Chu Ích Bá.
Hình 3: Trương Nhân Thơ nam du tập
2.2.8. Sài Gòn Mậu Thân 1968 西貢1968年戊申之戰
Tác giả Nguyễn Văn Tào阮文曹sinh năm 1928 ở làng Long Phước, huyện Châu Thành, Đồng Nai, là người huyện Hải Phong 海豐tỉnh Quảng Đông 廣東, Trung Quốc. Tháng tám năm 1945 tốt nghiệp trung học Pháp văn, ông đã cùng nhân dân thông Long Phước cầm gậy gộc, tầm vông hòa vào dòng chảy của nhân dân Ba Tri đứng lên cướp chính quyền ở tỉnh Ba Tri
Hình 4:
Sài Gòn Mậu Thân 1968
2.3. Văn học Hoa văn từ cuối thập niên 70 đến nay
2.3.1. Việt Nam hiện đại thi sao越南現代詩鈔
Lục Tiến Nghĩa chủ biên, Nxb Văn hóa Dân tộc Hà Nội, tháng 12/1993, in tại báo Sài Gòn Giải Phóng bản Hoa văn.
Cuốn này đã tập hợp 72 sáng tác của 36 tác giả với 72 tác phẩm, là những cảm xúc chân thật về cuộc sống, về quê hương, bạn bè…. Cũng ở trong tập Việt Nam hiện đại thi sao này, đã tập hợp được các tác phẩm của không ít tác giả kì cựu của giai đoạn văn học Hoa văn những năm 50 đến đầu nhưng năm 70 như Ngải Hồng, Thi Hán Uy, Ngân Phát, Lý Chí Thành,… Chúng tôi đã liệt kê tên tác giả và tác phẩm theo bảng bên dưới:
STT
TÁC GIẢ
SL
TÊN TÁC PHẨM
1
Phàm Bút
凡筆
3
Sơn Thành hành 山成行
Dạ xuất 夜出
Ký ngôn 寄言
2
Đại Thang
大湯
1
Ký ngôn
寄言
3
Văn Cẩm Ninh
文錦寧
2
Thủ 手
Giao tiếp điểm 交接點
4
Phương Hồ
方乎
1
Tháng tám 八月
5
Ngải Hồng
艾虹
1
Không đề 不題
6
Thạch Linh
石羚
2
Đổi mới 革新
Sơ du 初游
7
Đông Mộng
冬夢
3
Mẹ hiền 母親
Nhớ 思念
Đắp cát vùi thơ có được chăng? 堆個沙丘藏詩好不好
8
Vĩnh Hoa
永華
1
Ngọn đèn 燭
9
Giang Đinh
江汀
2
Ngọc trong nước 水珠
Lời cầu của người dọn đường 清道夫的祈禱
10
Hướng Nam
向南
1
Nhớ xưa 懷舊
11
Ngũ Thế Lương
伍世良
3
Người con gái bán rau 賣菜票的女孩
Bướm bay về muộn 遲歸的蛺蝶
Hoa phượng hoàng 鳳凰花
12
Lý Chí Thành
李志成
2
Năm tháng 歲月
Nói chuyện xưa 話舊
13
Lý Tư Đạt
李思達
2
Nguồn suối 泉源
Thời gian dài trên tóc時間長在髮上
14
Dư vấn Canh
余文耕
4
Một ngày 一天
Sống 生活
Thư thiêm 書籤
Dạy học 教學
15
Lâm Tùng Phong
林松風
1
Biển 海
16
Chu Vĩnh Tân
周永新
1
Trở lại Vũng Tàu 頭頓歸來
17
Cố nhân
故人
4
Dòng chảy của biển 海之流
Hiện cảng 蜆港
Thuận Hóa 順化
Đêm ở đô thị 都市之夜
18
Thu Mộng 秋夢
3
Trà Hoa cúc 菊花茶
Huyền ảo幻
Suy nghĩ mông lung繆思
19
Thi Hán Uy 施漢威
4
Ngọc lưu ly tháng tám八月琉璃的
Đá ngầm 礁石
Đường nhỏ 小路
Tai nạn xe cộ 車禍
20
Trần Ngọ 陳午
1
Thi nhị đề 詩二題
21
Trần Quốc Chính 陳國正
2
Thời khắc tam thiếp 時刻三帖
Hình cha 父影
22
Từ Miên Chương 徐棉彰
1
Gửi Thường Nga 寄嫦娥
23
Thâm Sơn 深山
1
Khỏa giả 躶者
24
Vĩ Minh 偉明
1
Trở lại Đà Lạt 大勒歸來
25
Tuyết Bình 雪萍
3
Tóc bạc 白髮
Hội họa 繪畫
Mùa thơ 詩的季節
26
Trang Uy 莊威
1
Khách qua đường 過客
27
Hương Thổ 鄉土
3
Báu vật của anh hùng 英雄土地上的綠寶
Gửi người thủy thủ 給水手
Cây 樹
28
Triệu Minh 趙明
1
Ba bài Xúc cảm 感觸三首
29
Ngân Phát 銀髮
5
Người thợ sửa xe 修車匠
Trung Quốc, con diều trong mộng中國是夢裡的風箏
Điệp ngôn 蝶言
Phơi vải 瀑布
Biết rồi, biết rồi 知了、知了
30
Lưu Vi An
刘爲安
2
Cậu bé hát rong 賣唱的孩子
Ông lão bán bánh bao 賣麵包的老人
31
Lưu Vọng Minh
劉望明
1
Một nỗi sầu quê khác 另一種鄉愁
32
Học Minh
學明
2
Em là… 你是
Đuốc lửa 火燭
33
Âu Thành Hà
歐成河
1
Lại chơi nơi đất cũ 舊地重遊
34
Lô Hàn Tinh
盧寒星
3
Nguyện 願
Chúng ta sẽ vượt qua咱們將越過
Hãy vỗ vã sống với xuân này 攫住這一季春
35
Tạ Chấn Dục
謝振煜
1
Hoa hồng 玫瑰花
36
Lam Tư
藍斯
2
Bức họa câu cá bên sông
臨江垂釣圖
Vũ Lâm 雨林
2.3.2. Lời thì thầm (Ni nam tập) 呢喃集 – Nhược Thanh 若菁
Tác phẩm được Hội văn học nghệ thuật các dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 2003. Tấm lòng Nhược Thanh luôn mở rộng với con em lao động nghèo chân đất, nên trong tác phẩm, Nhược Thanh đã thể hiện mình một cách chân thật, mộc mạc; đó là sự dấn thân vào cuộc sống hết sức sinh động. Cụ thể, điều đó đã thể hiện trong từng câu chuyện, từng tác phẩm trong tập “Lời thì thầm” của cô khoáng đạt tự nhiên, lịch sự; đã mang đến cho người đọc chiều sâu cảm xúc, làm rung động lòng người. Tập Lời thì thầm gồm 3 tập nhỏ:
TẬP 1 ƯỚC MƠ ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT 夢圜的時候
- Nguyện em một đời hạnh phúc 願妳能瀟灑走一回
- Nguyện tình như trăng 中秋 - 願愛像月亮
- Trang trại Tuấn Vũ 沈洪至與俊宇莊園
- Những năm tháng bên nhau 一起走過的日子
- Câu chuyện Giáng Sinh 聖誕節菂故事
- Trải qua 5 năm đau khổ 五年風雨知多少
- Tự lập trên đường đời 孩子們、放開老師的手、自己走吧!
- Trở về 我又回到我的尋夢園
- Minh họa sinh hoạt của lớp tình thương 情義班活動圖片
TẬP 2 NĂM DÀI THÁNG RỘNG 悠悠歲月
- Bài ca cho anh 獻給你的歌
- Nhớ ân sư 每逢佳節懷恩師
- Bạn vong niên 忘年之交
- Đêm nay anh ở đâu? 譜一曲永恆一一爲你
- Trời dài đất buồn 脈脈地情
- Tôi vẫn tiếp tục đi 浪躋天疰
- Trên đường đời 人生路上
- Tâm sự 我心深處
- Xin đừng nói chia tay 不要告別
- Tình yêu chân thật 谁是至愛
- Gia đình là tổ ấm 家、心的港灣
- Cảm ơn cô giáo 老師啊! 我們永遠感激你
- Người cha đi xa 爸、你走得好遠啊…
- Vui cùng đêm nay 情濃今夕
- Những ngày thương nhớ “最相思” 的日子
TẬP 3 GIỜ ĐỐT PHÁO BÔNG 煙花綻放時
- Trường chinh 長征
- Hoa phượng nở rộ 鳳凰花花開時
- Hy sinh 倒在血泊中的愛
- Dòng sông ấm 流過心底的暖
- Đàm mãi khúc mộng tình 她一直彈者那個夢
- Giờ pháo bông được đốt lên 當煙花綻放時
- Buổi hoàng hôn ở Phú Mỹ Hưng 富美興的黄昏
- Vẻ đẹp 生命的光輝
- Tôi tìm được một mùa xuân 我拾起了一個春
- Xuân về 春回大地情滿人間
2.3.3. Mê Phong nhã ngâm 湄風雅吟
Theo nguyện vọng của các tác giả, cũng nhân dịp Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập, đã xuất bản tập thơ này động viên, phát huy thêm về mặt sáng tác thơ từ đối với tác giả người Hoa. Tập thơ là những sáng tác của người Việt gốc hoa, viết theo lối Đường luật, Tống điệu mà nội dung chính là phản ảnh tâm tư của chính mình; trong đó có phần ngâm vịnh về thời sự, tình cảm đối với đất nước và con người Việt Nam, cộng thêm phần ca ngợi tình cảm dân tộc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khảo sát điền dã văn học người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh.doc