Đề tài Khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và tác động của khủng hoảng tài chính đến Việt Nam

Các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Philipin đã thực hiện chính sách tỷ giá với tỷ giá được xác định rõ ràng hoặc với tỷ giá dao động gắn chặt với đồng đôla Mỹ. Chẳng hạn đồng Bạt Thái Lan có tỷ giá được xác định trên cơ sở 1 số tiền tệ gồm tập hợp của các đồng tiền mạnh là bạn hàng chủ chốt với Thái Lan, trong đó USD chiếm 80% giá trị còn của Philipin thì đồng USD chiếm 90% giá trị.

Xét về lý thuyết và thực tế những năm 80, chính sách này khá thành công trong vai trò giữ ổn định lạm phát ở mức thấp và duy trì quan hệ mậu dịch hợp lý với Mỹ, bạn hàng và là thị trường xuất khẩu quan trọng của Châu Á; giúp nhà đầu tư ngân hàng và doanh nghiệp tin tưởng vào sự ổn định của đồng nội tệ ; hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Một phần nguyên nhân cho sự thành công này là do họ lợi dụng được sự suy giảm đồng USD so với JPY, Mark Đức và gần 50% giá trị so với các đồng tiền chủ chốt khác, giúp cho đồng bản tệ ổn định, gia tăng giá trị xuất khẩu, kiểm soát được tình hình nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1641 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và tác động của khủng hoảng tài chính đến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giảm giá đến mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1997 và đã giảm đến mức thấp kỉ lục vào cuối năm 1998. Tính đến ngày 12-6-1998, đồng rupiah của Inđônêxia bị phá giá 82,4%, các đồng tiền của Philipin, Malaysia, Hàn Quốc bị phá giá ở mức từ 35% đến 37%. Đồng đôla Đài Loan và đôla Singapo bị phá giá ở mức thấp hơn tương ứng là 20,5% và 18%. Sự hoảng loạn trên thị trường ngoại hối đã nhanh chónh lan sang thị trường chứng khoán làm giá cổ phiếu của châu á giảm từ 30% đến 50%. Mọi người bắt đầu hoảng sợ rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á có thể không chỉ dừng lại và trở thành một cuộc khủng hoảng toàn cầu. 2.1.3. Tác động của cuôc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở một số nước Châu á năm ‘ 97 đã gây ra những chấn động lớn về kinh tế, xã hội ở mỗi nước, đồng thời ảnh hưởng đến các nước khác ở khu vực. Tác động của cuộc khủng hoảng này là để lại những hậu quả nặng nề, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. ã Đối với các nước trong khu vực, trung tâm của “vòng xoáy” khủng hoảng: Có thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của đồng tiền 5 quốc gia (Thái Lan, Philipin, Malaysia, Inđônêxia, Hàn Quốc ) là tác động bên ngoài dễ thấy nhất của sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở các nước này: Bảng 1.1: Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997 Năm Thái Lan (Bạt/USD) Philipin Peso/USD Malaysia Ringgit/USD Inđônêxia Rupiah/USD HànQuốc Won/USD 1996 25.61 26.29 2.52 2308 844.2 1997 47.25 39.5 3.88 5400 1695.8 Tác động bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng kinh tế tài chính là sự thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô bất thường của hệ thống ngân hàng tài chính quốc gia: Bảng1. 2: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng tài chính Nước Năm tài chính từ 1/4/96 đến 31/1/97 (tổng số ngân hàng) Năm tài chính từ 1/4/97 đến 31/3/98 Số ngân hàng bị đình chỉ hoạt động Số ngân hàng bị quốc hữu hoá Số ngân hàng bị sáp nhập Số ngân hàng bị bán cho công ty nước ngoài Tổng số ngân hàng “có vấn đề lớn” Thái Lan 108 56 4 0 4 65 (59%) Malaysia 60 0 0 41 0 41(68%) Inđônêxia 228 16 56 11 0 83(36%) Hàn quốc 56 16 2 0 0 18(32%) Tác động thứ ba của sự khủng hoảng là sự thua lỗ, phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của các doanh nghiệp: Bảng1.3: Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp Nước Năm Số doanh nghiệp phá sản Thái Lan 1/1998-5/1998 582 Malaysia 1996 1997 489 6583 Inđônêxia 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt động Hàn Quốc 1997 1998 14000 53000 Sự phát triển của hàng loạt các ngân hàng, doanh nghiệp dẫn đến hai hậu quả trực tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng quốc gia giảm sút (bảng 4). Bảng1. 4: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế tài chính Nước Tăng trưởng kinh tế(%) Tỷ lệ thất nghiệp(%) 1996 1997 1998 1996 1997 1998 Thái Lan 6.7 -0.4 - 8.3 3.3 3.7 Malaysia 8.2 7.0 2.0 2.6 2.7 5.0 Inđônêxia 7.8 4.6 -13.7 2.2 3.0 Philipin 5.8 5.2 - 0.5 9.5 10.4 13.8 HànQuốc 7.1 5.5 - 5.8 2.3 2.5 8 Không những thế, khủng hoảng tài chính còn ảnh hưởng đến cả tỷ lệ lạm phát, giảm dòng vốn đầu tư, tăng các món nợ nước ngoài, ảnh hưởng đên lãi suất cho vay ở các nước này. Bảng 1.5: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào, nợ nước ngoài, lãi suất cho vay Nước Lạm phát (%) Dòng vốn vào(tỷ USD) Nợ nước ngoài(tỷ USD) Lãi suất cho vay(%) 96 97 98 96 97 98 96 97 98 96 97 98 Thái Lan 4.8 5.6 8.1 19.5 -9.1 -9.5 89 97 15 18 11.5 Malaysia 3.8 2.8 7.0 9.5 2.7 33.9 31 93.2 9.2 8.4 11.05 Inđônêxia 6.6 11.6 47 10.8 -0.6 115 129 140 19.2 21.8 34 Philipin 7.1 7.3 10.3 43 45 47 14.4 15.4 14.8 16.2 13.5 Hàn quốc 5.0 9.5 6.7 23.9 -9. 2 112 137 154 8.8 9 ã Đối với thị trường tài chính tiền tệ thế giới : - Nguồn vốn đầu tư tư nhân vào nền kinh tế trong tháng 12 tại Thái Lan giảm 23% so với cùng kỳ năm trước. Các khoản cho vay từ ngân hàng cũng giảm mạnh ở Hồng Kông, Singapo, Thái Lan và Malaysia. Các chính sách kinh tế chống khủng hoảng bắt đầu bằng chính sách thắt lưng buộc bụng để thúc đẩy tìm tới ổn định, sau đó là nới lỏng chính sách này và quản lý các nhu cầu xã hội trong bối cảnh nền tài chính tiền tệ toàn cầu không dẫn đến một sự phát triển bền vững. - Cuộc khủng hoảng đã đẩy 40% nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế lớn như Nhật Bản, Nga, Brazil…đã bị cuốn vào vòng xoáy của nó. IMF gần như mất khả năng đóng vai trò “người chữa cháy” của nền kinh tế toàn cầu. - Sau khi bùng nổ cuộc khủng hoảng đồng Bạt ở Thái Lan tháng 7/1997. Các công ty Nhật Bản đã vội vã rút vốn khỏi châu á do sợ suy thoái kinh tế Nhật Bản kéo dài. Những thay đổi trong chính sách tỷ giá hối đoái và buôn bán của Mỹ đối với châu á đã tác động tiêu cực đến các nền kinh tế châu lục này. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á trước hết do cơ cấu yếu kém của nền kinh tế trong nước nhưng bị trầm trọng thêm do những biến động nên ngoài liên quan đến môi trường tài chính quốc tế và trật tự buôn bán quốc tế. - Thị trường tiền tệ thế giới đang bị tác động mạnh của sự lưu chuyển vốn ồ ạt và ngắn hạn. Vì vậy, những biến động ngắn hạn về tỷ giá hối đoái trở nên nhạy cảm và được quy định bởi sự thay đổi không thể dự báo trước của quan hệ cung cầu tiền tệ. Nguồn vốn thế giới chảy vào các nền kinh tế mới nổi ở khu vực này giảm mạnh từ mức 196 tỷ USD năm 1996 xuống còn 39 tỷ USD năm 1998, trong khi các nền kinh tế Âu Mỹ phát triển ổn định khiến nguồn vốn lại chảy ngược từ các nước Châu á trở lại Âu Mỹ. GDP của Mỹ đạt 8000 tỷ USD năm 1998, còn GDP của EU đạt 6000 tỷ. Nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh làm cho đồng đôla Mỹ tiếp tục tăng mạnh lên so với các đồng tiền Châu á. Đến tháng 12/1998 các đồng tiền Châu á vẫn mất giá từ 13%-16% so với trước khủng hoảng. Cho đến tận nửa cuối tháng 3-1999 đồngYên cần được giao dịch với tỷ giá 123-124 Yên cho một đôla Mỹ. Xu hướng giảm giá của đồng Yên Nhật Bản cùng với khả năng lạm phát cao được gọi là cần thiết để kích thích nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, biên độ giao động tỷ giá lớn giữa đồng Yên và đồng đôla Mỹ không có lợi cho các nền kinh tế Châu á. Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành IMF kêu gọi một sự ổn định tiền tệ lớn hơn để ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ phá hoại các nền kinh tế mới nổi ở Châu á. Các nước này cần xác định một cơ chế phù hợp cho mình để cùng tìm ra một chính sách tỷ giá thích hợp. Trong khi khối lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường tài chính gấp 50 lần khối lượng tiền tệ giao dịch trên thị trường hàng hoá, đồng USD vẫn là đồng tiền chi phối trên thị trường tài chính toàn cầu và mang lại cho Mỹ một lợi thế vô cùng to lớn. Do mở cửa thị trường vốn toàn cầu và những tiến bộ trong công nghệ máy tính và thông tin, Mỹ càng ngày tăng cường được ảnh hưởng đối với các nền kinh tế mới nổi với tư cách là nền tài chính lớn và mạnh nhất thế giới. - IMF báo động rằng tình hình trên thị trường vốn quốc tế chứa đựng những nguy cơ bất ổn định lớn cũng như khả năng biến động cao và những điều chỉnh lớn về giá bất động sản. Thế giới phải chứng kiến cuộc khủng hoảng lớn trên thị trường vốn của các nước mới nổi. Trong kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế, Đông Nam á đã đưa hơn 370 triệu người thoát khỏi đói nghèo và gia nhập tầng lớp trung lưu nhưng nay cuộc khủng hoảng lại đẩy hơn 200 triệu người trở lại đói nghèo. 2.2.Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính ở khu vực Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á năm 1997 được coi là một chấn động lớn cuả thị trường tài chính thế giới trong suốt những thập kỉ vừa qua. Nghiên cứu nguyên nhân sâu xa cũng như nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng này sẽ giúp chúng ta có những giải pháp thực tiễn để ngăn ngừa, hạn chế việc phát sinh các cuộc khủng hoảng sau này. Những nguyên nhân sau được coi là những nguyên nhân cơ bản nhất và cũng chính là một số dấu hiệu khiến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ hình thành và bùng nổ. 2.2.1.Nền kinh tế phát triển thiên lệch mất cân đối: Nhờ sự chuyển đổi chiến lược từ công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu sang chiến lược công nghiệp hoá tập trung đẩy mạnh xuất khẩu đã tạo động lực kinh tế, tạo đà cho sự tăng trưởng nhanh và ổn định kinh tế của Thái Lan và một số nước Đông Nam á trong vòng hơn 1 thập kỷ trước khi diễn ra khủng hoảng. Điều này được biểu hiện ở mức tăng trưởng bình quân các nước từ 7.5% đến 8%. Tuy nhiên, các nguy cơ cũng nảy sinh từ sự thay đổi chiến lược này. Từ năm 1995 trở lại đây với tốc độ tăng trưởng các nước công nghiệp phát triển (cũng đối tác chính và tăng trưởng các nước quốc gia Đông Nam á ) suy giảm làm cho lượng cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của các quốc gia Đông Nam á giảm mạnh. Hơn thế nữa, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là điện tử, dệt may lại đang đứng trước nguy cơ bão hoà trên thị trường thế giới. Do đó, khi kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh làm cho thâm hụt cán cân thương mại lớn và có thể nhìn nhận thông qua số liệu sau đây : Bảng2. 1: Cán cân thương mại và cán cân vãng lai Tên nước 1993 1994 1995 1996 Malaysia Cán cân vãng lai/GDP -4.7% -6.4% -8.6% -9.7% Cán cân thương mại(tỷ USD) 1,5 -0,8 -3,7 -0,6 Thái Lan Cán cân vãng lai/GDP -5.1% -5.6% -8.1% -8.2% Cán cân thương mại(tỷ USD) -9.2 -9.3 -14.3 -17.8 Việt Nam Cán cân vãng lai/GDP -7% -6.9% -7.3% -11.4% Cán cân thương mại (tỷ USD) -0.9 -1.7 -2.3 -3.9 Nguồn: NHTG, “chỉ số phát triển thế giới 2002” Thêm vào đó chính sách xuất khẩu cứng nhắc và chậm đổi mới làm cho tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam á đối với các đối tác Mỹ và Tây Âu giảm sút trước những khu vực thị trường năng động như Trung Quốc, Đông Âu và Mỹ Latinh. Cũng trong giai đoạn trước khủng hoảng, nguồn vốn nước ngoài đổ vào khu vực Đông Nam á liên tục tăng lên, góp phần duy trì mức tăng trưởng kinh tế ở mức 7.5%-8%/năm. Tuy nhiên, cơ cấu vốn đầu tư lại không hợp lý chỉ khoảng 20-30% là vốn đầu tư trực tiếp còn lại là vốn ngắn hạn đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu, tín phiếu… Luồng vốn nóng làm nền kinh tế các nước Đông Nam á lệ thuộc tương đối vào nước ngoài. Vốn ngắn hạn nước ngoài gây ra sức ép đồng nội tệ tăng giá và khi luồng vốn bị rút ra ồ ạt sẽ gây ảnh hưởng, làm rối loạn hệ thống tài chính, đồng nội tệ giảm giá và giá cổ phiếu giảm mạnh. Thâm hụt cán cân thanh toán và tài khoản vãng lai đã buộc các nước trong khu vực phải đi vay vốn ngắn hạn từ nước ngoài để chi tiêu và bù đắp. Tuy nhiên sự quản lý nợ yếu kém đã dẫn đến gánh nợ nước ngoài ngày càng lớn và khi đến hạn phải trả đã gây sức ép nặng nề lên hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và làm tăng cầu ngoại tệ một cách đột biến. Mức nợ của Thái Lan liên tục tăng trong những năm trước khủng hoảng. Năm 1993: chiếm 40.6%GDP Năm 1994: chiếm 44.3%GDP Năm 1995: chiếm 49.5%GDP Năm 1996: chiếm 52.4%GDP Tình trạng nợ nước ngoài của Inđônêxia, Malaysia và Philipin cũng tương tự . Bảng 2.2: Cơ cấu nợ nước ngoài các nước trong khu vực năm 1996 Thái Lan Philipin Malaysia Inđônêxia Nợ nước ngoài Tỷ USD %GDP 89.8 52.4 41.9 50.1 28.9 29.1 109.3 48.4 Nợ ngắn hạn/tổng nợ(%) Nợ tư nhân/ tổng nợ(%) 40 78.8 25 34.6 25 40.7 29 51.2 Dự trữ ngoại hối Tỷ USD % so với nợ Nhà nước 28.3 67.2 10.1 127.5 19 171.2 20.4 59.6 Hình 2.1 : nợ nước ngoài và dự trữ ngoại hối năm 1997 của các nước ASEAN Kinh tế tăng trưởng nhanh đã kéo theo sự đầu tư một cách bột phát trong một số ngành kinh tế ở các nước Đông Nam á như kinh doanh địa ốc và ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Tình hình đó đã dẫn đến tình trạng vay vốn đầu tư quá mức, đặc biệt ở khu vực tư nhân và khi rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái các nhà đầu tư đã không kịp thời điều chỉnh tạo ra sự dư thừa công suất trong các ngành. ở Thái Lan và Inđonêxia vào những năm 90 nhà nước đã tập trung vốn lớn vào xây dựng khách sạn và nhà ở đắt tiền bằng vốn ngắn hạn làm cho đất nước chìm ngập trong nợ nần. Cung vượt cầu đã gây khủng hoảng lớn trong ngành kinh doanh bất động sản, dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn và hàng loạt các hiệu ứng dây chuyền đối với thị trường chứng khoán, tiền tệ làm tăng nguy cơ bất ổn và mất cân đối vốn có của nền kinh tế khu vực. Các ngân hàng và các công ty tài chính bị ảnh hưởng nặng nề khi thị trường bất động sản chao đảo và thua lỗ. Hình 2.2 : Cơ cấu cho vay của hệ thống ngân hàng Thái Lan Ngoài ra vốn đầu tư vào các ngành trước đây có lợi thế trên thị trường như hàng dệt may và đồ điện tử vẫn tăng, trong khi cầu thị trường đã giảm mạnh, bên cạnh đó các nước đối tác đã suy giảm về kinh tế và hàng Trung Quốc cạnh tranh mạnh mẽ. Đây là lý do dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu (một yếu tố nhạy cảm của rối loạn tài chính và thị trường). Một vấn đề cần phải bàn đến là đồng Bạt không phản ánh đúng giá trị của nó, thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng thấp trong nhiều năm nên một số sản phẩm nhập khẩu trở nên rẻ thấp, cùng lúc thu nhập của người tiêu dùng tăng khi nền kinh tế đang ở giai đoạn tăng trưởng cao nên mức tiêu dùng tăng nhanh, xây dựng, tiêu dùng hoang phí, xa hoa cũng là một nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính. 2.2.2.Chính sách tiền tệ không hợp lý: a.Chính sách tự do hoá quản lý ngoại hối và thị trường hối đoái ít được kiểm soát và phát triển không đồng bộ. Việc tự do hoá chuyển đổi từ đồng bản tệ sang ngoại tệ hoặc ngược lại dẫn đến tình trạng khi các nguồn vốn đầu tư ngắn hạn lần lượt được chuyển đổi và rút ra khỏi nền kinh tế thì các nước này phải chịu những hậu quả nặng nề. Đồng thời việc cổ phiếu bị bán hàng loạt trên thị trường chứng khoán khiến giá cổ phiếu tụt nhanh tạo sức ép chuyển đổi từ đồng bản tệ sang đồng ngoại tệ mạnh đã kéo theo giá đồng tiền các nước bị giảm tới mức kỷ lục. b.Chính sách tỷ giá hối đoái được duy trì cứng ngắc gần như cố định và phụ thuộc vào USD: Các quốc gia như Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Philipin đã thực hiện chính sách tỷ giá với tỷ giá được xác định rõ ràng hoặc với tỷ giá dao động gắn chặt với đồng đôla Mỹ. Chẳng hạn đồng Bạt Thái Lan có tỷ giá được xác định trên cơ sở 1 số tiền tệ gồm tập hợp của các đồng tiền mạnh là bạn hàng chủ chốt với Thái Lan, trong đó USD chiếm 80% giá trị còn của Philipin thì đồng USD chiếm 90% giá trị. Xét về lý thuyết và thực tế những năm 80, chính sách này khá thành công trong vai trò giữ ổn định lạm phát ở mức thấp và duy trì quan hệ mậu dịch hợp lý với Mỹ, bạn hàng và là thị trường xuất khẩu quan trọng của Châu á; giúp nhà đầu tư ngân hàng và doanh nghiệp tin tưởng vào sự ổn định của đồng nội tệ ; hỗ trợ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Một phần nguyên nhân cho sự thành công này là do họ lợi dụng được sự suy giảm đồng USD so với JPY, Mark Đức và gần 50% giá trị so với các đồng tiền chủ chốt khác, giúp cho đồng bản tệ ổn định, gia tăng giá trị xuất khẩu, kiểm soát được tình hình nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đến năm 1995, đồng USD lên giá 20% so với các đồng tiền mạnh khác. Do đó đồng tiền của các nước trong khu vực lên giá so với đồng Yên Nhật và một số đồng tiền mạnh của các nước châu Âu. Điều này dẫn tới tiền lương công nhân tăng làm lợi thế cạnh tranh giảm, thêm nữa, tình hình dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu chậm làm giảm tăng trưởng kinh tế, mất cân đối cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. Cũng trong thời kì USD lên giá, để giữ đồng Bạt ngang giá với USD, chính phủ nước này đã thực hiện chính sách lãi suất đồng Bạt cao. Các doanh nghiệp trong nước phải cơ cấu lại các món nợ từ đồng nội tệ sang ngoại tệ (với mức lãi suất thực thấp hơn), còn các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn ngắn hạn vào trong nước do sự đầu cơ đồng Bạt. Các nhà tài chính mất niềm tin vào việc chính phủ Thái Lan có thể duy trì chính sách lãi suất cao liên tục trong thời gian dài, cùng với sự giảm sút xuất khẩu, họ đã bắt đầu rút vốn ra khỏi Đông Nam á hoặc tung bán các đồng tiền khu vực ra thị trường kì hạn. Khi luồng vốn bị rút ra liên tục, chính phủ Thái Lan không thể nào khống chế được, và buộc phải thả nổi đồng tiền. Tình trạng cũng tương tự với Philipin, Inđônêxia và Malaysia. c.Sự quản lý và điều hành yếu kém trong khu vực tài chính ngân hàng: Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động chưa có hiệu quả, quá phụ thuộc vào sự giúp đỡ của chính phủ. Không những thế, lại mạo hiểm nhận vốn nước ngoài, trong đó một khối lượng lớn là các khoản vay nóng đưa vào đầu tư dài hạn, thêm nữa, sai lầm trong chính sách vĩ mô về duy trì tỷ giá cứng, buộc chặt đồng đôla Mỹ và lãi suất trần, sàn không bắt kịp tiến trình toàn cầu hoá… Trong điều kiện thâm hụt cán cân vãng lai để duy trì tốc độ tăng trưởng nóng và tỷ giá hối đoái cố định, ngân hàng các quốc gia Đông Nam á lại phải tiếp tục vay nóng từ các ngân hàng nước ngoài, đã đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt quá dự trữ ngoại tệ trong nước . Hình 2.3: Tỉ lệ nợ quá hạn của các nước Đông Nam á Như vậy, chính năng lực yếu kém của hệ thống ngân hàng đã là một trong những yếu tố gây ra biến cố tàn khốc 1997 làm tổn thương nặng nề nền kinh tế, hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia lâm vào tình trạng suy yếu nghiêm trọng. d.Đầu cơ ngoại tệ : Một số ngân hàng và công ty tài chính đã lợi dụng sự mất ổn định kinh tế và sự yếu kém của hệ thống ngân hàng khu vực để thực hiện các giao dịch đầu cơ châm ngòi nổ cho khủng hoảng. Theo như lời buộc tội của thủ tướng Malaysia Mahatir, cuộc khủng hoảng 1997 là do hành động của các nhà đầu cơ lớn, các quỹ đầu tư chứng khoán chênh lệch giá (mà nhân vật được nêu tên là George Soros). Các nhà phân tích cũng cho rằng, với thực lực như các quỹ tín dụng: Tiger, Osbis,…họ hoàn toàn có khả năng tiến hành các nỗ lực phối hợp thúc đẩy hoặc làm trầm trọng các vấn đề kinh tế của các nước Đông Nam á. Phần ba Tác động của khủng hoảng tài chính Đến Việt nam 3.1.Tác động của khủng hoảng tài chính khu vực đến Việt Nam Nói cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra ở khu vực Đông Nam á song không phải bất kì quốc gia nào trong khu vực này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và chịu hậu quả nặng nề. Việt Nam là một trong những quốc gia có được may mắn đó. Lý do là bởi: ã Thị trường tài chính mới ở giai đoạn sơ khai, đồng tiền Việt Nam chưa phải là đông tiền chuyển đổi tự do. ã Loại hình đầu tư gián tiếp chưa phát triển. ã Thị trường vốn chưa được tự do hoá, vốn đầu tư chủ yếu là vốn dài hạn, do đó các nhà đầu tư không thể lập tức di chuyển vốn ra nước ngoài. ã Nợ nước ngoài đa số là nợ chính phủ từ nguồn ODA nên sức ép đột biến của thanh toán nợ không mạnh. ã Chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam còn tương đối chặt chẽ. ã Chính sách tỉ giá nhìn về tổng thể cũng đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt trên cơ sở ổn định giá đối nội và đối ngoại. ã Chính phủ Việt Nam đã sớm có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa các nguy cơ khhủng hoảng có thể xảy ra xuất phát từ các nguyên nhân nội sinh của nền kinh tế, đặc biệt là xử lý các vấn đề chính sách. Tuy nhiên có thể nhận thấy Việt Nam đang chịu một số tác động gián tiếp tới nền kinh tế, cụ thể là việc giảm sút đáng kể nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hai năm 1997 - 1998 và tốc độ tăng xuất khẩu chậm lại trong năm 1998. Ngoài ra, khủng hoảng khu vực đã làm cho hàng hoá trong nước kém tính cạnh tranh hơn, thị trường xuất khẩu của Việt nam sang các nước khủng hoảng như Nhật Bản, Hàn Quốc giảm sút rõ rệt trong những tháng đầu năm 1998. Sự mất giá của đồng nội tệ các nước khác cũng gây sức ép giảm giá của đồng Việt Nam. Những yếu tố trên kèm với một số yếu tố khách quan và chủ quan khác đă dẫn đến tốc độ tăng trưởng của Việt Nam trong nửa đầu năm 1998 chậm lại, chỉ còn 6.6%. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam đang nảy sinh những vấn đề mà như các nhà kinh tế đã nhận định: “đây không chỉ là những thách thức khi khủng hoảng xảy ra, mà nó tồn tại và tiềm ẩn trong bản thân nền kinh tế Việt Nam nhiều năm, từ trước khi khủng hoảng”. Những thách thức này xuất hiện trong tất cả các mặt của cuộc sống: + Về kinh tế: Hệ thống tài chính ngân hàng còn nhiều yếu kém, cán cân thanh toán vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt kéo dài ở mức cao so với GDP và gây sức ép đến tỷ giá hối đoái. Tương tự, bội chi ngân sách kéo dài ở mức cao gây sức ép tăng vay nợ nước ngoài, làm hao hụt dự trữ ngoại tệ vốn. Cơ cấu vốn đầu tư còn nhiều bất hợp lý, việc sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả, tính cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam còn thấp. + Về xã hội: Sự phân biệt giàu nghèo và trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng ngày càng tăng, các tệ nạn xã hội có chiều hướng phát triển. Bên cạnh đó, thêm tình trạng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị với những thách thức gia tăng tỷ lệ thất nghiệp do một sốdoanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đào thải công nhân để thu hẹp quy mô sản xuất. + Về quản lý Nhà nước: Sự khác nhau về trình độ quản lý Nhà nước tại các địa phương, tình trạng tham nhũng ngày càng nghiêm trọng, lạm dụng quyền lực, buôn lậu và gian lận thương mại. Với những thách thức như trên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 đã có những tác động đến nền kinh tế Việt Nam. 3.1.1.Với lĩnh vực tài chính – ngân hàng : a.Gây sức ép giảm giá đồng Vịêt Nam trên thị trường hối đoái: Do thị trường dự đoán về khả năng khủng hoảng của đồng Việt Nam dẫn đến tình trạng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ. Tâm lý đầu cơ của thị trường đã đẩy tỷ giá trên thị trường tự do tăng mạnh. Bên cạnh đó, tỷ giá giao dịch của các NHTM cũng ở mức trần giao dịch cho phép, gây sức ép giảm giá mạnh đồng Việt Nam. Hình3.1 : tỷ giá đồng Việt Nam so với USD trên thị trường năm1997 Đồng Việt Nam giảm gía khoảng 15% so với đầu năm 1997 (vẫn cao hơn giá của các đồng tiền khu vực từ 15%-40%). Việc tích trữ và đầu cơ ngoại tệ mạnh gây chênh lệch cung cầu giả tạo về ngoại tệ, khiến chính phủ phải 3 lần điều chỉnh biên độ dao động hoặc tỷ giá chính thức. b.ảnh hưởng tới cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng: Tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng có chiều hướng ngược nhau. Tiền gửi bằng đồng Việt Nam có xu hướng tăng chậm, trong khi tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh (kể cả tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân và tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp). Tháng6/1997 : tiền gửi nội tệ tăng 1.6% tiền gửi ngoại tệ tăng 49.4% 9 tháng đầu năm 1998 : tổng tiền gửi nội tệ tăng 15.5% tổng tiền gửi ngoại tệ tăng 29.3% Tình hình trên đã gây ra sự mất cân đối cung và cầu ngoại tệ tại mỗi thời điểm, tạo sức ép không nhỏ đến tỷ giá đồng Việt Nam và gây ra những xáo trộn bất ổn định đến thị trường ngoại hối nước ta. c.Tác động đến hoạt động giao dịch ngoại tệ : Trên thực tế, vào nửa cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ, hoạt động của thị trường có lúc bị ngưng trệ và nhu cầu mua bán chỉ nhằm mục đích phục vụ cho các khách hàng của chính mình, không mang tính chất kinh doanh. Thời kì trước giao dịch trên thị trường ngoại tệ đạt doanh số 30 triệu USD/phiên thì hiện nay chỉ là 0.4-0.5 triệu/ phiên giao dịch. Giao dịch trên thị trường liên ngân hàng gần như bị ngưng trệ, thực chất chỉ là thị trường “một chiều” vì hầu như chỉ có NHTW bán ngoại tệ cho các NHTM, còn NHTM chỉ mua không bán (thực chất là hoạt động găm giữ ngoại tệ) . d.Tăng gánh nợ cho các doanh nghiệp : Khủng hoảng tiền tệ khu vực tác động đến tăng tỷ giá hối đoái đã gián tiếp làm tăng thêm các khoản nợ nước ngoài, đăc biệt là các khoản nợ đến hạn thanh toán. Nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ hoặc phải mua với giá cao đã chịu lỗ . e.Gây sức ép với lãi suất đồng Việt Nam: Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn đồng tiền Việt Nam để tránh những rủi ro về tỷ giá. Nhu cầu vay vốn VND đã tăng lên gây mất cân đối cung cầu về đồng Việt Nam trên thị trường, tạo sức ép tăng lãi suất đông nội tệ, và sẽ ảnh hưởng đến chính sách lãi suất nhằm khuyến khích đầu tư trong nền kinh tế . 3.1.2.Những tác động đến cán cân thanh toán vãng lai và xuất nhập khẩu Tỷ trọng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang khu vực Châu á Thái Bình Dương là 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, riêng các nước ASEAN chiếm khoảng 25% và nhập khẩu từ đây là 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Khi đồng tiền của các nước trong khu vực bị phá giá thì khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong khu vực sẽ giảm sút. Mặt khác, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta là gạo, dầu thô, cà phê, cao su, dệt may, thuỷ sản… phần lớn trùng với mặt hàng xuất khẩu của các nước trong khu vực nên sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Thêm vào đó, khủng hoảng xảy ra ở các nước này làm giảm nhu cầu nhập khẩu, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu của nước ta. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam với các nước Thái Lan, Inđônêxia, Singapo, Hàn Quốc, Nhật Bản bao gồm : Xuất khẩu : gạo, dầu thô, hải sản, hàng may mặc Nhập khẩu : Xăng dầu, phân bón , thuốc trừ sâu, sắt thép ôtô, xe máy. Nhìn vào cơ cấu này có thể thấy hàng gạo của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng mạnh nhất do Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, do vậy sẽ ảnh hưởng lớn đến giá gạo quốc tế. Tuy kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 1997 vẫn đạt 810 triệu USD nhưng nếu Việt Nam không đưa ra chính sách thích hợp thì khả năng tăng xuất khẩu gạo trong thời gian tới sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. Thêm nữa, do giá đồng nội tệ của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2323.doc
Tài liệu liên quan