Đề tài Khảo sát sắc phong tại huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Mục đích ý nghĩa của đề tài 1

2. Lịch sử vấn đề 3

3. Đối tượng nghiên cứu 3

4. Phương pháp nghiên cứu 4

5. Kết cấu khoá luận 4

NỘI DUNG 5

Chương 1: Khái quát về vùng đất Hưng Nguyên và nền giáo dục cổ 5

1.1. Vị trí địa lý và tự nhiên 5

1.2. Danh xưng Hưng Nguyên 6

1.3. Văn hoá tín ngưỡng và nền giáo dục cổ 9

1.3.1. Văn hoá tín ngưỡng 9

1.3.2. Nền giáo dục cổ 12

Chương 2: Khái quát sắc phong Tại huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An 15

2.1. Khái quát sắc phong tại huyện Hưng Nguyên 15

2.1.1. Khái quát chung về sắc phong 15

2.1.2. Hiện trạng sắc phong tại huyện Hưng Nguyên 16

2.2. Nội dung sắc phong tại huyện Hưng Nguyên 19

2.2.1. Sắc phong nhân vật 19

2.2.2. Sắc phong thần 22

2.3. Hình thức sắc phong 22

2.3.1. Hoa văn trang trí 22

2.3.2. Chữ viết 26

2.3.3. Kích cỡ của các đạo sắc 28

2.3.4. Bố cục 31

Chương 3: Phiên âm, dịch nghĩa các văn bản sắc phong tại huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An 32

3.1. Sắc phong tại nhà thờ Đinh Bạt Tuỵ 32

3.2. Sắc phong tại đình làng Bùi Ngoã 44

3.3. Sắc phong tại nhà thờ họ Lê Sĩ 55

3.4. Sắc phong tại nhà thờ Nguyễn Trọng chi Nguyễn Thái Bạt 63

3.5. Sắc phong tại nhà thờ Trạng nguyên Bạch Liêu 67

3.6. Sắc phong tại nhà thờ họ Ngô 73

3.7. Sắc phong tại đền thờ Thánh Vương Bạch Đế 80

3.8. Sắc phong tại đền thờ đức thánh Khổng Lồ 82

3.9.Sắc phong tại nhà thờ họ Hoàng 85

3.10. Sắc phong tại đền Xuân Hoà 92

KẾT LUẬN 99

Phần phụ lục

Tài liệu tham khảo 102

 

 

doc113 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2914 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát sắc phong tại huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Nguyên có cả sắc thời Lê và sắc thời Nguyễn, mỗi thời có mỗi cách viết khác nhau và bố cục khác nhau nên bố cục của văn bản cũng có phần khác nhau. Sau quá trình khảo sát, người nghiên cứu nhận thấy bỗ cục của sắc phong thờ Lê và sắc phong thời Nguyễn có khác nhau chút ít. Cụ thể là: - Sắc phong thời Lê được chia làm bốn phần: Phần thứ nhất: mở đầu bằng chữ ‘sắc”, nêu lên tên tự và mỹ tự, tước hiệu mà thời trước đã phong tặng. Phần thứ hai: ca ngợi công lao và chỉ thị cho đối tượng cấp sắc. Phần tứ ba: nêu nguyên nhân cấp sắc và gia phong mỹ tự, tước hiệu, kết thúc bằng chữ “cố sắc”. Phần thứ tư: niên hiệu, ngày tháng và đóng dấu “Sắc mệnh chi bảo”. - Sắc phong thời Nguyễn cũng được chia làm bốn phần, nhưng có một số điểm khác nhau: Phần thứ nhất: mở đầu bằng chữ “sắc” hoặc “sắc chỉ”, nêu quê quán phụng sự, mỹ tự, tên tuổi của người được cấp sắc. Phần thứ hai: ca ngợi công đức và nêu lý do cấp sắc. Phần thứ ba: gia phong tước hiệu và chỉ thị cho đối tượng, kết thúc bằng từ “Khâm tai” Phần thứ tư: niên hiệu, ngày tháng và đóng dấu “Sắc mệnh chi bảo” Chương 3: PHIÊN ÂM, DỊCH NGHĨA CÁC VĂN BẢN SẮC PHONG TẠI HUYỆN HƯNG NGUYÊN TỈNH NGHỆ AN Sắc phong nhà thờ Đinh Bạt Tụy. 3.1.1 Đinh Bạt Tụy và nhà thờ họ Đinh. Ngày 17 tháng 4 năm 1589, khi đang trên đường hành quân đi đánh giặc thống nhất đất nước thì Lê Triều Trung Hưng Kiệt Tiết Dực Vận Tán Trị Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Binh Bộ Thượng Thư Đinh Tướng Công, húy là Bạt Tụy đã lâm bệnh và tạ thế. Nhà vua đã cho lập đoàn quân hộ tang để đưa ông về nơi mai táng tại quê nhà, đồng thời cho lập đền thờ để ghi nhận công lao. Đinh Bạt Tụy sinh năm 1516, trong một gia đình nhà nho nghèo hiếu học ở làng Bùi Ngõa, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên. Cha mẹ mất sớm nên đành phải bỏ học đi làm thuê kiếm sống. Ngày đồng ruộng đêm đèn sách, ông quyết chí lấy đạo học để làm kế tiến thân. Năm 1542, ông trúng giám thí sau đó được bổ vào trường Quốc Tử Giám lúc 27 tuổi. Tháng 12 năm 1554 niên hiệu Thuận Bình thứ 6, triều đình Nhà Lê mở khoa thi Mậu Tài để chọn ra người tài giỏi, có mưu lược dẹp yên giặc, thu phục giang sơn. Đinh Bạt Tụy đã ứng thi và đỗ đệ nhất giáp, đệ nhất danh. Năm 1559, xét sức học và khả năng đảm trách chức vụ của ông nhà vua đã chuẩn thăng 3 cấp: Vinh Lộc Đại Phu Hàn Lâm Viện Thị Chế, Trung Giai; 3 năm sau (1562) ông được thăng là Đông Các Hiệu Thư. Năm 1564, nhờ lập công lớn trong việc làm mất hiêu lực của hai công thần nhà Mạc là Phạm Quỳnh và Phạm Giao, ông được thăng Lại Khoa Cấp Sự Trung. Năm 1571, ông đem quân về đại phá quân Mạc ở cửa Hội Thống, giữ yên vùng đất Nghệ An, ông được nhà vua thăng Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Đông Các Học Sĩ Tả Trị Thượng Khanh. Trong những năm chiến tranh Lê - Mạc, ông đã cùng Thái phó Lai Quận Công đốc chiến trên nhiều mặt trận, lập công lớn nên năm 1575 được thăng Hộ Bộ Tả Thị Lang. Năm 1576, quân Mạc tái chiếm Nam Đường, ông được lệnh hiệp cùng Thái phó Lai Quận Công đánh giặc, sau 3 năm trường kỳ kháng chiến, lúc đánh lúc phục hai ông đã đánh đuổi giặc ra khỏi địa phương. Với chiến công lừng lẫy đó ông được thăng là Đô Đốc Ngự Sử Nghệ Khê Nam Tả Trị Thượng Khanh Thượng Trật. Trong các năm 1581, 1582 với công lao đánh giặc ở Quảng Xương (Thanh Hóa), Nam Đường (Nghệ An), giữ yên vùng đất Thanh - Nghệ và dụ hàng một số tướng nhà Mạc, Đinh Bạt Tụy được thăng là Binh Bộ Tả Thị Lang. Năm 1585, với công lao tiết chế, thu phục các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (Ninh Bình) Đinh Bạt Tụy được thăng tước Bá. Năm 1587 ông vâng mệnh cùng Lai Quận Công đem quân đánh đuổi quân Mạc, thu hồi thành Thăng Long, trên đường hành quân Lai Quận Công lâm bệnh rồi tạ thế, Đinh Bạt Tụy nhận lênh lên thay và tiếp tục tiến đánh. Thắng trận trở về ông được thăng Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Binh Bộ Thượng Thư Tào xuyên Bá Trụ Quốc, mấy tháng sau xét đức hạnh và học vấn nhà vua tiếp tục phong cho ông hàm Đông Các Học Sĩ Nhập Thị Kinh Diên. Năm 1589 khi ông mất được truy tặng tước Phúc Khê Hầu. Bên cạnh công lao đánh giặc giữ nước, Đinh Bạt Tụy còn cho dân trong vùng đắp 2 con đập Tùy Xang và Giếng Cừ, lấy nước tưới cho đồng ruộng để phát triển sản xuất. 40 năm sau, ngày 6 tháng 5 năm 1629, ông tiếp tục được truy phong tước Khê Quận Công, vị trí cao nhất trong hệ công hầu. Từ đó về sau được các triều đại truy phong Thượng Đẳng Thần. Công lao và sự nghiệp của Đinh Bạt Tụy đã được niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 2 (1774) tổng kết bằng câu đối khắc trên bảng đồng ân tặng cho đền thờ của ông: 茂 才 甲 一 各 及 第 天 佐 中 興 順 平 初 二 百 于 今 地 留 正 氣 (黎 朝 景 興 二 年 恩 賜 銅 板 對 聯) Phiên âm: Mậu Tài giáp nhất các cập đệ thiên tá trung hưng Thuận Bình sơ nhị bách vu kim địa lưu chính khí. (Lê triều Cảnh Hưng nhị niên, ân tứ đồng bản đối liên) Dịch nghĩa: Người đỗ đầu chế khoa Mậu Tài là trời giúp cho sự nghiệp trung hưng. Kể từ buổi đầu niên hiệu Thuận Bình đến nay đã gần 200 năm đất này còn lưu chính khí. (Triều Lê, đời vua Cảnh Hưng năm thứ 2, ban tặng câu đối khắc trên đồng). Năm 1593 niên hiệu Quang Hưng thứ 16, vua lên chính điện coi chầu, đánh dấu sự nghiệp trung hưng hoàn thành, nhân dịp truy thưởng các danh thần nhà vua đã quyết định: “xét thưởng Đinh Bạt Tụy, đứng đầu chế khoa phụng sự 3 đời vua (Trung Tông, Anh Tông, Thế Tông), văn võ kiêm toàn, lập nhiều công tích, chuẩn cấp 10 mẫu tế điền tại thôn Bùi Ngõa”. Cũng chính năm đó đền thờ chính thức được xây dựng trên mảnh đất đã sinh ra ông. Đền có 3 tòa, tọa lạc trên một khu đất cao ráo rộng khoảng 800m2(1), hạ điện gồm 5 gian, khoảng 12m, tòa trong cùng đặt bài vị của ngài Đinh Bạt Tụy cùng với thủy tổ họ Đinh, tòa giữa thờ cúng thế tổ và những người trong họ đã học hành đỗ đạt hoặc có công giúp vua giữ nước. Hơn 400 năm qua, đền vẫn tọa lạc nơi này và đã qua 5 lần tu tạo: - Năm 1645 niên hiệu Phúc Thái thứ 3. - Ngày 25 tháng 5 năm 1796 niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 4. Chú thích: Theo PGS Ninh Viết Giao trong sách Địa chí văn hóa Hưng Nguyên thì đền nằm trên khu đất rộng 600m2 - Năm 1838 niên hiệu Minh Mệnh thứ 19. - Năm 1884 niên hiệu Kiến Phúc nguyên niên. - Năm 1928 niên hiệu Bảo Đại thứ 5 Từ đó đến nay hậu duệ của Đinh Tướng Công và nhân dân trong vùng thường xuyên hương khói và tái tạo. Hằng năm đền có 3 lễ lớn là ngày 11/2, 17/4, 21/9 (âm lịch). Năm 1991, đền đã được bộ VHTT cấp bằng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. 3.1.2. Phiên âm dịch nghĩa các văn bản sắc phong. Hiện tại nhà thờ Đinh Bạt Tụy đang giữ lại 36 đạo sắc phong trong đó có một số sắc do thời gian đã bị hư hỏng và được con cháu trong họ sao chép lại. Trong 36 sắc phong đó không chỉ có sắc phong cho ngài Đinh Bạt Tụy mà còn có cả những đạo sắc phong cho những nhân vật trong gia đình ngài như sắc phong cho ông nội ngài, sắc phong cho bà nội ngài, sắc phong cho thân mẫu, sắc phong cho chính thất và kế thất, sắc phong cho con cái và cháu chắt của ngài. Sau đây tôi chỉ xin trích dịch những đạo sắc phong tiêu biểu của Ngài. 正治二年八月初久日 中階故敕 大夫翰林院侍制 陞三級可陞顯榮 鄭撿等保并覃恩 朝臣太師諒國公 有文學能幹事有 理中階丁拔萃為 敕謹事郎翰林院校 Phiên âm: Sắc: Cẩn Sự Lang Hàn Lâm Viện Hiệu Lý Trung Giai Đinh Bạt Tụy, vị hữu văn học năng cán sự, hữu triều thần Thái Sư Lượng Quốc Công Trịnh Kiểm đẳng bảo, tính đàm ân thăng tam cấp, khả thăng: Hiển Vinh Đại Phu Hàn Lâm Viện Thị Chế Trung Giai. Cố sắc ! Chính Trị nhị niên, bát nguyệt sơ cửu nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Cẩn Sự Lang Hàn Lâm Viện Hiệu Lý Trung Giai Đinh Bạt Tụy, vì có học vấn và gánh vác công việc, được các triều thần Thái Sư Lượng Quốc Công Trịnh Kiểm bảo cử, mở rộng ân huệ tăng thêm ba cấp, tăng thêm là: Hiển Vinh Đại Phu Hàn Lâm Viện Thị Chế Trung Giai. Nay sắc ! Chính Trị năm thứ 2, ngày 9 tháng 8 (1559) 嘉泰三年十二月十四日 敕 溪男佐治上卿中階故 禄大夫禮部右侍郎芸 宣力功臣特進金紫榮 幹事有朝臣簽議可為 丁拔萃為有心術頗能 芸溪男佐治上卿中階 榮禄大夫東閣學士 敕宣力功臣特進金紫 Phiên âm: Sắc: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Đông Các Học Sĩ Vân Khê Nam Tá Trị Thượng Khanh Trung Giai Đinh Bạt Tụy, vị hữu tâm thuật phả năng cán sự, hữu triều thần thiêm nghị, khả vi: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Lễ Bộ Hữu Thị Lang Vân Khê Nam Tá Trị Thượng Khanh Trung Giai. Cố sắc ! Gia Thái tam niên, thập nhị nguyệt thập tứ nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Đông Các Học Sĩ Vân Khê Nam Tá Trị Thượng Khanh Trung Giai Đinh Bạt Tụy, vì có tâm trí và gánh vác công việc, được triều thần xem xét, tăng lên: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Lễ Bộ Hữu Thị Lang Vân Khê Nam Tá Trị Thượng Khanh Trung Giai. Nay Sắc ! Gia Thái năm thứ 3, ngày 14 tháng 12 (1573) 光興十年八月初八日 敕 曹川伯柱國上秩故 紫榮禄大夫兵部尚書 可為宣力功臣特進金 長國公鄭松等簽議 有朝臣左相太尉 丁拔萃為頗有資望 曹川伯柱國上秩 榮禄大夫兵部左侍郎 敕宣力功臣特進金紫 Phiên âm: Sắc: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Binh Bộ Tả Thị Lang Tào Xuyên Bá Trụ Quốc Thượng Trật Đinh Bạt Tụy, vị phả hữu tư vọng, hữu triều thần Tả Tướng Thái Úy Trưởng Quốc Công Trịnh Tùng đẳng thiêm nghị, khả vi: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu Binh Bộ Thượng Thư Tào Xuyên Bá Trụ Quốc Thượng Trật. Cố sắc ! Quang Hưng thập niên, bát nguyệt sơ bát nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Binh Bộ Tả Thị Lang Tào Xuyên Bá Trụ Quốc Thượng Trật Đinh Bạt Tụy, vì rất có tư chất và danh vọng, được các triều thần Tả Tướng Thái Úy Trưởng Quốc Công Trịnh Tùng bàn bạc, tăng lên: Tuyên Lực Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu Binh Bộ Thượng Thư Tào Xuyên Bá Trụ Quốc Thượng Trật. Nay sắc ! Quang Hưng năm thứ 10, ngày 8 tháng 8 (1587) 德隆元年五月初六日 敕 可加封尚書溪郡公故 為改 純 正始應加封郡爵 於殊恩今日哉稱於盛禮 蘊投筆立功名昔時既荷 該以儒飾史公輔經綸素 撲學識憂長道德仁義簽 敕贈尚書福溪侯性資純 Phiên âm: Sắc tặng: Thượng Thư Phúc Khê Hầu, tính tư thuần phác, học thức ưu trường, đạo đức nhân nghĩa kiêm cai, dĩ nho sức sử, công phụ kinh luân tố uẩn, đầu bút lập công danh, tích thời ký hà ư thù ân, kim nhật tai xứng ư thịnh lễ vi cải thuần chính, thủy ứng gia phong Quận Tước, khả gia phong: Thượng Thư Khê Quận Công. Nay sắc ! Đức Long nguyên niên, ngũ nguyệt sơ lục nhật. Dịch nghĩa: Sắc tặng cho: Thượng Thư Phúc Khê Hầu, tính tình tư chất thuần hậu chất phác, học vấn sâu rộng, cả đạo đức và nhân nghĩa đều vẹn, lấy kiến thức nho học để làm việc khiến cho công tích của ông càng to lớn rõ ràng. Từ ngọn bút lập công danh, từ xưa đã từng được hưởng ân sủng đặc biệt. Nay lại rất xứng đáng được hưởng trọng lễ, vì vậy nay đổi lại thuần chính hơn mới được, phong lên tước Quận, nên phong thêm là: Thượng Thư Khê Quận Công. Cố sắc ! Đức Long năm thứ nhất, ngày 6 tháng 5 (1629) 明命五年拾貳月初壹日 黎民欽哉 縣裴佤社依舊奉事神其相佑保我 隆恩典可加贈翊運之神準許興元 丕膺耿命光紹鴻圖緬念神庥盍 世祖高皇帝統一海宇慶被神人肆今 民稔著功德經有歷朝封贈奉我 敕黎朝太保溪郡公之神護國庇 Phiên âm: Sắc: Lê triều Thái Bảo Khê Quận Công chi thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ công đức, kinh hữu lịch triều phong tặng, phụng ngã Thế Tổ Cao Hoàng Đế thống nhất hải vũ, khánh bị thần nhân, tứ kim phi ưng cảnh mệnh, quang thiệu hồng đồ, miến niệm thần hưu, hạp long ân điển, khả gia tặng: Dực Vận chi Thần. Chuẩn hứa Hưng Nguyên huyện, Bùi Ngõa xã y cựu phụng sự. Thần kì tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai ! Minh Mệnh ngũ niên, thập nhị nguyệt sơ nhất nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Thần Thái Bảo Khê Quận Công triều Lê, giữ nước giúp dân, hiển rõ công đức, từng được các triều đại phong tặng Phụng sự Thế Tổ Cao Hoàng Đế của ta thống nhất đất nước, đem lại ơn phước cho thần và người. Nay, nối tiếp mệnh sáng, trẫm được nối nghiệp lớn, nghĩ tới công lao che chở của thần, để làm tốt đẹp ân điển, tặng thêm cho thần là: Linh Thông chi Thần. Chuẩn cho làng Bùi Ngõa, huyện Hưng Nguyên, phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ và che chở cho nhân dân của ta. Kính thay ! Minh Mệnh năm thứ 5, ngày 1 tháng 12 (1824) 嗣德叁年拾壹月拾五日 其相佑保我黎民欽哉 之神仍準興元縣裴佤 社依舊奉事神 耿命緬念神庥可加贈翊運扶正昭忠端肅 贈敕準許奉事肆今丕膺 之 神護國庇民稔著靈應節蒙頒給 敕黎朝太保溪府君原贈翊運扶正昭忠 Phiên âm: Sắc: Lê triều Thái Bảo Khê Phủ Quân nguyên tặng Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung chi Thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc chuẩn hứa phụng sự, tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng: Dực Vận Chính Chiêu Trung Đoan Túc chi Thần. Nhưng chuẩn Hưng Nguyên huyện, Bùi Ngõa xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tướng hựu, bảo ngã lê dân. Khâm tai ! Tự Đức tam niên, thập nhất nguyệt thập ngũ nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Thần Thái Bảo Khê Quân trều nhà Lê, nguyên được tặng là: thần Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung, giữ nước giúp dân, hiển rõ linh ứng, đã từng được cấp tặng sắc phong, chuẩn cho thờ phụng. Nay, nối tiếp mệnh sáng, nghĩ tới công lao che chở của thần, tặng thêm cho thần là: Thần Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung Đoan Túc. Chuẩn cho xã Bùi Ngõa huyện Hưng Nguyên phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ và che chở cho nhân dân của ta. Kính thay ! Tự Đức năm thứ 3, ngày 5 tháng 11 (1850) 紹治叁年拾貳月初貳日 民欽哉 依舊奉事神其相佑保我黎 之神仍準許興元縣裴佤社 耿命緬念神庥可加贈翊運扶正昭忠 贈敕準許奉事肆今丕膺 護國庇民稔著靈應節蒙頒給 敕翊運扶正黎朝太保溪府君之神 Phiên âm: Sắc: Dực Vận Phù Chính Lê Triều Thái Bảo Khê Phủ Quân chi Thần. Hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp tặng sắc chuẩn hứa phụng sự, tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng : Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung chi Thần. Nhưng chuẩn hứa Hưng Nguyên huyện Bùi Ngõa xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai ! Thiệu Trị tam niên, thập nhị nguyệt sơ nhị nhật. Dịch Nghĩa: Sắc cho: Thần Dực Vận Phù Chính Lê Triều Thái Bảo Khê Phủ Quân, giữ nước giúp dân, hiển rõ linh ứng, đã từng đựơc cấp tặng sắc phong, chuẩn cho thờ phụng. Nay, nối tiếp mệnh sáng, nghĩ tới công lao che chở của thần, tặng thêm cho thần là: Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung. Chuẩn cho xã Bùi Ngõa huyện Hưng Nguyên phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ che chở cho nhân dân của ta, Kính thay ! Thiệu Trị năm thứ 3, ngày 1 tháng 12 (1843) 成泰貳年貳月貳拾日 事神其相佑保我黎民欽哉 乂安省興元縣裴佤社東村依舊奉 志緬念神庥著加封為光懿中等神準 年間禮臣議上肆今丕承 興之神護國庇民稔著靈應經嗣德 神原封翊運扶正炤忠端肅翊保中 敕黎制科一甲太保溪郡公丁府君尊 Phiên âm: Sắc: Lê Chế Khoa Nhất Giáp Thái Bảo Khê Quận Công Đinh Phủ Quân Tôn Thần, nguyên phong Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng chi Thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, kinh Tự Đức niên gian lễ thần nghị thượng, tứ kim phi thừa chí, miến niệm thần hưu, trứ gia phong vi: Quang Ý Trung Đẳng Thần, chuẩn hứa Nghệ An tỉnh Hưng Nguyên Huyện Bùi Ngõa xã Đông thôn y cựu phụng sự. Thần kì tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai ! Thành Thái nhị niên, nhị nguyệt nhị thập nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Lê Chế Khoa Nhất Giáp Thái Bảo Khê Quận Công Đinh Phủ Quân Tôn Thần, nguyên tặng sắc là: Thần Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng, giữ nước giúp dân, hiển rõ linh ứng, Vào thời Tự Đức quan bộ Lễ đã tấu lên. Nay theo chí đó, nghĩ tới công lao che chở của thần, phong thêm cho thần là: Quang Ý Trung Đẳng Thần. Chuẩn cho xã Bùi Ngõa huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ che chở cho nhân dân của ta. Kính thay ! Thành Thái năm thứ 2, ngày 20 tháng 2 (1890) Sắc phong đình làng Bùi Ngõa. Vài nét về đình làng Bùi Ngõa. Đình Bùi Ngõa nằm ở làng Bùi Ngõa, xã Bùi Khổng, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An mà nay là thuộc đội 6, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Đình được nhân dân trong làng xây dựng để tưởng nhớ và phụng thờ Bản thổ Thành Hoàng – Thái Giám Hoàng Mượu Lộc hầu, một vị quan đời Trần, người có công khai cơ lập địa ngài ra còn phối thờ các vị thần khác như Đinh Bạt Tụy, Cao Sơn Cao Các, Bản Thổ Thiết Sơn Bạch Y Công Chúa. Đình nằm ở trung tâm của làng Bùi Ngõa, trên mảnh đất có diện tích khoảng 4700m2. Hiện nay, đình còn lưu giữ được nhiều tài liệu, hiện vật có giá trị như: hoành phi, câu đối, sắc phong, và nhiều hiện vật bằng đồng bằng sứ khác. Đây là những tư liệu quý giúp chúng ta phần nào trong việc khảo cứu về sự nghiệp và công trạng của các vị thần được thờ, nhất là việc khai cơ lập làng của vị thần Mượu Lộc Hầu, cũng như các nhân vật được phối thờ trong đình và sự hình thành tên gọi của địa phương qua các thời kỳ lịch sử cũng như phong tục tập quán, cách thờ phụng của người xưa trên mảnh đất này, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Phiên âm dịch nghĩa các văn bản sắc phong. Hiện tại Đình Bùi Ngõa còn giữ lại 17 đạo sắc phong thế nhưng chỉ còn lại được 6 đạo sắc gốc, một số đạo sắc bị hư hỏng nên được con cháu phụng sự sao chép lại. Dưới đây tôi xin trích dịch những đạo sắc gốc hiện còn lưu giữ tại đình. 景盛四年五月二十一日 敕 仁大王 祚佑順垂休錫康相吉顯灵洪謨澤物廣 可加封中領江口高利天震威勇揚武扶 皇家祇承丕緒禮有豋秩應加封美字三字 必應赫尒厥灵既多庇護偉功盍舉怀柔盛典為 毓河海秀鐘視弗見咱弗聞盛乎其德感必通求 垂休錫康相吉顯灵大王及双童玊女娘山川英 敕中領江口高利天震威勇揚武扶祚祐順 Phiên âm: Sắc: Trung Lĩnh giang khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng Dương Vũ Phù Hựu Thuận Thùy Hưu Tích Khang Tương Cát Hiển linh Đại Vương cập Song Đồng Ngọc Nữ Nương, sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung, thị phất kiến thính phất văn. Thịnh hồ kỳ đức, cảm tất thông, cầu tất ứng, hách nhĩ quyết linh, ký đa tí hộ vĩ công, hạp cử hoài nhu thịnh điển, vi hoàng gia kỳ thừa phi tự, lễ hữu đăng trật ứng gia phong mỹ tự tam tự, khả gia phong: Trung Lĩnh giang khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng Dương Vũ Phù Tộ Hựu Thuận Thùy Hưu Tích Khang Tương Cát Hiển Linh Hồng Mô Trạch Vật Quảng Nhân Đại Vương. Sắc ! Cảnh Thịnh tứ niên, ngũ nguyệt nhị thập nhất nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Trung Lĩnh giang khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng Dương Vũ Phù Tộ Hựu Thuận Thùy Hưu Tích Khang Tương Cát Hiển Linh Đại Vương cùng Song Đồng Ngọc Nữ Nương, núi non đẹp đẽ, biển sông hun đúc, nhìn không thấy, nghe không tỏ, dày ở công đức, cảm thì sẽ thông, cầu thì ắt được đáp ứng, hiển hách linh ứng ở nơi này, đã nhiều lần che chở bảo vệ công đức lớn thay, đã nêu rõ trong tự điển, làm mối tiếp để hoàng gia thờ tự, lễ lớn tặng thêm cấp bậc, cho nên phong cho ba chữ mỹ tự, có thể gọi là: Trung Lĩnh giang khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng Dương Vũ Phù Tộ Hựu Thuận Thùy Hưu Tích Khang Tương Cát Hiển Linh Hồng Mô Trạch Vật Quảng Nhân Đại Vương. Sắc ! Cảnh Thịnh năm thứ 4, ngày 21 tháng 5 (1797) 嗣 德 陸 年 拾 壹 月 初 五 日 奉 事 神 其相佑保我黎民欽哉 偉上等神仍準興元縣裴佤社依舊 耿命緬念神庥可加贈効靈敦厚雄峻卓 之神護國庇民稔著靈應肆今膺 敕高山高閣之神原贈效靈敦厚雄峻 Phiên âm: Sắc: Cao Sơn Cao Các chi Thần nguyên tặng Hiệu Linh Đôn Hậu Hùng Tuấn chi Thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, tứ kim phi ưng Cảnh Mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng: Hiệu Linh Đôn Hậu Hùng Tuấn Trác Vỹ Thượng Đẳng Thần. Nhưng chuẩn Hưng Nguyên huyện Bùi Ngõa xã y cựu phụng sự. Thần kỳ tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai ! Tự Đức lục niên, thập nhất nguyệt sơ ngũ nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Thần Cao Sơn Cao Các, nguyên được tặng là: Thần Hiệu Linh Đôn Hậu Hùng Tuấn , giữ nước giúp dân, hiển rõ linh ứng. Nay nối tiếp mệnh sáng, nghĩ tới công lao che chở của thần, tặng thêm cho thần là: Linh Hiệu Đôn Hậu Hùng Tuấn Trác Vỹ Thượng Đẳng Thần. Chuẩn cho xã Bùi Ngõa huyện Hưng Nguyên phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ, che chở cho nhân dân của ta. Kính thay ! Tự Đức năm thứ 6, ngày 5 tháng 11 (1853) 嗣德叁拾叁年拾壹月貳拾肆日 而伸祀典欽哉 登秩特準許依舊奉事用誌國慶 五旬大慶節經頒寶詔覃恩禮隆 敕封準其奉事嗣德三十一年正値朕 黎朝太保溪府君之神經頒給 高閣上等神翊運扶正昭忠端肅 前奉事效靈敦厚雄峻卓偉高山 敕旨乂安省興元縣裴佤社東村從 Phiên âm: Sắc chỉ: Nghệ An tỉnh Hưng Nguyên huyện Bùi Ngõa xã Đông thôn tòng tiền phụng sự, Hiệu Linh Đôn Hậu Hùng Tuấn Trác Vỹ Cao Sơn Cao Các Thượng Đẳng Thần, Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung Đoan Túc Lê Triều Thái Bảo Khê Phủ Quân chi Thần, tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự Tự Đức tam thập nhất niên chính trị trẫm ngũ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật đặc chuẩn hứa y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai ! Tự Đức tam thập tam niên, thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật. Dịch nghĩa: Sắc chỉ cho: thôn Đông, xã Bùi Ngõa, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trước đây đã phụng thờ Hiệu Linh Đôn Hậu Hùng Tuấn Trác Vỹ Cao Sơn Cao Các Thượng Đẳng Thần, Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung Đoan Túc Lê Triều Thái Bảo Khê Phủ Quân Chi Thần, đã từng được cấp sắc phong, chuẩn cho phụng thờ. Năm Tự Đức thứ 31, đúng vào lễ ngũ tuần đại khánh của trẫm, đã ban bảo chiếu mở rộng ân huệ, lễ lớn tăng cấp bậc. Đặc biệt chuẩn cho phụng thờ như cũ, dùng để ghi nhớ ngày mừng của nước và tỏ rõ phép tắc thờ tự. Kính thay ! Tự Đức năm thứ 33, ngày 24 tháng 11 (1880) 成 泰貳年貳月貳拾日 欽哉 神準依舊奉事神其相佑保我黎民 耿命緬念神庥著封為翊保中興靈扶之 應向來未有預封肆今丕承 令江口高利天振威勇之神稔著靈 敕乂安省興元縣裴佤社東村奉事中 Phiên âm: Sắc: Nghệ An tỉnh Hưng Nguyên huyện Bùi Ngõa xã Đông thôn phụng sự Trung Lĩnh giang khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng chi Thần, nẫm trứ linh ứng, hướng lai vị hữu dự phong, tứ kim phi thừa Cảnh Mệnh, miến niệm thần hưu trứ phong vi: Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù chi Thần, chuẩn y cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai! Thành Thái nhị niên, nhị nguyệt nhị thập nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: thôn Đông, xã Bùi Ngõa, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, thờ phụng thần Trung Lĩnh giang khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng, hiển rõ linh ứng, trước nay chưa từng được phong tặng. Nay nối tiếp mệnh sáng, nghĩ đến sự che chở của thần, nên phong cho thần là: Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù. Chuẩn cho thờ phụng như cũ. Thần hãy giúp đỡ và che chở cho nhân dân của ta. Kính thay ! Thành Thái năm thứ 2, ngày 20 tháng 2 (1890) 維新叁年捌月拾壹日 用誌國慶而申祀典欽哉 寶詔覃恩禮隆登秩特準依舊奉事 敕封準其奉事維新元年晉光大禮經頒 嶺侯之神節經頒給 翊保中興靈扶黎朝工部右侍郎梅 靈扶中令江口高利天震威勇之神 保溪郡公丁府君中等神翊保中興 肅光懿翊保中興黎朝制科一甲太 高山高閣上等神翊運扶正顯忠端 奉事效靈敦静雄峻卓偉翊保中興 敕旨乂安省興元府裴佤社東村從前 Phiên âm: Sắc chỉ: Nghệ An tỉnh Hưng Nguyên phủ Bùi Ngõa xã Đông thôn tòng tiền phụng sự Hiệu Linh Đôn Tĩnh Hùng Tuấn Trác Vỹ Dực Bảo Trung Hưng Cao Sơn Cao Các Thượng Đẳng Thần, Dực Vận Phù Chính Hiển Trung Đoan Túc Quang Ý Dực Bảo Trung Hưng Lê Triều Chế Khoa Nhất Giáp Thái Bảo Khê Quận Công Đinh Phủ Quân Trung Đẳng Thần, Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Trung Lĩnh giang khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng chi Thần, Dực Bảo Trung Hưng Phù Lê Triều Công Bộ Hữu Thị Lang Mai Lĩnh Hầu chi Thần, tiết kinh ban cấp sắc phong chuẩn kỳ phụng sự, Duy Tân nguyên niên tấn quang đại lễ kinh ban bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật, đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai! Duy Tân tam niên, bát nguyệt thập nhất nhật. Dịch nghĩa: Sắc chỉ cho: thôn Đông, xã Bùi Ngõa, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, trước đây đã phụng thờ Hiệu Linh Đôn Tĩnh Hùng Tuấn Trác Vỹ Dực Bảo Trung Hưng Cao Sơn Cao Các Thượng Đẳng Thần, Dực Vận Phù Chính Hiển Trung Đoan Túc Quang Ý Dực Bảo Trung Hưng Lê Triều Chế Khoa Nhất Giáp Thái Bảo Khê Quận Công Đinh Phủ Quân Trung Đẳng Thần, Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Trung Lĩnh Giang Khẩu Cao Lợi Thiên Chấn Uy Dũng Chi Thần, Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Lê Triều Công Bộ Hữu Thị Lang Mai Lĩnh Hầu Chi Thần, đã được ban cấp sắc phong, chuẩn cho thờ phụng. Vua Duy Tân nguyên niên, nhân đại lễ đăng quang, đã ban bảo chiếu mở rộng ân huệ, lễ lớn tăng thêm cấp bậc. Đặc biệt chuẩn cho phụng thờ như cũ, dùng để ghi nhớ ngày mừng của đất nước mà tỏ rõ phép tắc thờ tự. Kính thay! Duy Tân năm thứ 3,ngày 11 tháng 8 (1909) 同慶貳年柒月初壹日 依舊奉事神其相佑保我黎民欽哉 仍準許乂安省興元縣裴佤社東村 耿命緬念神庥可加贈翊保中興各等神 贈敕留祀肆今丕膺 節蒙頒給 府君之神向來護國庇民稔著靈應 神翊運扶正昭忠端肅黎朝太保溪 敕效靈敦厚雄峻卓偉高山高閣上等 Phiên âm: Sắc: Hiệu Linh Đôn Hậu Hùng Tuấn Trác vỹ Cao Sơn Cao Các Thượng Đẳng Thần, Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung Đoan Túc Lê Triều Thái Bảo Khê Phủ Quân chi Thần, hướng lai hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp tặng sắc lưu tự, tứ kim phi ưng Cảnh Mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng: Dực Bảo Trung Hưng Các Đẳng Thần, nhưng chuẩn hứa Nghệ An tỉnh Hưng Nguyên huyện Bùi Ngõa xã Đông thôn y cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai ! Đồng Khánh nhị niên, thất nguyệt sơ nhất nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Hiệu Linh Đôn Hậu Hùng Tuấn Trác Vỹ Cao Sơn Cao Các Thượng Đẳng Thần, Dực Vận Phù Chính Chiêu Trung Đoan Túc Lê Triều Thái Bảo Khê Phủ Quân Chi Thần, đến nay giữ nước giúp dân, hiển rõ linh ứng, nên được cấp tặng sắc phong để lưu giữ lại. Đến nay, nối tiếp mệnh sáng, nghĩ tới công lao che chở của thần, tặng thêm cho thần là: Dực Bảo Trung Hưng Các Đẳng Thần. Chuẩn cho thôn Đông, xã Bùi Ngõa, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An phụng thờ như cũ. Thần hãy giúp đỡ, che chở cho nhân dân của ta. Kính thay ! Đồng Khánh năm thứ 2, ngày 1 tháng 7 (1887) Sắc phong nhà thờ họ Lê Sĩ. Vài nét về dòng họ Lê Sĩ. Theo gia phả họ Lê Sĩ ở xã Hưng Thông thì dòng họ Lê Sĩ hiện nay có nguồn gốc từ Nông Cống, Thanh Hóa. Thủy tổ của dòng họ này là Tiến sĩ Lê Sĩ Triệt. Năm 1660, ông phụng mệnh vua Lê làm Đốc đồng tỉnh Nghệ An, trấn thủ biên thùy chống quân của chúa Nguyễn. Tại đây, ông định phối với người con gái họ Cao làng Láng Thôn, xã Thông Lạng (Nghệ An), mới sinh ra con cháu họ Lê Sĩ ở hai làng Đông Thôn và Láng Thôn, xã Thông Lạng mà nay là xã Hưng Thông, Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông đã góp công lớn vào công cuộc bảo vệ đất nước, ông được các đời vua Lê ban sắc và thăng tước hiệu. Đến năm 1686 ông tạ thế, được vua ban cho tước Hầu, ban tặng hiệu bụt là “Ôn túc” và ban 100 quan tiền. Đến niên hiệu Thành Thái thì được phong Phúc Thần, cho dân làng thôn Đông Lãng, xã Thông Lạng phụng sự, các triều đại Duy Tân đến Bảo Đại nối tiếp phong cho ông là Thượng đẳng thần. Dòng họ Lê Sĩ đã nối tiếp nhau để khẳng định truyền thống hiếu học của mình, đã có nhiều người đỗ đạt thành tài và được ghi tên lên bia ở văn miếu Quốc Tử Giám. Như Lê Sĩ Triệt đỗ khoa Canh Thìn (1640) được ghi tên ở b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNoi dung.doc
  • docBA.doc
  • docM7908C L7908C.doc
Tài liệu liên quan