Mỗi độ tuổi khác nhau hay mỗi giai đoạn sinh trưởng và phát triển khác nhau khả năng tiếp xúc, cảm nhiễm với yếu tố gây bệnh của lợn là khác nhau. Theo một số công trình nghiên cứu về giun đũa lợn trước đây, ta thấy rằng ở các độ tuổi khác nhau tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun đũa lợn có sự khác biệt nhất định. Ở các độ tuổi tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm là không giống nhau:
Trịnh Văn Thịnh, Phạm Văn Khuê, 1982 cho biết:
Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 39,2%
Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 48,0%
Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 58,3%
Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 24,9%
Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương, 1995 cho biết:
Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 49,8%
Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 67,1%
Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 62,6%
Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 40,6%
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3780 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát tình hình nhiễm giun đũa lợn (Ascaris suum) tại huyện M’Đrăk và biện pháp phòng trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trùng từ mạch máu phổi di chuyển tới phế bào nên mạch máu bị vỡ, ở phổi có nhiều điểm xuất huyết. Khi ấu trùng di hành qua phổi gây ra viêm, triệu chứng viêm còn phụ thuộc vào mức độ nhiễm, có thể kéo dài 5-14 ngày, cho khi làm cho con vật bị chết. Thức ăn thiếu Vitamin A làm cho lợn con dễ bị viêm phổi do giun đũa gây ra. Ấu trùng di hành độ 2-3 tuần, khi thành giun trưởng thành thì tác dụng gây viêm giảm dần. Khi giun trưởng thành ở ruột non làm niêm mạc bị loét và đau bụng, khi nhiều gây tắc ruột, thủng ruột. Có khi vào ống mật gây hoàng đản. Giun đũa còn tiết độc tố gây nhiễm độc thần kinh trung ương và mạch máu, triệu chứng thần kinh như tê liệt hoặc hưng phấn. Ngoài ra trong quá trình trao đổi chất giun còn thải chất cặn bã gây độc làm lợn chậm lớn, còi cọc.
2.3.6 Tác hại của bệnh giun đũa lợn
Khi ấu trùng di hành qua phổi gây viêm phổi, xuất huyết. Ấu trùng L2 và L3 gây những điểm hoại tử xuất huyết ở gan kích thước khoảng 1 cm và có nhiều sợi Fibrin. Ấu trùng cũng gây tổn thương và làm rách các mao mạch, phế nang làm cho bệnh suyễn nặng hơn. Đồng thời ấu trùng còn mang vi khuẩn E.coli vào trong máu.
Giun trưởng thành ký sinh ở ruột làm viêm cơ ruột, gây loét ruột. Lấy các chất dinh dưỡng của quá trình trao đổi chất gây còi cọc, chậm lớn, gây tắc ruột, thủng ruột. Giun sử dụng nhiều Ca2+ làm cho lợn co giật, mềm xương, còi xương. Khi di hành qua ống mật gây vỡ ống mật.
2.3.7 Triệu chứng, bệnh tích của bệnh giun đũa lợn
2.3.7.1 Triệu chứng
Triệu chứng ở lợn lớn không rõ, phần nhiều là mang giun đũa, trở thành nguồn gieo rắc mầm bệnh. Bệnh nặng ở lợn con từ 3 đến 6 tháng, lợn chậm lớn, gầy còm, ấu trùng ở phổi gây viêm phổi, thân nhiệt tăng cao, ăn uống giảm sút, hô hấp nhanh, thường xuyên có các triệu chứng viêm phổi, khi giun trưởng thành thì triệu chứng không rõ: chậm lớn, gầy, sút cân, rối loạn tiêu hóa; khi có nhiều giun làm tắc ruột, thủng ruột, đau bụng, viêm xoang bụng, một số con bị quá mẫn thì có triệu chứng thần kinh, nổi mẫn, ho…
2.3.7.2 Bệnh tích
Lúc đầu phổi bị viêm, trên mặt phổi có đám huyết màu hồng thẫm. Khi mổ phổi thấy nhiều ấu trùng. Khi nhiều giun trưởng thành ở ruột non làm ruột non viêm cata. Khi ruột bị vỡ thì gây viêm phúc mạc và xuất huyết.
Hình 6: Gan bị những nốt hoại tử trắng do ấu trùng của giun đũa.
Hình 7: Giun đũa trong ruột
2.3.8. Chẩn đoán bệnh giun đũa lợn
+ Lợn dưới hai tháng tuổi: Lợn con theo mẹ nếu có giun, thì giun chưa đẻ trứng (54-62 ngày mới đẻ trứng). Bởi vậy nếu muốn chẩn đoán bệnh, có thể mổ khám rồi tìm ấu trùng ở phổi và gan.
+ Lợn trên hai tháng tuổi: Kiểm tra phân bằng phương pháp phù nổi để tìm trứng. Ngoài ra có thể mổ khám để tìm trứng ở ruột non.
+ Chẩn đoán bằng phản ứng biến thái nội bì: Có nhiều cách chế kháng nguyên tiêm nôi bì, nhưng thường dùng cách chế của Ecsop: Rửa sạch giun đũa còn sống, nghiền nát hòa với hai phần nước cất, cứ 1ml dung dịch trên cho thêm 8g men tuyến tụy và 10ml clorofoc, điều chỉnh pH = 7,6-7,8. Để tủ ấm 7-12 ngày, giun tan hết thì ly tâm, lấy nước ở trên cho vào lọ pha với cồn 90o, tỉ lệ 1:5 để cho kháng nguyên lắng xuống, lấy kháng nguyên ở đáy cho vào lọ con để tủ ấm. Sau khi khô bảo quản ở tủ lạnh trên 8 tháng vẫn không ảnh hưởng đến đặc tính kháng nguyên. Khi tiêm, pha loãng 1:200. Có thể tiêm nội bì vành ngoài tai hoặc nhỏ vào xoang kết mạc mắt.
Phương pháp chẩn đoán này rất tốt, không có phản ứng chéo với lợn nhiễm giun tóc, giun kết hạt và giun đầu gai. Sau khi lợn nhiễm giun đũa từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 11 bắt đầu có phản ứng dương tính. Phản ứng này duy trì được khoảng 110-140 ngày. Thời gian phản ứng biến thái xuất hiện phù hợp với thời gian kháng thể tập trung trong máu sau khi nhiễm giun và không phụ thuộc vào giun trưởng thành ở ruột.
2.3.9 Biện pháp phòng, trị bệnh giun đũa lợn
2.3.9.1 Phòng bệnh
- Dùng thuốc tẩy cho lợn giai đoạn sau tách mẹ và giai đoạn 3-4 tháng. Nếu cần thiết tẩy cho lợn 5-7 tháng tuổi. Lợn lớn nhiễm ít nhưng là nguồn gieo rắc mầm bệnh, cần thiết thì tẩy cho lợn lớn.
- Diệt căn bệnh ngoài cơ thể lợn: Trứng giun đũa phán tán ra ngoài là nguyên nhân chính làm bệnh lan tràn, để diệt trứng ta cần thực hiện các biện pháp sau:
+ Phân lợn tập trung đem ủ nhiệt sinh vật để diệt trứng và chống ô nhiễm, hoặc ủ phân Biogas.
+ Máng ăn, máng uống phải sạch sẽ.
+ Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.
+ Chú ý khi lợn nái trong thời kỳ tiết sữa có thể truyền cho con.
+ Phòng bằng vaccine: Thu thập trứng có chứa ấu trùng gây nhiễm, chiếu phóng xạ 700 R. Số lượng trứng là 500-2000/ liều vaccine cho ăn. Những lợn cho ăn vaccine tỉ lệ nhiễm giun đũa giảm 4,7 lần so với heo đối chứng. Thời gian miễn dịch khoảng 4 tháng.
+ Dùng Hygromycine 1,5 kg/ 1 tấn thức ăn phòng cho lợn.
2.3.9.2 Trị bệnh
Khi lợn bị nhiễm giun đũa ta sử dụng một trong các loại thuốc sau để điều trị:
- Tetramisole (Nilverm hoặc Ascaridin): liều dùng 20g thuốc tinh chất/ kg trọng lượng (P), trộn vào thức ăn hoặc cho uống một lần.
- Levamisole (Vinacor, Decaris): ở dạng dung dịch 7,5% dạng chai 100 ml hoặc 240 ml hoặc 500 ml. Khi dùng sử dụng 6-8 mg/ kg P, chích bắp cho lợn nhỏ hơn 30 kg. Lợn lớn hơn chích liều 5-6 mg/ kg P.
- Levomisole: nồng độ 6,5% dạng chai 100 ml. Lợn nhỏ hơn 30 kg chích bắp liều 1 ml/ 6 kg P. Lợn lớn chích liều 1 ml/ 9 kg P.
- Tetravermex: dạng bột 10%, liều dùng 20 mg/ kg P cho ăn hoặc uống.
- Themisole: dạng 15% đóng chai 200 ml. Chích bắp liều 1 ml/ 20 kg P, không quá 5 ml/ con.
- Nilverm: Do Australia sản xuất nồng độ 7,5% đóng chai 500 ml. Chích liều 1 ml/ 7-8 kg P.
- Nichlozamide-Tetramisole B: dạng viên 5 g, dùng 1 viên/ 75 kg P.
- Piperazine: đối với lợn chỉ dùng dạng Hexahydrate piperazine và các dạng muối Adipinat, Phosphate, Sunfate cho ăn hoặc cho uống. Lợn nhỏ hơn 50 kg dùng liều 0,3 g/ kg P. Lợn lớn hơn 50 kg dùng liều 15 g/ con, dùng 2 lần/ ngày.
- Mebendazole (Mebenvet): dùng liều 20 mg/ kg P cho ăn hoặc uống. Sau khi dùng lợn có thể bị tiêu chảy nhẹ.
- Dichlovos (DDVP): 0,2 g/ kg P cho ăn hoặc uống.
- Benacine: liều 150 mg/ kg P cho ăn hoặc uống.
- Phenothiazine: 0,5 g/ kg P cho ăn hoặc uống.
- Ivermectin: 0,1-0,3 mg/ kg P chích bắp hoặc chính dưới da.
- Doramectin: liều 0,1-0,3 mg/ kg P chích bắp hoặc chính dưới da.
- Ngoài ra còn có thể sử dụng: Safersan, Morantel, Benzimidazole, Febantel, Panacur, Parbendazole, Rintal, …
- Hạt keo dậu: phơi khô, rang vàng, giã nhỏ. Dùng 60-100 g/con. Tùy độ tuổi trộn với cám cho lợn ăn. Dùng liên tục 3 ngày.
- Vỏ xoan tươi 50 g và 20 g rễ cây sòi, sắc nước cho lợn uống 3 ngày liền.
- Hạt cau già: 5-20 g/con, sắc thuốc trộn thức ăn ngon cho lợn ăn.
- NOVA LEVASOL: 1g/ 8kg thể trọng.Heo con: 2 tháng xổ 1 lần. Heo lớn: 6 tháng xổ 1 lần. - Nova Leva: Tiêm bắp 1ml/15 kg thể trọng. Heo con: 2 tháng 1 lần Heo lớn: 3-4 tháng 1 lần.
- Nova Mectin 0,25%: Tiêm dưới da cho heo con 1ml/8 kg thể trọng, 2 tháng 1 lần.
- Nova Mectin 1%: Tiêm dưới da cho heo lớn 1ml/32 kg thể trọng, 2 tháng 1 lần.
- Nova-Fenben: 1g/ 7-8kg thể trọng, trộn với thức ăn liên tục 3-5ngày
2.4. Thuốc tẩy giun sán Bio-Ivermectin Và Bio-Levamisol 10%
Bio-Ivermectin Và Bio-Levamisol 10% đều là thuốc kiểm soát và điều trị nội – ngoại ký sinh trùng ở vật nuôi, do công ty liên doanh Bio – Pharmachemie sản xuất địa chỉ: 2/3 Tăng Nhơn Phú, Phường Phước Long B, Q.9, Tp.HCM. Là công ty sản xuất đạt tiêu chuẩn WHO GMP ( Thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn của WHO ) chất lượng sản phẩm của BIO luôn đảm bảo. Nguyên liệu dùng trong sản xuất được chọn lọc từ các công ty quốc tế, có uy tín. Các nguyên liệu này trước khi đưa vào sản xuất và các thành phẩm trước khi đóng gói đều được phòng thí nghiệm của công ty đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025 kiểm tra chất lượng chặtchẽ .
Sản phẩm của Bio-Pharmachemie rất da dạng, từ các sản phẩm kích thích tăng trọng, tăng năng suất, đến các sản phẩm phòng và điều trị bệnh cho gia súc, gia cầm, tôm cá được đóng gói phù hợp, đáp ứng mọi nhu cầu của các nông trại lớn và hộ chăn nuôi gia đình. Mạng lưới tiêu thụ của công ty rộng khắp trong cả nước với hơn 400 đại lý ở khắp các tỉnh thành. Ngoài ra, công ty còn xuất khẩu sản phẩm sang thị trường 20 nước như: Thái Lan, Malaysia, Philippines, Myanmar, Campuchia, Lào, Trung Quốc, Pakistan, Hà Lan, Dubai, Sri-Lanka, Bangladesh, Ghana, Jordan, Hàn Quốc, Libya, Nigeria, Indonesia, Yemen và Ai Cập Bio-Pharmachemie cam kết luôn cải tiến chất lượng và dịch vụ để mang "Niềm tin trọn vẹn" đến với mọi đối tượng khách hang.
2.4.1. Một số thông tin về Thuốc Bio-Ivermectin
Hình 8: Bio-Ivermectin
Thành phần chính của thuốc là Ivermectin
Công dụng:Phòng ngừa và điều trị các bệnh nội - ngoại ký sinh trùng trên heo: - Nội ký sinh trùng: các loại giun tròn đường ruột, giun phổi, giun thận
- Ngoại ký sinh trùng: các loại ghẻ, Demodex, Sarcoptes, rận.
Liều lượng và Cách dùng:Trộn đều vào thức ăn với liều như sau:- Heo con, heo thịt: 0,8 g/ kg thức ăn hoặc 1 g/ 25 kg thể trọng. Cho ăn liên tục 1 tuần, lúc heo 36-42 ngày tuổi và lúc heo 91-97 ngày tuổi.- Heo hậu bị, heo nọc, heo nái mang thai: 3,5g / kg thức ăn hoặc 1g/ 25kg thể trọng.- Heo nái mang thai: cho ăn liên tục 7 ngày, lúc 2 tuần trước khi sinh để tránh lây bệnh cho heo con.- Heo nọc: mỗi 6 tháng cho ăn một đợt thuốc 7 ngày.
2.4.1. Một số thông tin về Thuốc Bio-Levamisol 10%
Hình 9: Bio-Levamisol 10%
Thành phần chính của thuốc là:Levamisole.
Công dụng: Heo: Giun đũa, giun phổi, giun thận, giun
chỉ đường ruột và giun tóc. Trâu, bò, cừu, dê: giun đũa, giun xoăn dạ mũi khế, giun kết hạt, giun phổiLiều lượng và Cách dùng: Heo, trâu, bò, cừu, dê: 1ml/ 15kg thể trọng Đường cấp thuốc: tiêm bắp hoặc dưới da.
Tiêm 1 liều duy nhất.
PHẦN III
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nguyên cứu
Giun đũa lợn (Ascaris suum) trên lơn tại huyện M’Đărk
3.2. Địa Điểm nguyên cứu
- Các điểm giết mổ tập trung trên địa bàn huyện.
- Một số hộ gia đình tại:
+vùng trũng gồm 2 xã: CưMta, Xã EaRiêng
+ vùng cao gồm 2 xã: Xã Ea pil, Xã CưPrao
+ vùng đồng bằng gồm 2 xã:Xã Krông Jing, Thị Trấn
3.3. Thời gian nguyên cứu
-Từ tháng 01 năm 2010 đến ngày 15 tháng 05 năm 2010
3.4. Nội dung nguyên cứu
3.4.1. Tình hình nhiễm giun đũa lợn tại các địa hình.
3.4.2. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo độ tuổi.
3.4.3. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo tính biệt.
3.4.4. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo phương thức chăn nuôi.
3.4.5. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo giống lợn.
3.4.6. Triệu chứng, bệnh tích của bệnh giun đũa lợn.
3.4.7. Thử nghiệm sử dụng Bio-Ivermectin Và Bio-Levamisol 10% để điều trị.
3.5. Phương pháp nguyên cứu.
3.5.1.. Dụng cụ và Hóa chất
3.5.1.1. Dụng cụ
- Kính hiển vi quang học
- Dụng cụ thủy tinh: lọ, đũa thủy tinh, cốc, phiến kính, lam kính, đĩa petri, rây lọc.
- Bao nylon, túi đựng phân, găng tay, cân…
3.5.1.2. Hóa chất
- Dung dịch NaCl bão hòa
- Dung dịch Formalin 10%
- Thuốc tẩy giun sán Bio-Ivermectin Và Bio-Levamisol 10%.
3.5.2. Phương pháp lấy mẫu
+ Lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng:
-Lấy mẫu phân tươi, vào buổi sáng.
-Trước khi lấy mẫu phân, và xua đuổi nhẹ đàn lợn để cho chúng đi phân nhanh.
-Sau đó tiến hành lấy mẫu phân cho vào túi nylon. Lấy tại 3 điểm (điểm đầu, điểm giữa, điểm cuối) trên đống phân, mỗi mẫu lấy 10g phân, cột chặt và dùng viết lông không phai ghi các thông tin (địa điểm, độ tuổi, giống, tính biệt, phương thức chăn nuôi) của từng con lên túi nylon.
Phiếu thông tin khi đi lấy mẫu:
Mẫu số:………ngày………tháng……….
Địa hình:……………………………………………..
Tính biệt:………………………………….................
Giống:……………………………………………….
Tuổi:…………………………………………………
Phương Thưc chăn nuôi:…………………………….
+ Số lượng mẫu nghiên cứu được ước tính theo công thức:
Trong đó Với:
n là dung lượng mẫu không dựa vào tổng đàn
N : tổng đàn
n là dung lượng mẫu dựa vào tổng đàn
Z= 1,96
P: giá trị lưu hành
d: sai số
vậy số lượng mẫu cần nguyên cứu: n= 355 mẫu ( tức là 355 con lợn)
3.5.3 Phương pháp xét nghiệm phân
+ Tiến hành xét nghiệm phân lợn bằng phương pháp phù nổi với dung dịch muối NaCl bão hòa của Willis (1927)
- Nguyên lý của phương pháp: phương pháp này sử dụng muối NaCl bão hòa có tỷ trọng cao hơn trứng giun sán nhưng thấp hơn cặn phân, do đó trứng giun sẽ được đẩy lên trên bề mặt.
- Cách tiến hành: cho 1-2g phân vào cốc thủy tinh, cho vào đó một ít nước muối NaCl bão hòa (450g/ml) khuấy đều, lọc qua lưới lọc có 81 lỗ/cm2 vào một lọ miệng hẹp. Cho nước muối bão hòa vào cho đầy miệng lọ, đậy phiến kính lên miệng lọ để yên 10-15 phút, lấy nhanh phiến kính ra, đảo ngược, phủ lá kính lên và kiểm tra trên kính hiển vi với độ phóng đại 10X và 40X.
- Cách xem tiêu bản: Mỗi mẫu phân được quan sát trên 3 tiêu bản, nếu thấy có trứng giun đũa thì quy định là dương tính (+), còn những mẫu quan sát trên 3 tiêu bản nếu không thấy trứng giun đũa thì quy định là âm tính (-).
+ Tiến hành xét nghiệm phân trong 24 giờ (trong trường hợp chưa xét nghiệm kịp thì bảo quản bằng dung dịch Formalin 10%).
+ Phương pháp mổ khám
Mổ khám không toàn diện: Lợn sau khi giết chỉ cắt lấy phần ruột, vuốt chất chứa ra, gạn rửa, thu nhặt giun.
3.6. Phương pháp bố trí thí nghiệm kiểm tra hiệu lực tẩy trừ của thuốc
- Để kiểm tra hiệu lực tẩy trừ của hai loại thuốc trên, tiến hành chọn một số lượng lợn thích hợp ở các lứa tuổi khác nhau đã tiến hành xét nghiệm phân và cho kết quả dương tính vào thí nghiệm thuốc. Chia thí nghiệm làm hai lô: một lô A sử dụng thuốc Bio-Ivermectin, lô B còn lại sử dụng Bio-Levamisol 10% . Và lô C không sử dụng thuốc dùng để kiểm chứng.
- Trước khi cấp thuốc, cân trọng lượng từng con để xác định liều thuốc theo trọng lượng cơ thể.
- Sau khi cấp thuốc 1 giờ, kiểm tra các triệu chứng, phản ứng phụ sau khi sử dụng thuốc.
- 3 ngày sau khi cấp thuốc, tiến hành lấy phân xét nghiệm. Đối với các mẫu dương tính với giun đũa lợn sau khi kiểm tra, tiếp tục kiểm tra ở ngày thứ 5 và ngày thứ 7.
Tên thuốc
Liều lượng
(mg/kg P)
Số lợn thí nghiệm (con)
Tỉ lệ tẩy sạch (%) sau
3 ngày
5 ngày
7 ngày
Bio-Ivermectin
Bio-Levamisol 10%
Không dùng thuốc
3.7. Phương pháp xử lý số liệu
+ Xử lý theo phương pháp thống kê sinh học.
- Tỉ lệ nhiễm %= (số con nhiễm / số con nghiên cứu) * 100%
- hiệu lực của thuốc % =(số con tẩy sạch / số con được tẩy) *100%
- Cường độ nhiễm theo từng địa điểm, từng độ tuổi, theo tính biệt, theo phương thức chăn nuôi: Xác định số lượng giun đũa trong đường ruột cao nhất và thấp nhất theo từng địa điểm, từng độ tuổi, theo tính biệt, theo phương thức chăn nuôi.
+ Xử lý số liệu bằng phần mềm Excel. Minitab14
PHẦN IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Tình hình nhiễm giun đũa lợn tại huyện M’đrăk
4.1.1. Tình hình nhiễm giun đũa lợn theo Địa hình
Như chúng ta bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh giun đũa lợn nói riêng chịu ảnh hưởng nhiều điều kiện khí hậu, trực tiếp là vũng tiểu khí hậu mà vật nuôi đang sinh sống đặc biệt, mỗi vùng có một kiểu khí hậu và phương thức chăn nuôi khác nhau. Chính vì điều đó chúng tôi tiến hành chọn 3 địa điểm khác nhau đại diện cho 3 vùng sinh thái khác nhau tại huyện M’đrăk: là vùng cao gồm 2 xã (Xã Ea pil, Xã CưPrao), vùng đồng bằng gồm 2 xã (Xã Krông Jing, Thị Trấn), vùng trũng gồm 2 xã (CưMta, Xã EaRiêng). Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành xét nghiệm phân trên 355 con lợn ở 3 địa hình đã chọn bằng phương pháp phù nổi với dung dịch muối NaCl bão hòa và ghi nhận kết quả về tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn ở 3 vùng sinh thái sau:
BẢNG 3: Địa Hình
Địa Hình
Số Con Nghiên cứu ( con)
Số Con Nhiễm
( +)
Tỷ lệ Nhiễm
( %)
Cường Độ Nhiễm
( )
Vùng Cao
83
20
24,10
5,074 0,594
Vùng Đồng Bằng
180
68
37,78
4,857 0,634
Vùng Trũng
92
37
40,22
6,102 0,537
Tổng
355
125
35,21
5,546 0,348
(p- value = 0.049 < 0.05)
Theo điều tra ghi nhận của chúng tôi, tỉ lệ nhiễm giun đũa tại 3 vùng mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu là 35,21% cao hơn so với tình hình nhiễm giun ở một số vùng khác như: Quãng Ninh 26,5%, Hà Nam 33,3%, Thanh Hóa 13,2%, và thấp hơn so với các vùng: Hà Bắc 42,1%, Nghĩa Lộ 43,5%, Hà Tĩnh 43,6%, Hải Hưng 40,5%.
Ngoài ra, theo công bố của một số tác giả miền Bắc tỉ lệ nhiễm giao động từ 13 – 14 % (Phạm Văn Khuê và Trịnh Văn Thịnh, 1982). Năm 1978, Phạm Văn Khuê và Phan Lục điều tra 1055 lợn tại 6 tỉnh Nam Bộ cho thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn là 31,04 %. Trong đó tại 3 tỉnh miền Đông nhiễm 40 %, 3 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhiễm 23 %. Năm 1995, Lương Văn Huấn mổ khám 891 lợn thuộc 4 lứa tuổi (< 3 tháng tuổi, 3 – 4 tháng tuổi, 5 – 7 tháng tuổi và trên 7 tháng tuổi) và khảo sát 5044 lợn tại 12 tỉnh phía Nam cho thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa là 53 %, Bình Trị Thiên là 34 %, Quảng Nam-Đà Nẵng là 61 %, Binh Định 45 %, Thành phố Hồ Chí Minh 41 %, Long An 47 %, Tiền Giang 73 %, Kiên Giang 70 %. Phạm Chức, Châu Bá Lộc và cộng sự (1986) cho biết lợn Kiên Giang nhiễm từ 28 – 50 %. Bùi Lộc, Nguyễn Đăng Khảo, Vũ Sỹ Nhàn (1979) cho biết lợn miền Trung nhiễm 36 – 58 %.
Như vậy từ số liệu trên cho ta thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn đang có chiều hướng giảm so với trước đây. Điều này có ý nghĩa rằng trong thời gian vừa qua người chăn nuôi đã quan tâm đến việc chăn sóc và bảo vệ vật nuôi nói chung và đàn lợn nói riêng một cách chu đáo, nhưng tỉ lệ nhiễm vẫn còn cao. Vì vậy, việc tìm hiểu tình hình nhiễm giun đũa lợn và tuyên truyền phương pháp phòng và trị bệnh ký sinh trùng nói chung và bện giun đũa lợn nói riêng là nhiệm vụ cần thiết của các nhà thú y chúng ta quan tâm.
Trong 35,21% lợn bị nhiễm giun đũa ở 3 vùng sinh thái tiến hành khảo sát thì vùng trũng là có tỷ lệ nhiễm cao nhất 40,22%, kế đến là vùng đồng bằng 37,78%, cuối cùng là vùng cao là 24,10%.
Ở mỗi địa hình có cường độ và tỷ lệ nhiễm khác nhau vùng trũng có cường độ nhiềm giao động trong khoảng 6,102 0,537, vùng đồng bằng có cường độ nhiễm giao dộng trong khoảng 4,857 0,634, vùng cao có cường độ nhiềm giao động trong khoảng 5,074 0,594, và cường độ nhiễm chung là 5,546 0,348. Tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn tại huyện M’đrăk theo vùng sinh thái thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: theo địa hình
Qua biểu đồ trên cộng với (p- value = 0.049 < 0.05) chúng tôi kết luận rằng có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm giun đũa giữa các vùng sinh thái mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu theo nhận định của chúng tôi sự khác nhau về tỉ lệ nhiễm giun đũa giữa các vùng sinh thái trên là do các nguyên nhân sau:
Như chúng ta đã biết ở phần mở đầu của mục này bệnh ký sinh trùng chịu ảnh hưởng của điều kiện khí hậu, trực tiếp là vùng tiểu khí hậu của vật nuôi sinh sống, chính vì vậy mà mỗi vùng khác nhau có tỉ lệ nhiễm khác nhau.
Mỗi vùng sinh thái lại có đội ngũ cán bộ thú y cơ sở trình độ chuyên môn khác nhau công tác vệ sinh phòng bệnh cũng được tiến hành ở các mức độ khác nhau cộng vào đó điều kiện kinh tế - xã hội phát triển nên trình độ chăn nuôi của người dân cũng khác .
Như ta đã thấy tỉ lệ nhiễm giun đũa của vùng trũng cao nhất là do các nguyên nhân sau đây: là vùng trũng thức ăn dùng cho lợn là rau xanh (thức ăn xanh) như rau muốn, rau lan… như đã nói trên thi trứng giun theo phân ra ngoài; mặt khác nước thải của chăn nuôi đươc thải trực tiếp ra ngoài ruộng rau làm trứng giun bám vào và gây bệnh vì bệnh giun đũa lợn truyền trực tiếp; ngoài ra đây là vùng thuộc hai xã CưMta, Eariêng, có đội ngủ cán bộ làm thuốc còn ít với lại địa bàng lại rộng, cộng với ý thức người dân chưa cao, chăn nuôi nhỏ lẻ là chủ yếu. chuồng trại còn thô sơ tạm bợ…
Tiếp đến là vùng đồng bằng chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu trên hai điểm đại diện đó là: Xã Krông Jing, Thị Trấn nó chiếm vị trí thứ 2 của ba vùng (37,78%), nguyên nhân ở vùng này có tỉ lệ nhiễm cao là do ở đây lợn địa phương hay còn gọi là lợn nội được nuôi nhiều đặc biệt là xã Krông Jing thành phần dân cơ bản là người đồng bào, mặt dù họ đã biết làm chuồng trại nuôi nhốt nhưng vẫn mang phong tục tập quán là nuôi vật với mục đích làm sản phẩm chưa cao, ý thức về sổ giun cho vật nuôi chưa có. Đó là do xét trên cả vùng còn xét riêng từng xã thì tỉ lệ nhiễm của thị trấn thất hơn nhiều là do ở đây có đội ngủ thú y của trạm với lại ý thức người dân về phòng bệnh cho lợn cao và giống lợn nuôi ở đây chủ yếu là lợn lai và phương thức chăn nuôi có cả tập trung và nhỏ lẻ chuồng trại được đầu tư chu đáo hơn. Ăn thức ăn công nghiệp và có trộn với phụ phẩm như bắp, gạo, râu…
Cuối cùng là vùng cao thì gồm hai xã: Eapil, CưPrao. Trên địa bàn xã Eapil thì đại đa số là người kinh sinh sống trên địa bàn, ý thức người chăn nuôi cao, chăn nuôi với mục đích lợi nhuận kinh tế muốn cho sản phẩm của mình bán ra với giá cao nhất và muốn vật nuôi mình ăn nhanh chóng lớn cho nên họ rất quan tâm đến việc điều trị bệnh, tẩy giun cho vật nuôi, mặt khác ở xã này có hai thú y viên (chú sơn và cô nữ) , đặc biệt là xã thuộc vùng cao nên thức ăn chính dành cho lợn là thức ăn công nghiệp và các sản phẩm phụ kèm theo là bắp, ngô, sắn và có rất ít rau xanh vì không có nhiều nước với đất ở xã này chủ dành cho việc trồng mía là chủ yếu. Ngoài ra thời gian tiến hành làm đề tài cũng đúng vào mùa khô, cũng gì vậy mà làm tỉ lệ nhiễm giun đũa lợn thấp đi. Còn ở xã Cưprao cũng nằm trên vùng cao bên cạnh xã Eapil đây là xã cũng có tỉ lệ người kinh sinh sống cũng tương đối cao, và cũng giống như những điều đã nói trên nhưng xét riêng ở xã này thì tỉ lệ nhiễm cao hơn xã Eapil do các nguyên nhân sau: vẫn có người đồng bào sinh sống chăn nuôi còn mang phong tục lạc hậu. nuôi nhỏ lẻ là chủ yếu mặc dù công tác thú y được quan tâm nhưng địa bàng rộng nên vẫn còn nhiều chưa đươc tiếp cận thường siêng với dịch vụ thú y và ở đây chỉ có một thú y viên.
4.1.2. Tình hình nhiễm giun đũa theo tháng tuổi
Mỗi độ tuổi khác nhau hay mỗi giai đoạn sinh trưởng và phát triển khác nhau khả năng tiếp xúc, cảm nhiễm với yếu tố gây bệnh của lợn là khác nhau. Theo một số công trình nghiên cứu về giun đũa lợn trước đây, ta thấy rằng ở các độ tuổi khác nhau tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun đũa lợn có sự khác biệt nhất định. Ở các độ tuổi tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm là không giống nhau:
Trịnh Văn Thịnh, Phạm Văn Khuê, 1982 cho biết:
Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 39,2%
Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 48,0%
Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 58,3%
Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 24,9%
Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương, 1995 cho biết:
Lợn dưới 3 tháng tuổi nhiễm 49,8%
Lợn 3-4 tháng tuổi nhiễm 67,1%
Lợn 5-7 tháng tuổi nhiễm 62,6%
Lợn trên 7 tháng tuổi nhiễm 40,6%
Những công bố đã cho chúng ta thấy rõ lợn ở các lứa tuổi khác nhau thì có tỷ lệ và cường độ nhiễm khác nhau. Một trong những yếu tố cần quan tâm về mặt dịch tể học để phục vụ tốt công tác phòng và trị bệnh giun đũa cho lợn là đánh giá tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn theo từng độ tuổi. Vì vậy, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tình hình nhiễm giun đũa lợn trên địa bàn huyện M’đrăk ghi nhận được kết quả ở bảng biểu sau:
BẢNG 4: Tháng Tuổi
Tháng Tuổi
Số Con Nghiên cứu ( con)
Số Con Nhiễm
( +)
Tỷ lệ Nhiễm
( %)
Cường Độ Nhiễm
( )
< 3
63
17
26,98
3,067 0,371
3 - 5
150
65
43,33
6,116 0,497
> 5 - 7
94
30
31,91
6,375 0,770
> 7
48
13
27,08
5,067 0,968
Tổng
355
125
35,21
5,546 0,348
(p- value = 0.045 < 0.05)
Căn cứ vào mức độ khác biệt giữa các độ tuổi và tương ứng với từng giai đoạn sinh trưởng phát triển, chúng tôi đã tiến hành khảo sát tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn trên địa bàn huyện M’đrăk ở 4 độ tuổi khác nhau (5-7 tháng tuổi, >7 tháng tuổi) và nhận thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn ở 4 độ tuổi này có sự chênh lệch khá cao, sự chênh lệch đó được biểu hiện rõ qua qua biểu đồ sau;
Biểu đồ 2: theo tháng tuổi
Qua biểu đồ ta thấy:
Lợn từ 3 đến 5 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm giun cao nhất (43,33%), kế đến là lợn lớn hơn 5 đến 7 tháng tuổi (31,91%), lợn nhỏ hơn 3 tháng tuổi (26,93%) và cuối cùng là lợn lớn hơn 7 tháng tuổi (27,08%).
Theo nhận định của chúng tôi lợn ở độ tuổi 3 đến 5 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao nhất (43,33%) là do lợn chăn nuôi theo phương thức gia đình là chủ yếu, điều kiện chăm sóc vệ sinh thú y không được đảm bảo. Bên cạnh đó, lợn được nuôi theo hình thức tập trung theo đàn (8-12 con/đàn) nên khi trong đàn có con bị nhiễm giun đũa thì có thể lây nhiễm cho các con khác trong cùng đàn. Lợn ở giai đoạn này được nuôi chủ yếu bằng tận dụng thức ăn cũng có sử dụng cám công nghiệp nhưng còn hạn chế. Vì vậy mà tỷ lệ nhiễm giun đũa còn khá cao.
Lợn ở độ tuổi nhỏ hơn 3 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn thấp (26,93%). Do lợn ở giai đoạn này là giai đoạn bú sữa mẹ và cũng bắt đầu tập cho lợn con ăn nhưng thức ăn chủ yếu là thức ăn công nghiệp, với độ tuổi này nếu bị nhiễm giun đũa lợn thì phần lớn chưa có khả năng đẻ trứng vì vòng đời giun đũa lớn từ trứng đến giun trưởng thành cần tối thiểu từ 45-60 ngày tuổi. Vì vậy, đã hạn chế được khả năng lây nhiễm của mầm bệnh. Muốn giảm tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn ở giai đoạn thì cần thực hiện tốt công tác vệ sinh chuồng trại, cần tẩy giun cho lợn mẹ trước khi mang thai để giảm thiểu khả năng lây nhiễm từ mẹ sang con qua đường bảo thai và qua sữa mẹ.
Lợn ở độ tuổi từ 5-7 tháng tuổi có tỷ lệ nhiễm giun đũa (31,91%) cao hơn lợn lợn nhỏ hơn 3 tháng tuổi (26,93%). Do lợn ở giai đoạn này chủ yếu là lợn nái, lợn đực đang ở giai đoạn hậu bị, giai đoạn này lợn đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bao_cao_khoa_luan_1358.doc