MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọnđề tài. 7
II. Lịch sử vấn đề. 7
2.1. Không gian, thời giannghệ thuật trong văn chương tự sự Trung Đại. 8
2.2. Không gian, thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục. 9
III. Mục đích vấnđề. 9
IV. Phạm vi nghiên cứu. 10
V. Phương hướng và phương pháp nghiên cứu. 10
PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG I: Sơ lược về tác giả, tác phẩm. 12
I. Tác giả. 12
II. Tác phẩm. 13
2.1. Thể loại. 13
2.2. Kết cấu trong Truyền Kì MạnLục. 13
2.3. Giá trị nội dung. 15
2.4. Giá trị nghệ thuật. 16
CHƯƠNG II: Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục. 18
I. Không gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục 18
1. Khái niệm. 18
2. Không gian nghệ thuật trong TruyềnKì MạnLục. 18
2.1. Không gian thực tại. 19
2.1.1. Không gian thành thị. 19
2.1.2. Không gian làng quê. 20
2.1.3. Không gian núi rừng. 20
2.1.4. Không gian sông nước. 22
2.1.5. Không gian đền chùa. 23
2.1.6. Không gian phủ đệ-dinh thự. 24
2.1.7. Không gian chiếntranh. 26
2.2. Không gian hư ảo. 26
2.2.1. Không gian hư ảo trầnthế. 27
2.2.2. Không gian tiên cảnh. 31
2.2.3. Không gian thiênđường. 34
2.2.4. Không gian địa ngục. 35
2.3. Sự chuyển hóa giữa không gian thực tại và không gian hư ảo. 36
II. Thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục. 39
1. Khái niệm. 39
2. Thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục. 39
2.1. Thời gian thực tại. 39
2.1.1. Thời gian thực tại trong Truyền Kì Mạn Lục gắn liền với biến
cố lịch sử, số phận conngười. 39
2.1.2. Thời gian thực tại trong Truyền Kì Mạn Lục mang tính chất
tuyến tính. 41
2.1.3. Thời gian thực tại trong Truyền Kì Mạn Lục tương ứng với nhu
cầu trần thuật. 43
2.2. Thời gian hư ảo. 46
2.2.1. Thời gian luân hồi. 46
2.2.2. Thời gian tiên cảnh. 47
2.3. Sự chuyển hóa giữa thời gian thực tại và thời gian hư ảo. 48
III. Mối quan hệ giữa không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
trong Truyền Kì Mạn Lục. 50
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6409 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, Nguyễn Dữ không hề lấy không gian
của Cù Hựu làm không gian cho nhân vật mình. Qua cách tổ chức không gian hư ảo
của Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu giúp ta rút ra nhận định đó.
Cả hai câu chuyện của Nguyễn Dữ và Cù Hựu đều có sự tham gia của không
gian hư ảo nơi trần thế. Song cả hai người đều xuất phát từ điểm nhìn khác nhau.
Nguyễn Dữ đã cho hồn ma bóng quế của Nhị Khanh tái hiện trên bước
đường lưu lạc của chồng mình. Có nghĩa là không gian từ thực tế đến hư ảo được
chuyển tiếp từ giấc ngủ của Trọng Quỳ dưới “gốc cây bàng” đến “đám mây đen
bay về Tây Bắc” rồi mới đến cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng này. Toàn bộ sự kiện
gặp mặt của hai vợ chồng Nhị Khanh-Trọng Quỳ được nhà văn bố trí hợp lí lôgíc
trong sự tình cờ: Nhị Khanh đi ngang qua nơi Trọng Quỳ nhờ vả bạn bè ở Quy Hóa.
Hai vợ chồng có dịp hàn huyên đến sáng thì thoắt chốc hình ảnh ấy biến mất.
Vậy là giấc ngủ của Trọng Quỳ chỉ đựơc xem là giấc chiêm bao sau bao
ngày xa cách vợ và chàng mong gặp lại. Cuộc gặp gỡ đó chỉ được lí giải là sự
thương nhớ cố nhân.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 28 Trần Thị Đoan Trang
Như thế, từ cái thực về cái hư, hư đến thực xem ra rất kì lạ nhưng không hề
kì lạ. Nhà văn đã vận dụng yếu tố này rất hay vào phần không gian này. Lí Ngư
trong Nhân tình ngẫu kí đời Thanh có nhận xét: “Muốn đạt tới cái kì thì cái kì phải
xuất phát từ hiện thực, phải hợp lôgíc với cuộc sống, hiện thực phải hợp lôgíc với sự
vật-kì không phải là cái hoang đường quái đản”. Ông cho rằng: “Phàm viết truyện kì
chỉ có thể nên tìm những cái gì gần gũi ngay trước mắt mình chứ không nên tìm
ngoài những thứ nghe thấy, nhìn thấy”[12;124].
Như vậy, Nguyễn Dữ đã đạt được sự chín muồi trong truyền kì, linh hoạt
trong việc tiếp nhận phong cách của Cù Hựu. Ở nhà văn Trung Quốc này ta chỉ
thấy được chàng Triệu Sinh đến với không gian hư ảo qua hình ảnh “gốc cây ngân
hạnh đào” và làm việc chôn cất vợ mình. Sau đó mới đến việc chàng nằm trong
nhà thì hồn ma bóng quế của vợ chàng đi vào. Điều này xem ra không hợp lôgíc.
Như ta đã biết, giữa hai con người sống ở hai thế giới khác nhau muốn gặp
nhau phải mượn một vật thể hay một không gian khác để đến với nhau. Nhưng Cù
Hựu không tạo cho nhân vật mình một không gian cụ thể nào. Giữa người chết và
người sống dường như không có sự ngăn cách không gian. Nguyễn Dữ không làm
thế, ông đã đưa Trọng Quỳ và Nhị Khanh đến với nhau qua giấc mộng trần gian
của Trọng Quỳ.
Lệ Nương và Phật Sinh trong Chuyện Lệ Nương cũng thế. Do loạn lạc nên
hai vợ chồng xa nhau. Vì thương nhớ vợ chàng cất công tìm nàng. Khi gặp lại chỉ là
nấm mộ hoang lạnh. Muốn gặp lại cố nhân chỉ qua cơn mơ trong giấc mộng mà
thôi. Và đó là điều hợp lí. Ông đã dùng hình thức “tiếng gà gáy ba hồi” để đưa Phật
Sinh trở về với không gian thực tế.
Từ hai câu chuyên trên, qua cách xây dựng không gian hư ảo đó giúp ta nhận
ra được tấm chân tình của nhà văn dành cho những số phận của người phụ nữ trong
chế độ phong kiến. Dùng hình thức này để nói hộ sự tha thiết mặn nồng của những
người yêu nhau mà không được gần nhau.
Như thế qua việc tổ chức không gian này cho phép ta thấy được hiện thực
đen tối của xã hội Việt Nam lúc này. Giống như Hàn Vũ nhà lí luận phê bình đời
Đường có nói: “Không được bất bình thì kêu” nghĩa là “Tác phẩm văn học là sản
phẩm của sự phát sinh mâu thuẫn của nhà văn với xã hội: buộc ra đằng mồm thành
âm thanh đều do những nguyên nhân bất bình trong lòng”[12;87].
Nhà văn Nguyễn Dữ đã thay những con người bất hạnh cất lên tiếng kêu đầy
phẫn uất qua cách xây dựng không gian này.
Đến với Chuyện cây gạo ta cũng thấy được sự vay mượn môtíp của Cù Hựu
trong Chiếc đèn mẫu đơn. Song ở phần không gian hư ảo, nhà văn Nguyễn Dữ thể
hiện được dấu ấn phong cách của người Việt Nam sâu sắc.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 29 Trần Thị Đoan Trang
Cả hai nhà văn đều dùng hình thức không gian vắng vẻ ban đêm để cho
nhân vật mình xuất hiện. Thông thường không gian ban đêm mà ta quan niệm là
không khí hoang vắng u tịch của bóng tối, lúc hồn ma bóng quế bắt đầu tìm về với
cuộc sống trần gian. Nhưng nếu ta làm cuộc so sánh cách tổ chức không gian của
hai nhà văn này, ta sẽ thấy Nguyễn Dữ đã có sự sáng tạo trong cách tổ chức cho
nhân vật mình không gian riêng đúng với người dân phương Nam.
Từ điểm nhìn không gian trăng sáng để tạo sự gặp gỡ của Lệ Sinh và Kiều
Sinh. Nguyễn Dữ lại khác, vì là người Việt Nam cho nên ông chọn cho Trình Trung
Ngộ và Nhị Khanh gặp gỡ nhau trên thuyền-không gian của nước ta-thật hợp lí và
đúng trật tự lôgíc vì Trình Trung Ngộ vốn là lái buôn.
Nguyễn Dữ tạo nên không gian hư ảo nơi trần thế thông qua hình ảnh “cây
gạo” lâu năm nằm bên ngôi chùa kế bên sông. Cây gạo cũng chính là nơi trú ngụ
của hai hồn ma Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh trong những đêm trăng sáng. Chính
nơi đây là nơi để bọn chúng tác yêu tác quái lộng hành.
Điều này rất hợp lí giống với suy nghĩ của người Việt Nam. Theo quan niệm
của người dân ta: không gian cây cối um tùm là nơi cư trú của hồn ma bóng quế.
Nguyễn Dữ đã tìm cách giải quyết đúng như ý niệm của nhân dân: cho vị
đạo nhân làm phép trục xuất cây gạo: “Cây gạo bị nhổ bật, cành cây gẫy nát, bị
tước như tước đay vậy. Kế đến nghe tiếng trên không trung có tiếng roi vọt, tiếng
khóc. Mọi người ngẩng lên trông có đến sáu bảy trăm lính đầu trâu gông trói dẫn
hai người đi”[27;36]. Cây gạo mất đi hình ảnh không gian hư ảo không còn nữa.
Loài yêu nghiệt cũng không thể lộng hành, trả lại cuộc sống hàng ngày cho nhân
dân. Điều này thể hiện được quan niệm của nhà văn cũng phù hợp với nguyện vọng
của mọi người.
Chuyện Chiếc đèn mẫu đơn thì lại khác, ông không dùng hình thức nào để
chuyển tiếp không gian hư ảo cả. Không gian nơi hai hồn ma Kiều Sinh và Lệ
Khanh tồn tại bàng bạc khắp nơi: “Từ đấy trở đi ngày nào không mây âm u, đêm
trăng mờ tối thường thấy Kiều Sinh cùng cô gái dắt đi”[1;97]. Hình thức xử phạt và
không gian buổi xử lí hai hồn ma cũng khác so với Nguyễn Dữ. Ta có cảm tưởng đó
là buổi xử cung đầy gượng ép đối với hồn ma không có chỗ nương tựa. Vậy thì,
bằng cách tổ chức không gian ấy, Cù Hựu cho là những hồn ma là u nhọt của xã hội
cần trừng phạt thích đáng.
Nguyễn Dữ không thế, khi tạo dựng không gian “cây gạo” ông đã để cho hai
nhân vật con đường sống. Tác giả hiểu được nguyên nhân của hành động tác yêu
tác quái của hai hồn ma Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh. Không gian hư ảo mà
Nguyễn Dữ thể hiện trong câu chuyện này là sự bứt phá cho ước mơ khát vọng
được kềm nén bấy lâu nay. Nhà văn muốn thay nhân vật mình làm nên điều đó.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 30 Trần Thị Đoan Trang
Chẳng hạn như Chuyện kì ngộ ở trại Tây và Chuyện nghiệp oan Đào Thị đã nói lên
điều này.
Chuyện kì ngộ ở trại Tây, vì không được mọi người quan tâm, không thỏa chí
mơ mộng nên hai loài hoa Kim- Thạch đã tự tìm đến thế giới khác. Ở thế giới ấy
không gian hư ảo đã giúp hai nàng thỏa nguyện ước của mình. Từ sự cảm thông của
Nguyễn Dữ, ông đã xây dựng bước chuyển tiếp từ thực tại đến hư ảo qua lòng trắc
ẩn của người thư sinh họ Hà.
Đó chính là điểm mấu chốt để nhà văn dẫn ta vào thế giới hư ảo mà người
thư sinh họ Hà đang hưởng thụ. Giữa hai loài hoa này với chàng có những phút giây
hạnh phúc và những không gian riêng mà mấy ai có được.
Chàng Hà Nhân cũng giống như Từ Thức đã thực sự rơi vào không gian hư
ảo khác xa hàng ngày: “Qua mấy lần rào, quanh một đoạn đường đi mấy chục
trượng thì đến cái ao sen. Hết sen là đến một khu vườn, cây cối xanh um tùm, mùi
hoa thơm ngát”[27;52]. Những sự vật mà chàng gặp không hề thấy trong cuộc sống
hàng ngày như:” trải chiếu trúc”, “đốt đèn nhựa thông” và có cả mĩ nhân nữa.
Thế là Hà Nhân sống trong không gian xa lạ khá dài ấy mà cứ ngỡ như là
giấc mộng. Khi chàng kết thúc “giấc mơ” của mình là lúc hình ảnh hư ảo biến mất
nhường cho hiện thực: hoa tàn, cánh hoa bay vèo và biến mất. Vậy là giấc mộng
của Hà Nhân và người đẹp kết thúc. Hình ảnh “hai nàng vụt lên không bay mất”
chứng tỏ cuộc yêu đương của Hà Nhân chỉ là cơn mơ giữa cuộc đời đầy những lề lối
cũ xưa.Nó ràng buộc con người, bóp nghẹt mọi ý thức riêng tư của con người.
Nguyễn Dữ đã mượn hình thức không gian hư ảo đó để nói hộ tâm tư của
những kiếp người đau khổ này.
Hàn Thanh là đại diện cho những con người khao khát được yêu nhưng lại bị
số phận cuộc đời đưa đẩy. Vì thế, nàng phải chịu hình phạt cho sự đột phá của mình
bằng phép thuật của sư cụ trên núi “lập đàn tràng ngay trên núi, treo đèn bốn mặt,
lấy bút son vẽ bùa”. Từ hành động trừng phạt của sư cụ, không gian hư ảo hiện lên
qua: “Đám mây đen muôn trượng bao bọc trên núi” rồi tiếng khóc i ỉ trên không
trung, hình ảnh “nước giếng dâng lên ngập cả thềm” hiện ra trước mắt người đọc.
Dù cho Nguyễn Dữ dùng hình thức nào để xây dựng không gian riêng cho mình,
ông vẫn toát lên từ những bất đồng hiện thực cuộc sống.
Chính hai truyện: Chuyện tướng Dạ Xoa, Chuyện cái chùa hoang ở Đông
Trào góp phần làm nên nhận định trên.
Cách xây dựng không gian trong Chuyện tướng Dạ Xoa cho ta biết hiện thực
đen tối của thời kì này.
Xuất hiện trong câu chuyện này là những hình ảnh bọn quỷ sứ lộng hành ăn
cướp ăn trộm của người dân để chúng ăn. Bằng không gian đầy bóng tối âm u bao
trùm, tác giả đã tố cáo tệ nạn ăn của đút của xén của những bọn người được xem là
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 31 Trần Thị Đoan Trang
“công minh”: “Một người mặc áo tía chễm chệ ngồi ở giữa, con những kẻ khác đều
đứng xung quanh, kẻ cầm dao búa, người cầm sổ sách”[27;234]. Họ thì ăn uống no
nê còn người dân thì lao đao khốn khổ mãi. Hai hình ảnh đối lập trong một không
gian hư ảo, nhà văn tạo ra đã để lại dấu ấn trong lòng chúng ta. Chính từ không
gian ấy Nguyễn Dữ đã gửi bức thông điệp đến cho những tệ nạn xã hội phong kiến
lúc bấy giờ.
Ông đã thực hiện được nét đặc sắc trong nghệ thuật truyền thần. Vì theo
Thụy Hương cư sĩ-đời Minh có nói: “Trong ảo có chân đó là mấu chốt của truyền
thần”[12;83]. Nghĩa là, trong sáng tác, tác phẩm đó phải xuất phát từ cuộc sống
hiện thực cho dù tác phẩm ấy có viết từ những sự vật, sự việc hư ảo li kì. Tác phẩm
đó vẫn mang màu sắc chân thực. Vì nó được người đọc cảm giác “trong ảo có
chân”. Nguyễn Dữ đã làm được điều này trong từng câu chuyện của mình.
Chính sự thể hiện không gian hư ảo trong Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa đã
nói đúng nhận định của nhà phê bình đời Minh. Xuất phát từ tư tưởng “hoài cổ”,
“thương kim” Nguyễn Dữ đã cho nhân vật Mao Tử Biên đi từ không gian thực đến
hư ảo qua giấc ngủ bên hai ngôi mộ xa lạ và hoàn cảnh: “gặp cơn mưa gió”. Đó
chính là mấu chốt của sự chân thực để làm nên điều kì ảo. Chỉ là một giấc ngủ,
thông qua “cơn mơ” của chàng thư sinh lỡ bước trên đường về quê gặp cảnh đồng
không quạnh vắng, Nguyễn Dữ đã tái hiện lại đầy đủ không gian của cuộc nói
chuyện của Lã tiên sinh và hai vợ chồng Phù Sinh. Lấy điểm nhìn là “giấc ngủ”
của chàng Mao để chuyển tải không gian hư ảo nên khi dứt khỏi không gian này trở
về hiện thực, tác giả đã dùng đến sự thức tỉnh của Tử Biên qua hình ảnh “mặt trời
mọc, áo đẫm những sương, chỉ có đông tây hai ngôi mộ nhà ai nằm đó”[27;225].
Qua cách xây dựng không gian trong cơn mơ của Tử Biên, Nguyễn Dữ đã
nhắc nhở những thế hệ hôm nay,những bậc nho sinh không được lãng quên xao
nhãng việc văn thơ, bút nghiên. Họ phải chịu trách nhiệm trong việc giữ gìn văn
hóa người xưa đã để lại.
Vậy là, Nguyễn Dữ đã dùng hình thức không gian hư ảo nơi trần thế để biểu
lộ tâm tư của lòng mình. Đồng thời ông đã chuyển tải ý thức hệ của thời đại mà
mình đã sống qua hình ảnh không gian chủ quan này.
2.2.2. Không gian tiên cảnh
Không gian này là không gian lí tưởng. Nơi đây không giống như địa ngục
hay trần thế, thiên đường. Ở không gian này, con người với thần linh cùng tồn tại
song song và hưởng thụ cuộc sống đầy thi vị.
Những người được sống trong chốn này là những con người không gặp may
mắn ở dương gian nay gặp được không gian hư ảo để được hạnh phúc, được bù đắp
những chuỗi ngày đau khổ của mình. Đó là Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 32 Trần Thị Đoan Trang
tiên, Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương, phu nhân của quan thái
sư họ Trịnh ở Chuyện đối tụng ở Long Cung.
Chính sự vận dụng hình thức không gian hư ảo vào trong những câu chuyện
trên cho thấy tư tưởng phi nho giáo của một nhà nho chân chính. Ta bắt gặp tư
tưởng này gần với lão giáo hơn cả.
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, từ thực tế nơi đền chùa đến sự gặp gỡ giữa
Giáng Hương và Từ Thức ở thế giới hư ảo nơi tiên cảnh là cả quá trình sáng tạo của
người nghệ sĩ Nguyễn Dữ. Từ điểm nhìn về không gian núi non hùng vĩ và ý thích
được khám phá những khung cảnh đẹp của đất nước mà Từ Thức đã đến với thế
giới khác lạ so với trần gian: “Chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga mây
xanh ráng đỏ bám ở lan can cỏ lạ hoa kì nở đầy trước cửa” [27;102] và Sinh đã lạc
vào không gian tiên cảnh ấy: một bức tường gấm, những tòa cung điện bằng bạc,
những tấm biển đề “Điện Huỳnh Hư” “Gác Dao Quang” với những không khí khác
thường, đồ vật khác thường chỉ có ở trong thế giới tiên cảnh mới có.
Dưới không gian núi rừng âm u hùng vĩ, lại mọc ra một tòa lâu đài nguy nga
tráng lệ và chỉ có ở những bậc cao nhân tao nhã mới đến được thế giới ấy cùng
những nàng tiên xinh đẹp chỉ có trong mơ.
Quả thật, Từ Thức đã có những phút giây sống nơi non bồng nước nhược:
“người mặc áo gấm cưỡi lưu ly”, “cưỡi xe gió”, “yến tiệc đặt trên gác Dao Quang”,
“quần tiên tụ họp lại xung quanh. . .tiệc bày bằng mâm mã não, dĩa bằng ngọc
thạch, các món ăn đều rất kì lạ. ..” [27;104].
Nguyễn Dữ đã khéo léo vận dụng sự việc hư ảo, không gian tiên cảnh rất
hợp với nhân duyên Từ Thức và Giáng Hương để trở thành một sự việc không thật.
Bằng chứng là thời gian Từ Thức sống trên tiên giới rất ngắn ngủi so với thời gian
hiện thực. Cho thấy, không gian này là nơi lí tưởng cho mọi người sống. Chính vì
sống ở nơi đầy thi vị này mà mọi người không còn nhớ đến thế giới hiện thực nữa.
Điều này hoàn toàn khác với thiên đường hay địa ngục. Bởi nơi này không giống
với bất cứ nơi đâu trong cuộc sống. Thế giới này chỉ có trong ý niệm, ước vọng của
nhà văn. Ở nơi này thần và người cùng chu du, cùng có những hỉ, nộ, ái, ố lẫn lộn.
Con người ta có quyền làm và sống theo ý nguyện của lòng mình, khác hơn với
thiên đường hay địa ngục đều có những quy luật và những ràng buộc mà mọi người
phải tuân theo.
Ở nơi tiên cảnh, Từ Thức và Giáng Hương đều có thể yêu nhau, chung sống
cùng nhau, hưởng thụ cuộc sống mà trần gian không thể tìm thấy được. Từ đó cho
thấy nhà văn đã có sự bứt phá trong tư tưởng Nho gia của mình. Ông đã chịu ảnh
hưởng của Lão giáo và tư tưởng của người dân: luôn khát khao tìm hạnh phúc cho
chính mình.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 33 Trần Thị Đoan Trang
Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ lành mạnh đó, nhà văn cũng góp phần làm
nên triết lí nhân sinh của cuộc đời. Việc Từ Thức sống trong thế giới tiên cảnh vẫn
không nguôi nhớ quê hương cho thấy không gian tiên cảnh chỉ có trong cơn mộng
mị, trong khát vọng cháy bỏng mà thôi. Bởi cuộc sống có đẹp, có thanh thản, có
thoát tục đến đâu thì cũng chỉ là cảnh xa vời. Con người vẫn không quên được hiện
tại cuộc sống nơi mình ngự trị. Dẫu cuộc sống ấy có cực khổ với những buồn vui thì
đó vẫn là thực tại. Việc Từ Thức sống trong thế giới ấy là chút lòng mơ ước, hương
vị góp thêm cho đời bớt khổ đau, bớt bi ai.
Nhà văn đã mang tâm thế như vậy mà gửi gắm trong những câu chuyện:
Chuyện đối tụng ở Long Cung; Chuyện người con gái Nam Xương.
Hai người phụ nữ có cái tên khác nhau nhưng lại có cùng hoàn cảnh giống
nhau. Bởi hai nàng đều bị các thế lực phong kiến chà đạp lên quyền được sống,
được hạnh phúc.
Vũ Thi Thiết khi sống không được chồng tin yêu, nghi kị, hờn ghen vì chiến
tranh ngăn cách. Nguyễn Dữ đã cho nàng sống nơi tiên cảnh với “lung gấm đài dao
nguy nga lộng lẫy”[27;183] cùng với những con người chỉ có ở thế giới ấy: Linh Phi
mặc áo cẩm vân dát ngọc. Từ thế giới hiện thực đến thế giới tiên cảnh chỉ cách một
làn nước nhưng thực sự thế giới ấy đã là chốn bình yênvà công bằng cho con người.
vũ Thị Thiết đã được nhà văn cứu vớt lên từ thế giới huyền hoặc ấy.
Ông muốn người phụ nữ trong chế độ phong kiến được hạnh phúc được sống
với chính ước mơ, khát vọng của đời người chứ không thể bị bó hẹp trong khuôn
khổ giáo điều của”tam tòng tứ đức” mà lễ giáo phong kiến đã ép buộc người phụ
nữ trong chế độ phong kiến phải tuân theo.
Như vậy, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói yêu thương của mình bằng cách tạo
dựng không gian tiên cảnh chốn Long Cung này. Một Vũ Thị khi sống không được
hạnh phúc thì khi chết đi nàng phải được sống trong hạnh phúc dù đó chỉ là thế giới
do nhà văn tạo ra. Nhưng đó chính là sự phản ánh sâu sắc thực trạng cuộc sống mà
người phụ nữ thời phong kiến phải chịu đựng. Cũng giống như nàng Dương Thị, dù
sống trong cảnh lầu đài gác tía có “ngọc lưu li” với lâu đài chi chít “có hoa tường vi
nở rất nhiều trông hình như muôn điểm ráng hồng kết lại trên tường rực rơ õ”[27;70]
nàng vẫn muốn được trở về với chồng của mình. Bởi con người ta thực sự bằng lòng
với chính bản thân mình là lúc người ta nhận ra hạnh phúc đó là của mình
Nguyễn Dữ đã tinh tế trong việc dùng yếu tố kì ảo để làm nổi bật tâm tư tình
cảm cũng như ước nguyện của con người trong cuộc sống. Và ta thấy được ẩn bên
trong cuộc sống không thực ấy là tấm chân tình rất thắm thiết của nhà nho Nguyễn
Dữ .
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 34 Trần Thị Đoan Trang
2.2.3 Không gian thiên đường.
Tồn tại bên cạnh thế giới tiên cảnh, nhà văn còn dựng lên cho tác phẩm
mình một thế giới hoàn mĩ. Thế giới này thực sự bất diệt chỉ dành cho những lí
tưởng thuần khiết và tinh anh. Nó gần như là cõi Niết Bàn mà con người muốn
vươn tới.
Nhân vật sống trong thế giới này không phải là một con người bình thường.
Người đó phải tu nhân tích đức, không có tội lỗi nào dưới trần gian thì mới được lên
thiên đàng.
Truyền Kì Mạn Lục đã phản ánh được ý thức hệ Phật giáo vào trong tác
phẩm sâu sắc bằng các câu chuyện: Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào; Chuyện gã trà
đồng giáng sinh .
Nếu như đường đến thế giới tiên cảnh phải rẽ đôi làn nước, mượn không gian
gián tiếp khác để làm nền thì ở thế giới thiên đường thì hoàn toàn khác hẳn. Nhân
vật khi tiếp xúc với thế giới này hoàn toàn ý thức hoặc làm chủ được bản thân
mình. Bởi họ đã hoàn toàn siêu thoát. Họ khác xa với người bình thường, thành tiên
và không có cuộc sống của người trần nữa.
Đối với họ cuộc sống phải theo quy luật, phép tắc: không được yêu đương,
không ham mê sắc dục, phải thanh cao. Nghĩa là những thứ của hồng trần không
thể làm họ lung lay. Vì thề họ được “đi mây”, “cưỡi gió” để đến với thiên đường.
Và điều đó đã trở thành môtíp ăn sâu vào quan niệm của người Trung Đại. Phạm
Tử Hư trong Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào cũng vậy, anh đã đến với thế
giới thiên đường hoàn toàn khác với thế giới trần gian: “Lên đến trời, Tử Hư thấy có
một khu những bức tường bạc bao quanh, cái cửa lớn khảm trai lộng lẫy, hai bên có
những tòa lầu châu điện ngọc, vằng vặc sáng như ban ngày. Sông Ngân bến sao ôm
ấp lấy đằng trước gió thơm phưng phức đượm ngát quanh hiên. . . [27;126].
Từng địa danh trong chốn thiên đường hiện ra với: Cung Bạch Ngọc, cung
Tử Vi, Cung Tích Đức, cửa Thuận Hạnh, cửa Nho Thần. . .
Chuyện gã trà đồng giáng sinh cũng có đoạn miêu tả không gian cung Tử Vi
nơi mà quần tiên thượng đế tụ họp. Nếu tinh ý ta thấy từng vật thể của thiên đình
đều mang màu sắc tinh khiết sáng trong vằng vặc để có thể thích ứng với tâm hồn
những con người sống trong không gian ấy. Nguyễn Dữ đã ý thức về sự hữu hạn
của con người trong không gian nên ông đã tìm đến sự vô hạn nơi thời gian vĩnh
cửu trong nhân sinh, thanh bình. Nhưng khi đã thực sự sống trong thế giới ấy nhân
vật của ông nhận thấy thế giới ấy chỉ là ảo mộng của đời người.
Như vậy, bằng hình thức xây dựng không gian thiên đình, Nguyễn Dữ đã gửi
bức thông điệp trong cuộc sống: không gian nơi thiên đình có thể đẹp, tinh khiết,
giũ hết mọi ưu phiền cho con người chỉ có hạnh phúc nụ cười, không có nước mắt
nhưng chẳng qua chỉ là thế giới của mộng ảo không thực. Trần gian dù đau khổ
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Không gian và thời gian nghệ thuật trong Truyền Kì Mạn Lục
SV thực hiện 35 Trần Thị Đoan Trang
nhưng không thiếu sự sống, nó có cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Sống trong thế giới ấy
con người mới thấy hạnh phúc. Và vì thế con người dù sống ở đâu vẫn luôn hướng
về cuộc sống trần gian.
2.2.4. Không gian địa ngục.
Không gian này là không gian địa phủ. Nguyễn Dữ muốn dùng hình thức
không gian như thế để cảm hoa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyền kì mạn lục.pdf