Đề tài Khoa học – lực lượng sản xuất trực tiếp

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 2

1. Khoa học trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” 3

1.1. Mối quan hệ giữa cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng lực lượng sản xuất. 3

1.2. Khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền sản xuất hiện đại . 4

1.2.1.Những điều kiện để khoa học trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp" 5

1.2.2. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được biểu hiện dưới nhiều hình thức: 6

2. ứng dụng của khoa học trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam 8

2.1. Vai trò nền tảng của khoa học công nghệ trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam 8

2.2. Những đóng góp của khoa học trong thời kỳ đổi mới. 11

2.2.1 Trong nông, lâm, ngư nghiệp. 11

2.2.2. Trong công nghiệp, giao thông, xây dựng. 13

2.3. Những quan điểm chủ trương của nhà nước để đưa khoa học thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. 14

2.3.1.Đối với phía sử dụng sản phẩm khoa học công nghệ. 14

2.3.2.Đối với phía cung cấp sản phẩm khoa học công nghệ. 15

2.3.3.Về chính sách tài chính cho khoa học. 15

2.3.4.Về đổi mới cơ câú và phương thức hoạt động của các tổ chức khoa học. 16

2.3.5.Chính sách đối với cán bộ khoa học công nghệ . 16

Phần kết luận 18

Tài liệu tham khảo 19

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khoa học – lực lượng sản xuất trực tiếp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền sản xuất hiện đại . Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trước đây và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, khoa học ngày càng thể hiện một cách rõ ràng đưới dạng một thực tiễn xã hội trực tiếp nhờ quá trình không ngừng biến đổi của nó, từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng thành lực lượng sản xuất trực tiếp .Bước chuyển này của khoa học chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện nhất định : 1.2.1.Những điều kiện để khoa học trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp" Điều kiện đầu tiên thuộc về sản xuất:nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ phát triển phát triển nhất định .Trong nền sản xuất xã hội còn ở trình độ thấp, khoa học không thể trực đi sâu vào sản xuất mà phải qua khâu trung gian:khâu thực nghiệm khoa học. Từ những thành tựu thu được qua thực tĩên, thực nghiệm khoa học ,con người tìm cách vận dụng chúng vào trong sản xuất. Quá trình này diễn ra rất chậm chạp .Trong điều kiện như vậy, khoa học chỉ có thể biểu thị như một lực lượng sản xuất tiềm năng chứ chưa thể trở thành lưc lượng sản xuất trực tiếp .Ngược lại, khi sản xuất xã hội đã đạt đến trình độ phát triển cao, chính sản xuất lại đặt ra hững vấn đề mới,phức tạp đòi hỏi khoa học phải có những phương thức giải quyết phù hợp, để thúc đẩy sản xuất phát triển và qua đó khoa học cũng phát triển theo .Như vậy, trong điều kiện này, sản xuất đã tạo ra những cơ sở quan trọng, những nhu cầu cấp thiết cho sự xuất hiện của những tri thức khoa học mới, những ngành khoa học mới.ở đây, khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động theo kiểu khoa học cũng được, mà không có khoa học cũng không sao; khoa học đã tham gia một cách tích cực, chủ động và trở thành một yếu tố không thể thiếu được của qúa trình sản xuất xã hội .Và chỉ có đến lúc này,khoa học mới có điều kiện để trở thành lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện thứ hai thuộc về sự phát triển của bản thân khoa học:khoa học phải phát triển đến một trình độ nhất định, mà ở đó, nó có thể đủ sức để giải quyết những vấn đề do thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn sản xuất đặt ra. Trong nền sản xuất hiện đại, không có một vấn đề nào của sản xuất đặt ra mà tri thức của một ngành khoa học, thậm chí là của vài ngành khoa học cụ thể có thể giải quyết được hoàn toàn. Tổng hợp khoa học , tổng hợp tri thức là xu hướng phát triển của khoa học ngày nay và điều này hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thực tiễn sản xuất hiện đại. Ngày nay, trong khoa học đang diễn ra một quá trình tương tác mạnh mẽ giữa các khoa học, qúa trình liên kết khoa học theo hướng tổng hợp tri thức của khoa học hiện đại và đó chính là điều kiện quan trọng và tối cần thiết để biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Điều kiện thứ ba để khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đó chính là sự quán triệt nguyên lý triết học duy vật biện chứng về sự thống nhất giưã lý luận và thực tiễn, mà nếu ứng dụng vào quá trình sản xuất vật chất, thì đó chính là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động khoa học. Thực tiễn, trước tiên là thực tiễn sản xuất xã hội, là nguồn gốc, là động lực của nhận thức khoa học, đồng thời cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Do vậy, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ là con đường ngắn nhất để xác định độ chính xác, đúng đắn, tính chân lý của tri thức khoa học. Sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất và hoạt động khoa học là đặc trưng cơ bản của xã hội hiện đại được xây dựng trên cơ sở của nền sản xuất hiện đại và khoa học tiên tiến. -->Như vậy, cùng với sự phát triển của xã hội, vai trò của khoa học ngày càng được tăng cường, nhất là trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học vừa là sự biến đổi, vừa là quyền lực, vừa là sự giàu có, là một yếu tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển, sự thịnh suy của công ty, một dân tộc, một đất nước, một khu vực trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của thế giới hiện đại. 1.2.2. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp được biểu hiện dưới nhiều hình thức: Trước hết, tri thức khoa học được vật thể hoá thành máy móc tinh vi, hiện đại như các loại máy vi tính, siêu vi tính các công cụ, các loại máy công nghệ tự động hoá, các thế hệ người máy (ro bot); tạo ra các loại công nghệ mới như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,công nghệ vật liệu mới... Điều này không chỉ mang lại hiệu quả năng suất lao động cao hơn, chất lượng tốt hơn mà còn góp phần quan trọng vào việc tiết kiệm nguyên liệu, tạo ra các loại vật liệu mới vốn có sẵn trong tự nhiên; giảm thời gian lao động phải chi phí cho một đơn vị sản phẩm. Thực tế sản xuất ở các nước sản xuất công nghiệp phát triển đã cho thấy rằng: tri thức khoa học ngày càng chiếm một hàm lượng cao trong giá trị sản phẩm, nguồn lợi do khoa học mang lại cũng ngày càng cao hơn. Cụ thể là, vào những năm đầu của thé kỷ XX khi chỉ có một bộ phận nhỏ của thế giới bước vào công nghiệp hoá, khi mà sự phát triển của khoa học chưa được gắn chặt với kỹ thuật và sản xuất, thì lao động chân tay, tính trung bình, chiếm một tỷ lệ cao, tới 9/10 trong giá trị sản phẩm. Còn đến những năm 90, khi hầu hết các nước trên thế giới đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và ở nhiều nước đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, thì tỷ lệ đó đã giảm xuống còn 1/5, trong khi đó, số lượng sản phẩm tăng 10 lần, Với đà phát triển như ngày nay của khoa học công nghệ, tỷ lệ đó còn tíêp tục giảm mạnh đến năm 2010 (thế kỷ XX) có thể chỉ còn 1/10.Trong thống trị của công nghệ thông tin, trí năng hoá sản xuất đang là xu hướng tất yếu, và cũng là động lực mạnh mẽ của sự phát triển xã hội . Nguồn lợi do công nghệ thông tin mang lại ngày càng tăng.Trong những năm 8o và những năm 90, ở Nhật Bản nguồn lợi do tin học mang lại chiếm tới 40% sản phẩm kinh tế quốc dân. Biểu hiện quan trọng của vịêc khoa học trở thành lực lượng sản trực tiếp là ở chỗ, khoa học cùng với quá trình giáo dục và đào tạo đã ra những người lao động mới: những con người của trí tụê sáng tạo, vừa có tri thức chuyên sâu nghành nghề, vừa hiểu biết rộng tầm nhìn xa, bao quát, nhạy bén, vững vàng. Ngưòi lao động chính là lực lượng sản xuất mạnh mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là động lực của mọi sự phát triển xã hội. Ngoài việc đào tạo ra con người lao động mới khoa học còn trực tiếp tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất. Đó cũng chính là một biểu hiện của việc khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Việc tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất ngày nay ở bất kỳ cấp độ nào trong dây chuyền sản xuất đều cần đến tri thức khoa học, nhất là tri thức khoa học quản lý. Cùng một thế hệ máy móc như nhau, cùng sản xuất ra một loại sản phẩm như nhau nếu biết tổ chức quản lý, điều hành công việc tốt thì sẽ đem đến hiêụ quả cao hơn. Một tác nhân vô cùng quan trọng đối với sản xuất trong điều kiện của nền kinh tế thị trường mang tính quốc gia và quốc tế hiện nay là thông tin. Thông tin là sản phẩm của khoa học, là sự biểu hiện của khoa học. Trong xã hội thông tin, kẻ giàu, kẻ mạnh, kẻ chiến thắng, thường không phải là kẻ trường vốn, lắm lao động, mà là kẻ nắm bắt thông tin một cách nhanh nhạy, đặc biệt là thông tin khoa học công nghệ và thông tin thị trường. Bởi vì nhờ nắm bắt thông tin mới có thể thay đổi kịp thời công nghệ để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp vưới nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, giúp cho việc lưu thông hàng hoá nhanh chóng. Nắm bắt thông tin kịp thời, nhanh chóng còn giúp cho sản xuất và kinh doanh mở rộng thị trường, dự ba ó và đón đầu nhu cầu của người tiêu dùng, của xã hội, nhờ đó có thể giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường.Trong thời đại thông tin chỉ cần chậm một bước trong việc nấm bắt thông tin cũng có thể phải trả giá đắt như thua lỗ, mất bạn hàng, thiệt hại, thậm chí dẫn đến phá sản. Bởi vậy, việc khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một đặc trưng cơ bản của nền sản xuất hiện đại, đồng thời điều đó cũng chứng tỏ rằng: khoa học ngày càng gắn bó và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. 2. ứng dụng của khoa học trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam 2.1. Vai trò nền tảng của khoa học công nghệ trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam Nước ta vốn là nước nông nghiệp, có nền sản xuất nhỏ, lại bị nhiều năm chiến tranh nên trình độ khoa học công nghệ của chúng ta vẫn còn rất lạc hậu so với các nước khác trên thế giới đặc bịêt là những nước phát triển. Công cuộc đổi mới của chúng ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo được tiến hành từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986.Ngay từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng và Nhà Nước ta đã quan tâm hoàn thiện và đổi mới, quan điểm các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Nghị quyết 26 của Bộ chính trị đã nêu rõ: “Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, coi khoa học là một động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn dịnh tình hình và phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi những người làm khoa học là đội ngũ cán bộ tin cậy, quý báu của Đảng, Nhà Nước và nhân dân ta”. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội VIII vưà qua Đảng đã nhấn mạnh:khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học công nghệ. Quan điểm và chủ trương trên đây về khoa học và công nghệ trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị truờng có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính là căn cứ vào tình hình thực tiễn của đất nước, vừa ra khỏi chiến tranh ác liệt kéo dài và tiếp theo là giai đoạn trì trệ khủng hoảng, nhưng đã đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu trong quá trình đổi mới, cần phải tranh thủ mọi thời cơ, trong đó có thời cơ về tiếp thụ khoa học và công nghệ tiên tiến để tăng nhanh lực lượng sản xuất, vươn nhanh lên phía trước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây còn là sự phù hợp với đặc diểm khách quan của thời đại. Thực tiễn phát triển của qúa trình đổi mới, nhất là từ cuối những năm 80 đến nay, đã chứng tỏ việc đổi mới công nghệ tiên tiến là một yếu tố rất quan trọng để đạt được các thành tích đáng kể bước đầu. Trong tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước liên tục đạt khoảng 8% mấy năm qua, ngoài yếu tố chuyển đổi cơ chế, mở cửa hội nhập với thị trường khu vực và thế giới, thì yếu tố tăng lực lượng sản xuất qua vốn, lao động và công nghệ rất quan trọng. Chúng ta thưòng thấy nổi lên vấn đề lớn cũng là để đổi mới và tiếp thu công nghệ (mua thiết bị và quy trình công nghệ), và nâng cao trình độ tay nghề và kiến thức cho lao động (yếu tố công nghệ mới trong lao động). Trong nông nghiệp, sau khi có cơ chế khoán hộ gia đình và khuyến khích nhiều thành phần kinh tế, vấn đề nổi lên rõ rệt là yêu cầu bức xúc về công nghệ mới, với các giống cây trồng, vật nuôi mới, có năng suất cao hơn. Trong công tác “xoá đói giảm nghèo”, nếu chỉ cho vay vốn mà không kèm theo kết hợp sử dụng vốn theo công nghệ, quy trình qua hình thức khuyến nông thì hiệu quả sẽ rất hạn chế.Trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn ngày nay, khâu trung tâm chính là công nghệ “kết tinh trong vốn”. Trong lĩnh công nghiệp chế biến, công nghịêp nhẹ v.v...càng thấy rõ vai trò của tiếp thu công nghệ mới: các sản phẩm của ngành bia, nước giải khát, công nghiệp dệt may ... nhờ các dây chuyền công nghệ mới do liên doanh cùng với lao động được huấn luyện, đã cạnh tranh được với sản phẩm nước ngoài và bước đầu xâm nhập vào thị trường quốc tế. Rất đáng tiếc, chúng ta chưa có đủ hệ thống kế toán thống kê cần thiết để đánh giá đóng góp của khoa học công nghệ vào sự tăng trưởng kinh tế trong những năm qua, như ở nhiều quốc gia khác. Hiện nay trong hàng ngũ các nhà doanh nghịêp và quản lý của chúng ta vẫn còn một bộ phận mang nặng “tư duy bao cấp” về công nghệ.Thực ra công nghệ là một loại tư bản đặc biệt có ý nghĩa quan trọng của lực lượng sản xuất mới. Trong nền kinh tế thị trường, dù có sự quản lý của Nhà nước thì cũng chỉ có công nghệ mới bằng hình thức trao đổi hàng hoá: trên thương trường quốc tế, thị trường công nghệ là một bộ phận quan trọng, có doanh số hàng năm tới trăm tỉ đô la Mỹ. Chúng ta xuất phát từ một nông nghịêp, nền công nghiệp còn lạc hậu, thuộc vào nước đang phát triển ở mức thấp. Bởi vậy bắt buộc chúng ta phải “truy lĩnh” nhiều ngành công nghệ truyền thống như công nghiệp chế biến nông sản, công nghịêp nhẹ, các ngành công nghiệp về tư liệu sản xuất như sắt, thép, xi măng... Những ngành này thực ra đã phát triển từ thế kỷ trước sang đầu thế kỷ này ở nhiều nước công nghệ phát triển, và người ta thường xếp chúng vào loại đang “xuống dốc”. Nhưng chính trong các lĩnh vực này còn đang rất quan trọng đối với chúng ta, chúng ta phải “tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định” để đi tắt, đón đầu để thay đổi tình thế “xuống dốc” của chúng ta trong quá trình công ghiệp hoá, hiện đại hoá. Ví dụ với công nghiệp xi măng, chúng ta phải tiếp thụ ngay công nghệ hiện đại với quy trình khô, nhiều công đoạn được xử lý và nước thải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường, tiêu thụ năng lượng trên một đơn vị sản phẩm thấp nhất và lượng bã thải rắn ít nhất v.v...Như vậy, không những sẽ có đủ vài chục triệu tấn xi măng hàng năm để xây dựng đất nước mà còn có thể xuất khẩu ra nước ngoài với giá cạnh tranh được, dựa vào ưu thế tài nguyên và nguyên liệu mới. Rõ ràng ở đây chỉ có “truy lĩnh cái mới” mới đảm bảo cho thành công. Hiển nhiên với các ngành công nghệ đang đi lên như công nghịêp điện tử - tin học-vĩên thông, công nghệ sinh học, công nghiệp năng lượng mới, công nghệ vật liệu mới, công nghiệp đại dương, công nghiệp hàng không- vũ trụ v.v... chúng ta phải hết sức tranh thủ thời cơ, lựa chọn được lĩnh vực có nhiều khả năng thuận lợi để nhập cuộc. Quan điểm và cách tiếp cận đối với các ngành công nghiệp truyền thống và công nghiệp với công nghệ cao nói trên đã được chứng tỏ có hiệu quả không những bước đầu ở nước ta trong quá trình đổi mới, mà còn ở những nền kinh tế phát triển mới (NIC) như Hàn Quốc, Đài Loan... Trong nền kinh tế thị trường, sự hội nhập với thị trường thế giới trở nên tất yếu. Nhưng đồng thời cũng là một thách thức sống còn của sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường quốc tế và khu vực. Nếu chỉ giới hạn trong phạm vi cạnh tranh lành mạnh thì trước hết đó là cạnh tranh về chất lượng, giá cả của sản phẩm.Tuy nhiên còn nhiều yếu tố mới có vai trò ngày càng lớn trong cạnh tranh như: nghệ thuật và năng lực tiếp thị, sự đáp ứng và dự báo kịp thời thị hiếu, mạng lưới phân phối đúng thời hạn, mạng lưới dịch vụ sau giao hàng thuận tiện, danh tiếng và triết lý kinh doanh của hãng...Ngày nay cạnh tranh hàng hoá ngày càng trở lên khắt khe và phức tạp. Bởi vậy, nếu không được hỗ trợ bằng một lực lượng khoa học công nghệ tiên tiến hàng đầu thế giới thì không thể nào vị trí của sản phẩm trên trường quốc tế. 2.2. Những đóng góp của khoa học trong thời kỳ đổi mới. Trong gần 20 năm qua, khoa học công nghệ thực sự đã có những đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Thông qua các chương trình khoa học công nghệ, hoạt động nghiên cứu khoa học đã gắn kết chặt chẽ hơn với sản xuất, đời sống và mang lại những hiệu quả kinh tế thiết thực. Kết quả nghiên cứu của nhiều đề tài đã được áp dụng vào sản xuất, tạo ra sản phẩm mới có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, thay thế hàng nhập ngoại, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. Có thể điểm qua một số thành tựu nổi bật trong 10 năm gần đây: 2.2.1 Trong nông, lâm, ngư nghiệp. Về nông nghiệp trong 5 năm 1996-2000 đã có 171 giống cây trồng, vật nuôi được công nhận. Cho đến nay đã có trên 80% diện tích lúa, 60% diện tích ngô lại được gieo trồng bằng các giống mới, năng suất cao. Trong năm 2002 tổng diện tích lúa đạt 7.463 nghìn ha: năng suất lúa bình quân cả năm đạt 45,1 tạ/ha; tăng xấp xỉ 4 tạ so với năm 1999; sản lượng lương thực cả nước đạt 33.62 triệu tấn, tăng 2,23 triệu tấn so với năm 1999. Nguyên nhân chủ yếu là do áp dụng các giống cao sản mới, các kỹ thuật canh tác tiên tiến làm cho năng suất tăng lên trong khi diện tích tăng không đáng kể. Đặc biệt chúng ta đã tạo ra được nhiều giống ngô lai chất lượng tương đương ngô lai nhập khẩu với giá chỉ bằng 1/3-2/3, góp phần giành lại 60% thị phần giống ngô lai trong nước từ tay các công ty đa quốc gia (trong khi Thái Lan chỉ giành được 25-30% thị phần). Nhờ kết quả này, nước ta đã tiết kiệm được 10 triệu USD/năm và làm lợi cho nông dân 300-400 tỷ đồng/năm khi tham gia sản xuất giống và ngô thương phẩm. Nhờ những công trình nghiên cứu đồng bộ về giống, về quy trình nuôi trồng và phương thức tổ chức sản xuất nên nghề trồng nấm ăn trong 5 năm lại đây đã đi vào thế ổn định và phát triển ở quy mô xí nghiệp, trang trại, hộ gia đình. Tổng sản lượng nấm ăn hàng năm hiện nay của cả nước là 100.000 tấn, đạt giá trị là 1500 tỷ đồng( xuất khẩu 40%, tương đương 40 triệu USD) và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100 000 lao động với thu nhập khá cao(15-20 nghìn một ngày công). Riêng phía Bắc, trong vòng 5-7 năm qua đã có bước tiến vượt bậc với sản lượng tăng 20 lần so với 1996. Hiện nay các tổ chức khoa học đang nghiên cứu cơ sở khoa học để hình thành các làng nghề trồng nấm ăn phục phụ cho chương trình xuất khẩu 1triệu tấn sản phẩm /năm(trị giá 1tỷ USD) vào 2010. Trong lâm nghiệp, nhờ áp dụng khoa học công nghệ, nhiều địa phương, lâm trường, hộ nông dân đã trồng rừng kinh tế có lãi. Bằng việc áp dụng công nghệ, hom nhân nhanh các giống cây làm nguyên liệu cho sản xuất giấy có năng suất cao, đã nâng năng suất lên gấp 3 lần trong 1 chu kỳ sản xuất, góp phần quan trọng vào việc ổn định vùng nguyên liệu cho công nghiệp giấy và gỗ nhân tạo, đóng góp tích cực vào mục tiêu trồng 5 triệu ha rừng ở nước ta. Nổi bật là việc đầu tư gần 3 tỷ đồng cho trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh thực hiện đề tài nghiên cứu ứng dụng công nghệ mô, hom để nhân nhanh giống bạch đàn và keo lai phục vụ trồng rừng nguyên liệu. Nhờ đó, Trung tâm này đã xây dựng được 1 cơ sở sản xuất giống công suất 3-4 triệu cây/năm và làm lợi 45-60 tỷ đồng trong một chu kỳ sản xuất so với phưong thức trồng rừng trước đây. Kinh nghiệm nuôi cấy mô, hom đã được chuyển giao cho các cơ sở sản xuất khác, mang lại lợi ích cho hàng chục cơ sở sản xuất cây giống. Điều quan trọng hơn là việc ứng dụng công nghệ này đã khẳng định trồng rừng kinh tế có lãi-một điều mà trước đây không ai dám khẳng định. Hiện nay, cây bạch đàn và keo lai đã được thừa nhận như là loại cây không thể thiếu trong chương trình 2 triệu ha rừng kinh tế và có mặt trên nhiều khu vực đất xấu, đất hoang hóa ở các vùng trung du phía Bắc, góp phần không nhỏ vào việc phủ xanh đất trống,đồi trọc và trồng mới 5 triệu ha rừng. Trong lĩnh vực thuỷ sản, nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu là một trong những thế mạnh của Vịêt Nam. Trong hơn 2tỷ USD giá trị thuỷ sản xuất khẩu hàng năm có sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ. Sự đóng góp này thường ở khâu đột phá quan trọng, có tính quyết định trong nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển. Cụ thể là: Việc chuyển giao các công nghệ sản xuất giống và công nghệ nuôi trồng sú năng suất cao(5,5 tấn/ha) đã tạo cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang nuôi trồng thuỷ sản ở các tỉnh ven phía Bắc, giúp tìm ra được mặt hàng xuất khẩu quan trọng cho vùng đồng bằng sông Hồng. Việc ứng dụng công nghệ nuôi tôm trên cát đã khởi đầu cho phong trào nuôi tôm ở các tỉnh ven biển miền Trung, tạo điều kịên cho các tỉnh này sử dụng vùng đất cát hoang hoá và chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang nuôi trồng thuỷ sản với hiệu quả kinh tế cao. Đã xuất hiện nhiều mô hình đạt năng súât 10 tần/ha, mang lại lợi nhuận đạt 100 triệu đồng/ha. Bằng việc áp dụng các tiến bộ của khoa học công nghệ sinh học trong điều khiển giới tính, chúng ta đã hoàn thiện công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính và siêu đực.Công trình nghiên cứu này được đầu tư gần 2 tỷ đồng và đã tạo ra được công nghệ sản xuất giống và quy trình nuôi làm cơ sở cho vịêc phát triển chương trình xuất khẩu300 000 tấn cá rô phi với doanh số 600 trăm triệu USD vào năm 2010. Việc nghiên cứu thành công và ứng dụng rộng rãi công nghệ sản xuất giống cá ba sa, thay thế hoàn toàn vịêc phải nhập cá giống từ Campuchia, hạ thành cá giống chủ động trong sản xuất, góp phần quan trọng trong việc khôi phục và phát triển nghề nuôi cá bè. Mới đây trong khuôn khổ chương trình khoa học công nghệ, chúng ta đã thành công trong vịêc sản xuất các giống cua biển, ốc hương và cá song, mở ra triển vọng mới cho việc phát triển các mặt hàng có giá trị kinh tế cao. Đây sẽ là những đột phá tiếp theo của khoa học công nghệ phục vụ cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta. 2.2.2. Trong công nghiệp, giao thông, xây dựng. Lãnh vực công nghệ điện tử-truyền thông và công nghệ thông tin: Đã ứng dụng các công nghệ mới trong việc phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông như: phát triển và nâng cấp 5 mạng thông tin cáp quang liên tỉnh, quốc gia , quốc tế, nâng cao độ đường truyền.Đã tích cực nghiên cứu xây dựng đề án phóng vệ tinh viễn thông VINASAT. Đã triển khai đề án thông tin quản lý hành chính của chính phủ ở tất cả các bộ, ngành, địa phương. Đồng thời các mạng tin học ở các cơ quan Đảng Quốc hội cũng đang được nâng cấp phát triển. Chúng ta cũng đang nghiên cứu xây dựng đề án tham gia ASEAN điện tử trong nhiều lĩnh vực như: tài chính, ngân hàng, hải quan....Đã nghiên cứu thành công bộ mã chuẩn tiếng Vịêt UNICODE đang đưa vào ứng dụng trong phạm vi cả nước. Lĩnh vực giao thông vận tải: Sự đầu tư của khoa học công nghệ đã giải quyết được nhiều vấn đề về công nghiệp đóng tàu Việt Nam. Nhờ sự đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp sản xuất, các nhà doanh nghiệp đã cùng các nhà khoa học chế tạo ra các loại tàu siêu tốc, tàu vận tải có sức trở lớn. Đặc bịêt cuối năm 2002 đã hạ thuỷ an toàn tàu chở hàng trọng tải 11.500 tấn. Nhờ có nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, ngày nay các chuyên gia Việt Nam đã có thể làm chủ công nghệ, thiết kế và chỉ đạo thi các công trình cầu theo phương pháp đúc hẫng, cầu dây văng, nhà ga, bến cảng có quy mô và trình độ công nghệ ngang tầm với các công trình cùng loại với các nước trong khu vực. Lĩnh vực xây dựng:Nhờ nghiên cứu khoa học, chúng ta đã làm chủ được công nghệ thiết kế, thi công các toàn nhà cao tầng, điều mà 10-15 năm về trướcgiới khoa học xây dựng không dám nghĩ tới.Mới đây các nhà khoa học trong nước đã nghiên cứu thành công và tổ chức trình diễn kỹ thuật dây chuyền sản xuất tấm lợp không sử dụng Amiăng bằng nguyên vật liệu trong nước, giúp cho hàng chục cơ sở sản xuất tấm lợp Amiăng không bị đóng cửa và hàng vạn công nhân tiếp tục có việc làm. 2.3. Những quan điểm chủ trương của nhà nước để đưa khoa học thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Để đưa khoa học thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế, hoàn thành những nhiệm vụ chủ yếu mà kết luận hội nghị Trung ương khoá 6 đề ra, đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của các nhà khoa học, các nhà quản lý cũng như các nhà doanh nghiệp. Một số vấn đề sau cần được triển khai có hiệu quả trong thời gian tới: 2.3.1.Đối với phía sử dụng sản phẩm khoa học công nghệ. Để nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong tíên trình hội nhập kinh tế, cần nhanh chóng tạo ra môi trường vừa đòi hỏi, vừa khuyến khích và hỗ trợ danh nghiệp đổi mới công nghệ. Đây chính là bài học thành công lớn của các nước công nghiệp hoá muộn. Điều này thể hiện ở các cải cách về kinh tế theo hướng giảm dần chế độ bảo hộ, độc quyền..., tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng nhằm thúc đẩy các doanh nghịêp quan tâm hiệu quả tới hiệu quả sản xuất, kinh doanh, từ đó thôi thúc các doanh nghịêp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ, tinh toán hiệu quả khi lựa chonh công nghệ và tích cực ứng dụng các kết quả khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Giải phát quan trọng nhất là phải đẩy nhanh tỗc độ đổi mới doanh nghiệp nhà nước thông qua: cổ phần hoá, sáp nhập, giải thể, phá sản giao bán, khoán kinh doanh... Đối với nền kinh tế nói chung, các chính sách này là điều kịên sống còn, đối với khoa học công nghệ, đây chính là sự kích cầu và tăng cường năng lực tiếp nhận khoa học công nghệ của nền kinh tế, đồng thời là điều kiện tiên quyết để phát triển thị trường công nghệ. Về phần mình, bộ khoa học công nghệ đang chủ động làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các bộ nghành, địa phương tập trung nghiên cứu và áp dụng các chính sách hỗ trợ doanh gnhiệp đẩy mạnh việc xây dựng và nâng cao năng lực đổi mới công nghệ, tạo sức cạnh tranh sản phẩm của mình và chủ động tham gia hội nhập kinh tế quỗc tế. 2.3.2.Đối với phía cung cấp sản phẩm khoa học công nghệ. Bộ khoa học công nghệ sớm thực hiện các chính sách và biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm khoa học công nghệ, kể cả giám định độ tin cậy, chất lượng và giá cả trước khi chuyển giao hoặc bán cho doanh nghiệp.Khuyến khích cán bộ và tổ chức khoa học công nghệ chấp nhận khó khăn thử thách, bám sát thực tiễn, đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35720.doc
Tài liệu liên quan