Trong nhiều tháng nay đề tài khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu đã được nói đến ở mọi nơi, mọi lúc. Và ở Việt Nam, khi đi vào nhận định tình hình nền kinh tế, nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, xuất phát từ Mỹ chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, nhưng cũng có những ý kiến cho rằng nền kinh tế Việt Nam không chỉ đơn thuần bị ảnh hưởng gián tiếp mà bị ảnh hưởng trực tiếp. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, vả lại ngày nay kinh tế nước ta đã hội nhập đầy đủ với nền kinh tế thế giới, chúng ta không thể không tính đến những tác động sâu xa, mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng toàn cầu đối với Việt Nam, không thể không nghĩ tới một số vấn đề nảy sinh đối với nước ta. Về tác động thì có lẽ nên tính tới cả những tác động ngắn hạn lẫn trung hạn và dài hạn.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2316 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng của các nước và bài học rút ra cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.
- Đến năm 2008 sự đổ vỡ, sát nhập, mua lại của hệ thống ngân hàng tài chính thực sự bùng nổ
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
* 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.* 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
* 14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers .* 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố
=> Sự kiện này được coi là một trận động đất dữ dội đối với thị trường tài chính Mỹ.* 16/09: FED và Bộ tài chính Mỹ quốc hữu hóa công ty bảo hiểm AIG bằng 85 tỷ USD đổi lấy 79,9 % cổ phiếu
* 17/11: Ngân hàng CitiGroup sa thải bớt 50.000 nhân viên cộng với 23.000 đã sa thải năm 2007
* 23/11: Cổ phiếu Citigroup giảm còn 4 USD (năm 2007 giá cổ phiếu này là 50 USD)
* 23/11: Chính phủ Mỹ hỗ trợ 300 tỷ USD cho Citigroup, gồm 25 tỷ tiền mặt cộng với tiền bảo lãnh nợ và tiền ký gửi tại ngân hàng
(Citigroup là ngân hàng lớn thứ hai ở Mỹ - so về phương diện tài sản, có 200 triệu khách hàng tại 100 quốc gia. Cổ phiếu giảm trong một tuần lễ 60 %, còn 4,11 USD. Sau này Citigroup đã bị chia ra làm hai: Citicorp và Citi Holdings)
- Cuối năm 2008, năm 2009 các nước trên thế giới đồng loạt tung các giải pháp nhằm giải cứu nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng
* 16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
* 17/9: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống.
* 19/9: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.
* 20-21/9: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD . Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
* 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
* 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
* 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
* 29/9: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm – mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
* 03/10: Thượng viện Mỹ thông qua kế hoạch Paulson – kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
* 10/10: Họp nhóm G7 (7 nước công nghiệp hàng đầu thế giới), quyết định không để các ngân hàng phá sản.
2.2 Những tác động và hệ luỵ của cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu:
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã để lại một thiệt hại to lớn đối với các nền kinh tế trên thế giới. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn cuộc khủng hoảng đã tàn phá thị trường bất động sản, ngành công nghiệp ô tô, thương mại, gang thép, vận tải, lương thực, năng lượng, công nghệ thông tin. Tài sản tiền tệ toàn cầu bị sụt giảm dẫn đến tình trạng khan hiếm vốn lưu động diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực. Hoạt động sản xuất kinh doanh đình đốn do nhu cầu yếu kém trước viễn cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu vẫn còn bất ổn định.
Theo ước tính của IMF, thiệt hại của cuộc khủng hoảng vừa qua lên đến 1000 tỷ usd. Anh và Mỹ là 2 thị trường hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này phải chịu hậu quả nặng nề nhất, hàng trăm nhân viên ngân hàng, chứng khoán mất việc làm trong hơn 1 năm qua. Còn nếu tính theo đầu người, trung bình thiệt hại là 10000 usd/một người Mỹ, khoảng 30000 bảng anh/ Vương quốc của Nữ hoàng Elizabeth đệ nhị.
Mặc dù chính phủ các nước đã có nhiều biện pháp nỗ lực nhưng suy thoái kinh tế- thất nghiệp - bất ổn định xã hội - đói nghèo vẫn là một vòng luẩn quẩn không thể thoát được.
Xem xét theo từng lĩnh vực cụ thể ta sẽ thấy như sau:
2.2.1 Thứ nhất là đối với chính bản thân nước Mỹ, nơi bắt nguồn của cuộc khủng hoảng
- Cuộc khủng hoảng ở khu vực địa ốc đã kéo theo sự khủng hoảng của hệ thống tài chính Mỹ, khiến cho hệ thống tài chính Mỹ trở nên thiếu tính thanh khoản, bảng cân đối thiếu lành mạnh.
Bảng cân đối thiếu tính lành mạnh ở chỗ: đến thời điểm tháng 6/2008 hệ thống ngân hàng Mỹ nắm khoảng 700 tỉ USD các khoản nợ dưới chuẩn trong tổng tài sản 11.000 tỉ usd, phần còn lại là các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí… Nếu như các khoản cho vay dưới chuẩn này mất hết thì vốn tự co của các ngân hàng cũng sẽ gần bằng không. Khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ sẽ khiến cho các ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu thanh khoản và kéo cả nền kinh tế vào tình trạng này.
- Hệ thống ngân hàng, tài chính, TTCK sụp đổ: Ngay sau khi ngân hàng Lehman Brothers chính thức tuyên bố phá sản, tập đoàn bảo hiểm số 1 AIG đối mặt với nguy cơ khánh kiệt khiến chính quyền Greorge Bush phải can thiệp; rồi một trụ cột khác của nền tài chính Mỹ là Merrill Lynch chỉ sống sót sau khi được ngân hàng Bank of America mua lại một phần vốn; chỉ số chứng khoán tuột dốc mạnh.
- Đồng USD bị mất vị thế trên thị trường quốc tế, không còn chiếm giữ vị trí độc tôn:
- Nợ quốc gia và tư nhân gia tăng, lạm phát phi mã; kinh tế suy thoái, nhu cầu tiêu dùng giảm. Đến 30/9/2009 thâm hụt Ngân sách Mỹ là 1086 nghìn tỷ USD
- Thất nghiệp tăng: theo báo cáo của Bộ lao động đến tháng 3/2009 tỉ lệ thất nghiệp Mỹ cao nhất trong vòng 25 năm qua, tăng từ 0.4% lên 8.5 %; tính từ khi có cuộc suy thoái đến nay thị trường Mỹ mất khoảng 5 triệu 100 ngàn việc làm
2.2.2 Đối với thế giới: Xem xét theo từng lĩnh vực
Tương ứng với những hậu quả nước Mỹ gánh chịu thì thế giới cũng chịu những hậu quả lan truyền tương tự.
2.2.2.1 Đối với hệ thống ngân hàng, tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán:
Một hậu quả rõ nét nhất đó là sự sụp đổ dây chuyền của hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán:
Với hậu quả gần như tức thời là toàn bộ các thị trường tài chính thế giới, từ Wall Street đến tokyo, thượng hải, các chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại châu Âu: Paris, Luân đôn, Frankfurt, Amsterdam cũng cùng chung số phận. Thị trường Matxcơva cũng lâm vào trình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để “ chờ cơn bão đi qua”
Cũng trong tuần lễ đó NewYork, trung tâm tài chính số 1 của quốc tế như ngồi trên lửa với những tin đồn ngân hàng Morgan stanley điêu đứng, đang cố tìm lấy một chiếc phao để qua cơn hoạn nạn.
2.2.2.2 Về kinh tế, chính trị và xã hội;
Sự đổ vỡ của hệ thống tín dụng đã đẩy nền kinh tế thế giới vào cuộc suy thoái sâu rộng nhất trong hơn 70 năm qua. Cuộc suy thoái này bắt đầu khi bong bóng nhà đất của Mỹ lan nhanh,các ngân hàng đổ vỡ, ngừng cho vay và người tiêu dùng cũng như là các doanh nghiệp thắt chặt chi tiêu=> Một hệ quả là khi nhu cầu của Mỹ và châu Âu giảm các thị trường đang nổi một thời thịnh vượng đã mất đi những khách hàng và đối tác đầu tư lớn nhất. ngày càng có thêm dấu hiệu cho thấy kinh tế toàn cầu trong năm 2009 sẽ tăng trưởng âm lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh thế giới lần thứ II.
18 tháng sau kể từ khi cuộc suy thoái bắt đầu, phản ứng kinh tế dây chuyền: từ các ngân hàng đến thị trường, đến người tiêu dùng,rồi đến các công ty đã bước vào một thời kỳ mới. Và một hệ quả tất yếu: những khó khăn về kinh tế sẽ kéo theo những bất ổn về chính trị:
* Sự phát triển các lĩnh vực kinh tế trở lên đình trệ:
Sản xuất Ở châu Âu cũng bị suy sụp vào cuối năm 2008. tháng 12/2008 sản xuất công nghiệp giảm 2.6% so với tháng 11/2008. Đến năm 2009 sản xuất công nghiệp giảm 12% ( từ Báo Mạng Trung đông tháng 3/2009). Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở châu Âu giảm, cùng với việc gắn kết của các nước sử dụng đồng tiền chung Châu Âu giảm. Do thất nghiệp bùng nổ, thâm hụt ngân sách tăng, nước nào lo nước ấy=> Giám đốc nghiên cứu của Trường đào tạo kinh tế cao cấp Ethess, Pháp cho rằng: “ từ tháng 6 đến nay sự phân tán giữa các nước trong khu vực đồng Euro gia tăng đáng kể”
Do thiếu vốn, tính thanh khoản của vốn thấp, hơn nữa những nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào xuất khẩu đã bị suy thoái toàn cầu làm cho trì trệ. Châu Á là khu vực dễ bị tổn thương nhất do sự phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu khi mà tiêu dùng ở Phương Tây sụt giảm nghiêm trọng.
Theo Foreign Affairs- số 7,8/209: đầu năm 2009 phí vận tải đường biển giữa Nam Trung quốc và Châu âu tạm thời rớt xuống mức 0 USD. Khi nhu cầu của người tiêu dùng ở Phương Tây không còn và thu nhỏ lại, các công ty môi giới thực tế đã không lấy phí vận chuyển, và chỉ tính một khoản chi phí bốc xếp tối thiểu. Vào tháng 4/2009, hàng trăm con tàu trống rỗng chiếm hơn 10% năng lực vận tải hàng hoá thế giới vật vờ không tải trên bờ biến Châu Á. Cảng Pusan của Hàn Quốc cũng ko còn đủ chỗ chứa cho 32000 công ten nơ ko được sử dụng chồng chất lên nhau.
* Thất nghiệp, đối nghèo gia tăng: tình trạng sa thải công nhân diễn ra trên khắp mọi lĩnh vực của nền kinh tế từ sản xuất, bán hàng, gia công cho tới các ngành dịch vụ mà có lẽ chịu tác động mạnh nhất là tài chính ngân hàng;
Làn sóng cắt giảm nhân công trong ngành sản xuất ô tô buộc chính phủ nhiều nước phải hỗ trợ.
Các ngành công nghệ cao trong những lĩnh vực đang ngày càng phát triển cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Các tên tuổi lơn như; Microsoft, HP, Intel, Nec cũng có kế hoạch cắt giảm nhân công.
* Sự phân hoá giàu nghèo càng sâu sắc: Cuộc khủng hoảng gây nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với các nền kinh tế trên thế giới, hậu quả dễ nhìn nhất là từ phía các nước phát triển. tuy nhiên cuộc khủng hoảng này làm cho sự phân hoá giàu nghèo trở lên sâu sắc hơn, các nước đã nghèo lại còn nghèo hơn;
Ở các nước đang phát triển người dân chỉ cảm thấy cay đắng khi từ bỏ cuộc sống sung túc; họ kêu mất việc làm nhưng vẫn được hưởng trợ cấp xã hội, y tế, giáo dục, nước uống sạch sẽ vệ sinh. Nhưng đối với các nước đang phát triển và các nước thế giới thứ 3 như ở châu á, Châu phi thì sao? đầu tư nước ngoài giảm sút, kiều hối do người lao động nước ngoài gửi về giảm, thu nhập từ xuất khẩu nguyên liệu rơi tự do, dòng vốn nước ngoài tháo lui, căng thẳng vấn đề tỉ giá và lãi suất tín dụng, do thiêu kho bảo quản nên các nước nghèo cũng rất dễ bị tắc động từ việc giá lương thực leo thang => gây ra nhiều nguy cơ mới: dịch bệnh, tị nạn.
=> cuộc khủng hoảng TC giúp ta nhận thấy: không phải là mua sắm nhiều hơn, tiêu dùng nhiều hơn mà chính là gia đình, bạn bè, cuộc sống tiết kiệm là những việc có ý nghĩa thiêt thực góp phần chống đói nghèo.
* Bất ổn chính trị, xã hội:
Những nguy cơ chính trị xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính đang ngày càng trở lên khốc liệt. Giám đốc cơ quan tình báo quốc gia Mỹ ( CIA) đã cho rằng: sự rối loạn chính trị do suy thoái toàn cầu đã thay thế chủ nghĩa khủng bố trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với anh ninh quốc gia Mỹ.
Tại Đông âu, cuộc khủng hoảng không những làm lung lay các nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến những quan niệm về tư tưởng liên quan đến việc khôi phục chủ nghĩa tư bản ở nước này.
2.3 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng
Khủng hoảng tài chính toàn cầu có xuất phát điểm từ khủng hoảng tài chính Mỹ 2007. Do vậy để tìm hiểu nguyên nhân của khủng hoảng tài chính ta bắt đầu từ việc đi tìm nguyên nhân của khủng hoảng tài chính ở Mỹ.
Nguyên nhân gián tiếp từ giai đoạn cận khủng hoảng:
Giai đoạn 1: Dưới thời của cựu tổng thống Bill Clinton (1992 – 2000). Đây được coi là thời kỳ hoàng kim của Mỹ, với tiến bộ công nghệ và hiệu quả kinh tế cao, thặng dư ngân sách, và tỷ lệ nợ nước ngoài thấp. Nhưng ngay vào cuối thời kỳ này đã xuất hiện hai sự kiện đáng chú ý:
- Vỡ bong bóng chứng khoán (dotcom bubble). Điều này làm ảnh hưởng đến sự giầu có của tầng lớp trung lưu của Mỹ, tức là làm giảm khả năng thế chấp cho các khoản vay để đầu tư của họ vào nhà cửa, bất động sản, và các hoạt động kinh doanh khác.
- Tự do hóa tài chính (unregulated finance). Cụ thể là dưới áp lực của các nhóm đặc quyền tài chính, vào năm 1999, Bill Clinton đã ký đạo luật mới (Gramm-leach-Bliey), khai tử đạo luật Glass-Steagal (1933). Điều này cho phép các ngân hàng thương mại tham gia vào các hoạt động đầu tư rất rủi ro (chủ yếu là trong lĩnh vực bất động sản), làm khởi đầu bong bóng nhà đất ngay từ năm2000Giai đoạn 2: Thời kỳ của cựu tổng thống George Bush, với điểm nổi bật là mất cân đối vĩ mô ngày càng trầm trọng:
(i) Mỹ chịu gánh nặng của hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afganistan, sau sự kiện 11 tháng 9. Điều này trực tiếp làm tăng thâm hụt ngân sách.
(ii) Thâm hụt cán cân thương mại và nợ nước ngoài của Mỹ (nhất là với Trung Quốc) đã tăng trong suốt 3 thập kỷ, nhưng nhanh nhất vào những năm 2000 trở đi. Nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất của cuộc khủng hoảng tài chính lần này là sự suy sụp của thị trường bất động sản. Ở Mỹ, gần như hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao; khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp.
Có ba yếu tố chính đã khởi tạo nên bong bóng trong thị trường bất động sản:
- Thứ nhất, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%.
- Thứ nhì, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac.
Hai công ty này giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp (mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch.
Biểu đồ : Lượng cung nhà Mỹ giai đoạn 2000-2007
(Nguồn: www.cuna.Org)
Biểu đồ : Giá cả nhà ở Mỹ giai đoạn 2008-2010 (Nguồn: www.marketoracle.co.uk)
- Thứ ba, như đã trình bày ở trên, bởi vì có sự biến đổi các khoản cho vay thành các công cụ đầu tư cho nên thị trường tín dụng để phục vụ cho thị trường bất động sản không còn là sân chơi duy nhất của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chuyên cho vay thế chấp bất động sản nữa. Nó đã trở nên một sân chơi mới cho các nhà đầu tư, có khả năng huy động dòng vốn từ khắp nơi đổ vào, kể cả dòng vốn ngoại quốc.
Điểm đặc biệt ở đây là bởi vì việc hình thành, mua bán, và bảo hiểm MBS là vô cùng phức tạp cho nên nó diễn ra gần như là ngoài tầm kiểm soát thông thường của chính phủ. Bởi vì thiếu sự kiểm soát cần thiết cho nên lòng tham và tính mạo hiểm đã trở nên phổ biến ở các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, bởi vì có thể bán lại phần lớn các khoản vay để các công ty khác biến chúng thành MBS, các ngân hàng thương mại đã trở nên mạo hiểm hơn trong việc cho vay, bất chấp khả năng trả nợ của người vay.
Với ba lý do trên, thị trường bất động sản trở nên rất nhộn nhịp, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thường được cho mượn dưới hình thức lãi suất điều chỉnh theo thời gian (ví dụ, nếu thỏa thuận là được vay với lãi suất 6% và điều chỉnh sau 3 năm thì đúng ba năm sau lãi suất mới sẽ được ấn định theo thời điểm đó). Tóm lại, nhóm người này thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn (subprime rate).
Bất kể khả năng trả được nợ của nhóm vay dưới chuẩn, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ vào năm 2004 và trên 1.300 tỉ vào năm 2007. Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hiểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers.
Bên cạnh đó, nhu cầu mua lại MBS của các nhà đầu tư vẫn cao bởi vì cho tới trước năm 2006 thì thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng. Hơn nữa, họ cũng phần nào được trấn an khi vẫn có thể mua thong thả các hợp đồng bảo hiểm CDS từ các công ty bảo hiểm và đầu tư khác. Việc này dẫn đến các công ty bán bảo hiểm càng mạnh tay hơn trong việc bán CDS ra thị trường, bất chấp khả năng bảo đảm của mình.
Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc lên giá bất động sản liên tục. Giá nhà bình quân đã tăng đến 54% chỉ trong vòng bốn năm từ 2001 (năm bắt đầu cắt mạnh lãi suất) đến 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Do đó, một bong bóng đã thành hình trong thị trường bất động sản.
Khi bong bong bong bất động sản vỡ kéo theo sự suy sụp dây chuyền bất động sản – tài chính:
Do lo lắng về diễn biến lạm phát, Cục Dự trữ liên bang (DTLB) bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn đến việc thị trường bất động sản (BĐS) bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006.
Trong khi vào giữa năm 2003 lãi suất căn bản của Fed chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đã tăng lên đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà lên cao hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đã khiến cường độ vay để mua nhà giảm lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Nhiều người mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà đang sở hữu thấp hơn khoản nợ mà mình đang vay. Bên cạnh đó, rất nhiều người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn bắt đầu mất khả năng trả nợ khi lãi suất của họ bị điều chỉnh trở lại theo lãi suất mới hiện hành khá cao. Họ muốn bán nhà để trả nợ cũng không được vì giá nhà thấp hơn khoản nợ do thị trường tụt dốc. Hệ quả là họ đành bỏ nhà cho ngân hàng trưng thu lại.
Việc ngày càng nhiều người không có khả năng trả nợ ngân hàng mỗi tháng dẫn đến việc trị giá của các MBS bị tụt dốc. Như đã nói lúc đầu, có rất nhiều nhà đầu tư ở Phố Wall đã mua MBS. Do đó, khi MBS mất giá thì đồng nghĩa với việc tài sản của họ cũng bị mất theo, dẫn đến việc thiếu hụt vốn. Bên cạnh đó, các công ty bảo hiểm MBS, chẳng hạn như AIG, cũng lâm vào cảnh khốn đốn khi phải đứng ra bảo lãnh ngày càng nhiều các khoản vay xấu. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại hoặc các công ty cho vay thế chấp còn giữ lại phần lớn các khoản vay cho mình (thay vì bán lại cho Fannie Mae chẳng hạn) cũng nhìn dòng vốn và tín dụng của mình bị cạn kiệt khi phải đương đầu với tỷ lệ mất khả năng trả nợ ngày càng cao của người vay thuộc nhóm dưới chuẩn.
Tóm lại, bởi vì có nhiều mối liên hệ chằng chịt giữa người vay và nhiều thành phần cho vay trực tiếp cũng như gián tiếp, việc tụt dốc của thị trường BĐS đã ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tài chính nói chung. Mức độ lan tỏa và nghiêm trọng của vấn đề là do sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phát sinh (các MBS và CDS) đã kéo quá nhiều các thành phần đầu tư, trong cũng như ngoài nước, vào cuộc chơi trong khi luật lệ của sân chơi thì vẫn thiếu sót hoặc không rõ ràng.
Vấn đề mấu chốt hiện giờ là sự khan hiếm tín dụng đang hoành hành. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo bán đổ các công cụ đầu tư mạo hiểm để tìm cách bảo tồn vốn. Sự việc này dẫn đến niềm tin vào thị trường bị tụt dốc và "suy nghĩ và hành động bầy đàn" trở nên phổ biến. Khủng hoảng nổ ra.
PHẦN III: CUỘC ĐẠI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008-2009 VÀ VIỆT NAM
3.1 Khủng hoảng Tài chính tác động đến nền kinh tế Việt Nam.
Trong nhiều tháng nay đề tài khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu đã được nói đến ở mọi nơi, mọi lúc. Và ở Việt Nam, khi đi vào nhận định tình hình nền kinh tế, nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, xuất phát từ Mỹ chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam, nhưng cũng có những ý kiến cho rằng nền kinh tế Việt Nam không chỉ đơn thuần bị ảnh hưởng gián tiếp mà bị ảnh hưởng trực tiếp. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, vả lại ngày nay kinh tế nước ta đã hội nhập đầy đủ với nền kinh tế thế giới, chúng ta không thể không tính đến những tác động sâu xa, mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng toàn cầu đối với Việt Nam, không thể không nghĩ tới một s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110647.doc