MỤC LỤC
I. Giới thiệu về cuộc khủng hoảng
II. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng
III. Đầu tư gián tiếp FII(FPI)
1. Khái niệm
2. Các loại hình FPI:
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FPI:
4. Thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2006-2008
5. Sự cần thiết và tiềm năng thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) tại Việt Nam
IV. Đầu tư trực tiếp FDI
1. Khái niệm
2. Vai trò của FDI trong 20 năm đổi mới nền kinh tế của Việt Nam vừa qua
3. Bối cảnh phát triển mới của Việt Nam và vai trò của FDI
4. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
5. Nhân tố tác động đến thu hút FDI:
6. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 2006
V. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến kinh tế Việt Nam
Chính sách khắc phục kinh tế của Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008:
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1875 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu đến đầu tư nước ngoài và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thường công nghiệp phụ trợ có thể tạo ra 80-95% giá trị gia tăng cho sản phẩm tuy nhiên
hiện các doanh nghiệp sản xuất-lắp ráp ở VN phải nhập khẩu từ 70%-80% lượng sản phẩm
phụ trợ3. Do hạn chế này mà phần giá trị được tạo ra ở Việt Nam còn thấp, nhiều doanh
nghiệp FDI khó phát triển được qui mô và đầu tư chiều sâu nên gần đây đã xuất hiện xu
hướng một số dự án FDI đã chuyển sản xuất ra nước khác hoặc đóng cửa hay phải chuyển
sang lĩnh vực đầu tư mới ở Việt Nam.
2.8. Cùng với những hạn chế trên, hậu quả gây ô nhiễm môi trường từ các dự án FDI
đang được bộc lộ rõ và làm huỷ diệt môi trường sống nghiêm trọng. Gần đây, dư luận xã hội
rất bức xúc về chất thải của dự án VEDAN (chủ đầu tư Đài Loan) đã làm huỷ diệt cả dòng
sông Thị Vải, gây thiệt hại lớn về người và của của cư dân trong vùng. Nhiều vụ ô nhiệm
môi trường trầm trọng của các dự án FDI khác cũng đang được phát giác. Rõ ràng,
những hậu quả này là rất nặng nề và làm giảm tính bền vững của tăng trưởng kinh tế.
2.9. Nguyên nhân của những hạn chế đã nêu có nhiều. Song, trước hết phải nhìn từ
phía nước chủ nhà. Về khách quan, do điều kiện phát triển còn thấp, thiếu kiến thức và kinh
nghiệm trong thu hút, sử dụng FDI nên chưa có nhiều sự lựa chọn và không lường hết được
những hậu quả là điều khó tránh khỏi. Mặt khác, nhiều hạn chế bắt nguồn từ nguyên nhân
chủ quan vì chú trọng đến lợi ích trước mắt, có tính cục bộ, bất chấp hậu quả lâu dài, chạy theo “bệnh thành tích”, có tính số lượng. Việc trao quyền cho địa phương trong việc thu hút
FDI một mặt làm tăng tính chủ động của địa phương trong việc vận động, khuyến khích
FDI, song mặt khác cũng tạo ra hiệu ứng cạnh tranh thu hút FDI bằng mọi giá, làm giảm
chất lượng dự án dẫn đến hiện tượng ‘racing to the bottom’. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh
chính sách FDI còn khá chậm, chưa phù hợp với bối cảnh phát triển mới của Việt Nam.
3. Bối cảnh phát triển mới của Việt Nam và vai trò của FDI
3.1. Bước sang thế kỷ 21, mở đầu bằng Hiệp định BTA với Hoa Kỳ (2001), Việt
Nam đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới, tích luỹ được các điều kiện cần thiết cho phát
triển và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao
(khoảng 8% năm) trong nhiều năm, đã có dự trữ ngoại tệ đáng kể (khoảng 20 tỷ USD năm
2008), cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực đã được cải thiện rõ rệt và vị thế của Việt Nam đã
được nâng cao trong cộng đồng quốc tế. Dù vậy, gần đây nền kinh tế Việt Nam đang phải
đối mặt với nhiều khó khăn thách thức của lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng giảm mạnh (dự
kiến 6/5-6.7%).
3.2. Sau 5 năm thực hiện BTA, Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
toàn cầu và đã trở thành thành viên chính thức của WTO vào năm 2006. Việc gia nhập
WTO đã tạo ra sự “đột phá” trong hội nhập quốc tế của Việt Nam và đã thu hút được sự
quan tâm của đông đảo cộng đồng kinh doanh quốc tế, trong đó đặc biệt là giới đầu tư nước
ngoài. Bối cảnh phát triển mới này đã giúp Việt Nam có nhiều cơ hội được “lựa chọn” các
nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải mở cửa hơn cho các nhà đầu tư
nước ngoài và đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ việc thực hiện các qui định của WTO.
3.3. Thực trạng và nhu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam cũng có nhiều thay đổi
hơn so với thập kỷ của thời kỳ đầu thực hiện chính sách đổi mới. Các lợi thế “có tính tự
nhiên” trong thu hút FDI đã mất dần hấp dẫn. Giá lao động đã tăng cao và xuất hiện nhiều
vụ đình công, thiếu hụt lao động có tay nghề, nhiều lĩnh vực đầu tư thu hồi vốn nhanh, hấp
dẫn đã bão hoà. Cơ sở hạ tầng, năng lượng, dịch vụ kỹ thuật, nguồn nhân lực chưa đáp ứng
được yêu cầu của các nhà đầu tư. Khả năng hấp thụ vốn FDI do vậy đã đến mức ‘bão hòa’.
Mặt khác, trong những năm gần đây, thị trường tài chính ở Việt Nam đã phát triển khá
mạnh và đầu tư nước ngoài gián tiếp (FPI) cũng gia tăng nhanh, dòng vốn FPI ròng ước đạt
khoảng 6 tỷ USD năm 2007, chiếm 50% tổng lượng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam1.
Thêm vào đó, nguồn vốn kiều hối chuyển về nước hàng năm cũng rất lớn, năm 2006
là 6,82 tỷ USD, đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Philippines (14,8 tỷ
USD)2. Con số này tương đương với 11,21% GDP và tính bình quân mỗi người Việt Nam ở
nước ngoài gửi về nước trong năm 2006 là 3.398,42 USD. Tính chung ở châu Á, Việt Nam
đứng hàng thứ tư về số tiền gửi về, sau Ấn Độ (24,5 tỷ USD), Trung Quốc (21,07 tỷ USD)
và Philippines. Số tiền người Việt Nam gửi về nước trong năm 2007 là trên 7,5 tỷ USD. Vụ quản lý ngoại hối thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết lượng kiều hối chuyển về
Việt Nam vẫn trong xu hướng tăng và dự kiến năm 2008 có thể đạt tới 8 tỷ USD. Do đó, vai
trò của FDI đối với bổ sung vốn đầu tư mặc dù vẫn còn quan trọng nhưng không còn bức
thiết như những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Trái lại, nếu nguồn vốn vào quá nhiều so với
năng lực hấp thụ hạn chế trong nước thì có nguy cơ làm phá vỡ nhiều kết cấu kinh tế trong
nước, trong đó đặc biệt là sự quá tải của cơ sở hạ tầng, thiếu hụt năng lượng, v.v.
3.4. Mặt khác, gần đây tình hình lạm phát cao, vượt qua 9% trong 3 tháng đầu năm
và tăng tới 15% vào tháng 5/ 2008, suy giảm kinh tế toàn cầu đã làm cho nền kinh tế Việt
Nam đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chính sách thắt chặt tiền tệ và hàng loạt giải
pháp chống lạm phát đang làm tụt giảm mạnh tốc độ tăng trưởng (có nhiều khả năng sẽ thấp
hơn năm 2008) và nền kinh tế đang có nguy cơ lâm vào tình trạng giảm phát. Khu vực quốc
doanh vốn được coi là “xương sống” của nền kinh tế, chiếm tới xấp xỉ 50% vốn đầu tư xã
hội nhưng chỉ đóng góp được 37-39% GDP, tạo khoảng 9,7 % tổng số việc làm trong nền
kinh tế và ít liên kết được với khu vực FDI. Năm 2000 đến 2005 đều có mức tăng trưởng >
7,1%, năm 2005 tăng trưởng 7,36%, nhưng phần đóng góp vào mức tăng trưởng của toàn
nền kinh tế đã giảm tương đối (năm 2004: 3,19 điểm trong 7,79 điểm, năm 2005: 3,02 điểm
trong 8,43 điểm). Trong khi đó, khu vực dân doanh (khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu
vực đầu tư nước ngoài) chỉ chiếm 14,8% vốn đầu tư xã hội nhưng lại đóng góp được 50%
GDP và thu hút được khoảng 90,4% việc làm của cả nước.
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ngày càng chiếm vị thế quan trọng hơn, góp phần
cho mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế là 3,88 điểm trong mức tăng trưởng toàn nền kinh
tế là 8,43%. Điều đáng ghi nhận ở đây là mức tăng trưởng GDP do thành phần kinh tế ngoài
Nhà nước tăng liên tục, năm 2003 (6,36%), 2004 (6,95%), 2005 (8,19%)- nhanh hơn thành
phần Nhà nước và toàn nền kinh tế, đặc biệt thành phần kinh tế tư nhân có mức độ tăng
trưởng nhanh nhất trong tất cả các thành phần kinh tế, từ 2001-2005 đều tăng trên 10% mỗi
năm; riêng năm 2005 tăng 14,1%, đóng góp vào mức tăng trưởng chung toàn nền kinh tế
1,295 điểm. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng liên tục tăng, mức tăng trung bình một
năm thời kỳ 2001-2005 là 9,95; riêng năm 2005 tăng 13,2%, góp phần tăng trưởng chung
toàn nền kinh tế là 1,526 điểm. Hiện nay và dự báo trong năm 2009, khu vực dân doanh,
trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp rất nhiều khó khăn và có nguy
cơ bị phá sản hàng loạt.
3.5. Trong bối cảnh phát triển có nhiều thay đổi như đã nêu, rõ ràng vai trò của FDI
đối với nhu cầu phát triển của đất nước trong thời gian tới cũng cần phải được nhìn nhận lại.
Có nhiều khía cạnh để xem xét, song trước hết, phải từ nhận thức, quan điểm, sau đó đến
các chính sách, biện pháp điều tiết các hoạt động thu hút và sử dụng FDI
3.6. Cho đến nay, không còn nghi ngờ gì về vai trò quan trọng của FDI đối với sự
thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, lý thuyết và thực
tiễn cho thấy mục tiêu của FDI là lợi nhuận nên có nhiều khác biệt với các mục tiêu phát triển
của nước chủ nhà. Các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào những dự án sử dụng được lợi thế
của họ, khai thác những hấp dẫn của nước chủ nhà để đầu tư vào những dự án có khả năng
sinh lợi cao, trong khi nước chủ nhà lại muốn sử dụng FDI để giải quyết nhiều vấn đề của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Biểu hiện rất rõ là trong khi Chính phủ Việt Nam
luôn mong muốn, khuyến khích mạnh FDI đầu tư vào các ngành nông, lâm thuỷ sản, công
nghiệp nhẹ, đồ điện, điện tử gia dụng, công nghệ phần mềm và các ngành công nghiệp phụ trợ
thì các nhà đầu tư nước ngoài lại muốn đầu tư vào ngành bất động sản, sân golf, vui chơi giải
trí, khai thác khoáng sản, công nghiệp nặng,…( xem bảng 1).
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2008
(tính tới ngày 22/10/2008 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)- Trang 20-21.
3.7. Việt Nam cần thu hút và sử dụng “có lựa chọn” FDI hơn là đơn thuần chỉ “chiều
theo ý các nhà đầu tư nước ngoài” như thời gian vừa qua. FDI sẽ có hiệu quả cao hơn, đạt
được sự bền vững tốt hơn đối với nền kinh tế Việt Nam nếu các dự án FDI tạo ra được nhiều
liên kết với các ngành sản xuất nội địa, nâng cao phần giá trị gia tăng, đẩy mạnh tác động
lan tỏa, ít tiêu tốn năng lượng, không làm cạn kiệt các nguồn nguyên liệu tự nhiên, hạn chế
được ô nhiễm môi trường, chuyển giao công nghệ hiện đại và thúc đẩy xuất khẩu. Nếu FDI
được sử dụng một cách “khôn khéo” theo định hướng đã nêu thì vai trò của FDI sẽ rất lớn.
Kinh nghiệm thành công gần đây của Trung Quốc trong điều chỉnh chính sách FDI là những
minh chứng rất rõ về vai trò quan trọng của FDI đối với phát triển của Trung Quốc sau khi
là thành viên của WTO.
3.8. Liên kết sản xuất theo chuỗi cung ứng hàng hoá với các doanh nghiệp FDI sẽ
giúp nhiều doanh nghiệp nội địa hoà nhập được mạng lưới sản xuất quốc tế, nâng cao được
phần giá trị gia tăng của FDI ở Việt Nam và cũng tạo được nhiều tác động lan tỏa tích cực
trong nền kinh tế. Thực tế hiện nay, liên kết này còn hạn chế nên vai trò của FDI còn thấp,
tác động lan toả tích cực chưa rõ rệt. Bảng 1 cho thấy, FDI chuyển hướng đầu tư nhiều vào
các ngành “phi thương mại” như thời gian gần đây, đặc biệt là từ năm 2007 không tạo
được nhiều các liên kết sản xuất nội địa. Trái lại, nếu đầu tư quá vào bất động sản và Chính
phủ không kiểm soát được chặt chẽ sẽ có nguy cơ tiềm ẩn dẫn tới những bất ổn cho kinh tế
vĩ mô, thậm chí có thể gây ra khủng hoảng. Thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á
năm 1997 và ở Mỹ gần đây đã cho thấy rất rõ hậu quả này. Mặt khác, FDI đầu tư nhiều vào
các dự án khai thác tài nguyên, công nghiệp nặng sẽ làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn
nguyên liệu tự nhiên và đặc biệt là tăng ô nhiễm môi trường. Do vậy, vai trò của FDI phụ
thuộc rất quan trọng vào chính sách khuyến khích thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam.
3.9. Với tiềm lực công nghệ của Việt Nam như hiện nay sẽ rất khó có thể tự phát
triển mạnh được nếu không dựa vào bên ngoài. Trong những thập kỷ đổi mới vừa qua, FDI
đã đóng góp vai trò quan trọng trong phát triển năng lực công nghệ của Việt Nam. Trong
thời gian tới, vai trò này lại càng đặc biệt quan trọng, vì nó góp phần chủ yếu trong nâng cao
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều dự án FDI sử dụng công
nghệ cao đang gặp khó khăn về thiếu trầm trọng nguồn lao động kỹ thuật và hạ tầng kỹ
thuật còn nhiều hạn chế; điển hình là Tập đoàn IBM với việc mở Trung tâm Dịch vụ Toàn
cầu tại Việt Nam. Hãng cho biết sẽ tuyển dụng bước đầu khoảng 250 chuyên gia CNTT vào
làm việc và tùy thuộc vào tốc độ phát triển, Trung tâm này có thể tiếp nhận từ 3.000 – 5.000
lao động trẻ Việt Nam có trình độ cao về CNTT vào làm việc, nếu Việt Nam có đủ 20.000
lao động đáp ứng được yêu cầu của IBM, tập đoàn này cũng sẽ tiếp nhận1. Kinh nghiệm của
Malayxia đã cho thấy vai trò chuyển giao công nghệ hiện đại của các dự án FDI rất hạn chế
trong những năm đầu 1990 vì thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật, trong đó đặc biệt là trong lĩnh
vực công nghệ thông tin (IT). Nhận thức được hạn chế này, Chính phủ Malayxia đã nhanh
chóng đầu tư mạnh vào phát triển nguồn nhân lực công nghệ bằng con đường mở cửa
khuyến khích các đại học tiên tiến ở nước ngoài vào Malayxia. Sau một thời gian ngắn,
Malayxia đã có được đội ngũ lao động có kỹ thuật, công nghệ cao, nhờ đó đã khuyến khích
rất hiệu quả các dự án FDI chuyển giao công nghệ hiện đại. Bài học thành công của
Malayxia rất đáng để Việt Nam tham khảo.
3.10. Đối với Việt Nam, xuất khẩu đã, đang và vẫn sẽ là một trong những trụ cột chủ
yếu của tăng trưởng. Trong bối cảnh các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn do
lạm phát cao, năng lực cạnh tranh thấp thì vai trò của FDI duy trì và đẩy mạnh tốc độ tăng
xuất khẩu của cả nước sẽ càng đặc biệt quan trọng. Dù vậy, một mặt, các doanh nghiệp FDI
cũng đang gặp khó khăn do nền kinh tế toàn cầu suy thoái, mặt khác, do xu hướng FDI ngày
càng tăng vào các ngành “phi thương mại” như đã nêu thì vai trò của FDI đối với xuất khẩu
sẽ bị hạn chế. Do đó, Chính phủ nên khuyến khích mạnh các dự án FDI đầu tư tạo hàng xuất
khẩu trong các sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh, trong đó đặc biệt là những sản
phẩm có “lợi thế so sánh động” như trong các lĩnh vực đồ điện, điện tử gia dụng, máy tính,
phần mền, công nghiệp nhẹ và dịch vụ.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tùy theo luật đầu tư của các nước và thường có các hình thức sau:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual business Co-operation) là văn bản được kí kết giữa hai bên (các bên tham gia) trong đó quy định trách nhiệm và phần chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia để tiến hành đầu tư kinh doanh ở nước chủ nhà.
Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Enterprise) là doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở liên kết của các doanh nghiệp trong và ngoài nước theo luật pháp của nước chủ nhà; các bên tham gia liên doanh sẽ chịu trách nhiệm lẫn nhau trong phạm vi phần vốn góp của mình vào liên doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (Enterprise with 100% foreign owned capital) là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Dưới hình thức này cũng có các dạng công ty: công ty TNHH, công ty tư nhân,…
Hợp đồng “xây dựng – kinh doanh – chuyển giao” (Building – Operate – Transfer – BOT) là văn bản mà chính phủ nước chủ nhà ký với các nhà đầu tư bên ngoài để xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn lãi. Khi hết hạn công trình sẽ được nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước chủ nhà mà không đòi bồi hoàn. Có nhiều loại hình tương tự như BOT: xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO), xây dựng – chuyển giao (BT),…
Nhân tố tác động đến thu hút FDI:
- Lợi nhuận: đây là động lực mạnh mẽ và bao quát nhất tạo ra và chi phối những dòng FDI
- Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư: Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro kinh tế chính trị của vốn FDI vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Những bất ổn định kinh tế chính trị không chỉ làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho dòng vốn từ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi "trú ẩn" mới an toàn và hấp dẫn hơn.
- Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích ĐTNN: Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hóa để bảo đảm khả năng xuất - nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, cũng như sản phẩm, tức bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà ĐTNN.
- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng: đây là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI đổ vào một nước. Càng tạo cho các chủ ĐTNN sự an tâm về sở hữu và quyền chủ động định đoạt sử dụng mua bán đất đai, bất động sản mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình như một đối tượng kinh doanh thì họ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn vào các dự án trên lãnh thổ nước và địa phương tiếp nhận đầu tư.
- Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học và công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước và trên địa bàn: Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là điều kiện hàng đầu để một nước và địa phương vượt qua được những hạn chế về tài nguyên thiên nhiên và trở nên hấp dẫn các nhà ĐTNN. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư , làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước và địa phương.
- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai: Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của mỗi quốc gia cũng như mỗi địa phương.
Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 2006:
Năm 2006
- Tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 10.2 tỷ USD, tăng 57% so với năm 2005 và đạt mức cao nhất về vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến hết năm 2006.
- Vốn đầu tư thực hiện năm 2006 cũng đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua (tính đến năm 2006). Tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trong cả năm khoảng 4.1 tỷ USD, tăng 24.2% so với năm 2005.
- Chất lượng các dự án ngày càng được nâng cao, có nhiều dự án lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia. Trong đó phải kể đến dự án đầu tư của tập đoàn Intel tại thành phố Hồ Chí Minh có tổng vốn đầu tư lên tới 1 tỷ USD; dự án sản xuất thép tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của tập đoàn Posco Hàn Quốc với tổng vốn đầu tư khoảng 1.1 tỷ USD; dự án xây dựng nhà mày cán thép tại Khu Kinh Tế Dung Quất của Công Ty Tycoons Worldwide Steel với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD….
- Cơ cầu đầu tư có sự chuyến biến tích cự theo hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao và công nghệ thông tin, lĩnh vực y tế.. bên cạnh đó cũng có nhiều ngành công nghiệp nặng như sản xuất máy fax, máy in laze, sản xuất thép…
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế về vốn đầu tư nước ngoài đạt được nhiều kết quả ngoài mong đợi. Trong năm 2006 đã có thêm 250 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động làm tăng năng lực sản xuất của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 29.4 tỷ USD, tăng 31.3% so với năm 2005. Doanh thu xuất khẩu đạt 14.5 tỷ USD ( không kể dẩu thô), tăng 30.1% và đạt 22.6 tỷ USD ( chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước) nếu tính cả dầu thô.
Năm 2007
- Trong năm 2007, công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã tăng cả về lượng và chất. Về lượng, thu hút FDI đạt mức kỷ lục 20.3 tỷ USD. Về chất, thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng , thu hút được công nghệ nguồn và công nghệ cao.
- Điểm đáng chú ý trong năm 2007 là đã xuất hiện sự gia tăng đầu tư của các tập đoàn, công ty Nhật Bản và Hoa kỳ cùng một số đối tác truyền thống khác như Hàn Quốc, Hông Kông, Singapone, Đài Loan…Nhiều dự án quy mô lớn được triển khai như: dự án nhà máy lắp ráp và kiểm tra các bản mạch in của Công Ty TNHH Jabil Circuit (Mỹ) tại TP Hố Chí Minh với tổng vốn 100 triệu USD; hai nhà máy công nghệ cao của tập đoàn Foxconn (Đài Loan) ở Bắc Ninh có tổng vốn 80 triệu USD. Hà Nội có dự án khách sạn căn hộ cao cấp Keangnam của Hàn Quốc trị giá 500 triệu USD.
- Quy mô bình quân cho mỗi dữ án cao hơn mức bình quân năm 2006 (8.5 triệu USD) đạt trên 10 triệu USD. Có 400 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn đầu tư đăng ký thêm trên 1.8 tỷ USD.
- Tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện trong cả năm đạt 4.5 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2007.
- Năm 2007, FDI không chỉ đầu tư vào các lĩnh vực như công nghệ cao, công nghệ thông tin, dịch vụ, y tế mà còn đầu tư cả vào bất động sản. Tuy nhiên tỷ trong đẩu tư vào các lĩnh vực quá chênh lệch nhau: FDI được tập trung vào lĩnh vực sản xuất, công nghiệp nặng xếp hàng đầu với khoảng 21%, tiếp đó là các ngành xây dựng và khách sạn, nhà ở…Còn các ngành Nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp chỉ chiểm khoảng 6% tổng vốn FDI cam kết (mặc dù Chính phủ có nhiều biện pháp ưu đãi để khuyến kích FDI trong các lĩnh vực này). Một số lĩnh vực vướng mắc nhiều rào cản lớn nên FDI chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ như ngân hàng, viễn thông, quảng cảo, văn hóa, y tế, giáo dục.
Tình hình thu hút FDI vào Việt Nam tính hết năm 2008
Số dự án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ) (*)
Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ)
Tổng số
10981
163607,2
57045,5
1988
37
341,7
1989
67
525,5
1990
107
735,0
1991
152
1291,5
328,8
1992
196
2208,5
574,9
1993
274
3037,4
1017,5
1994
372
4188,4
2040,6
1995
415
6937,2
2556,0
1996
372
10164,1
2714,0
1997
349
5590,7
3115,0
1998
285
5099,9
2367,4
1999
327
2565,4
2334,9
2000
391
2838,9
2413,5
2001
555
3142,8
2450,5
2002
808
2998,8
2591,0
2003
791
3191,2
2650,0
2004
811
4547,6
2852,5
2005
970
6839,8
3308,8
2006
987
12004,0
4100,1
2007
1544
21347,8
8030,0
2008
1171
64011,0
11600,0
(*) Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp giấy phép từ các năm trước.
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Nguồn: amchamvietnam.com
Quá trình giải ngân vốn FDI trong những năm vừa qua.
V. TÁC ĐỘNG CUỘC KHỦNG HOẢNG 2008 ĐẾN VIỆT NAM.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế đã làm chậm tốc độ
phát triển kinh tế của Việt Nam. Kể từ quý ba năm 2008, giá hàng hóa thế giới có xu
hướng giảm, trong quý bốn năm 2008, các đơn hàng xuất khẩu đối với các sản phẩm dệt may
và các sản phẩm công nghiệp khác đã sụt giảm và sự trì trệ trong sản xuất ngày càng hiện rõ.
Trong quý một năm 2009, tác động của khủng hoảng đã trở nên rõ ràng khi GDP chỉ tăng
3,1% so với năm trước, và thấp hơn 4 phần trăm so với mức tăng trưởng bình quân của quí
một của một vài năm trước. Tuy nhiên, nhờ có những nỗ lực của chính phủ nhằm hỗ trợ các
hoạt động kinh tế, những dấu hiệu tích cực của sự phục hồi cũng đang xuất hiện. Chính phủ
đã công bố gói kích thích bao gồm nhiều biện pháp khác nhau, từ việc trợ cấp lãi suất, hoãn
thuế đến việc giải ngân thêm vốn. Kết quả là GDP đã tăng 4,5% vào quý hai và 5,8% vào
quý ba, làm cho tốc độ tăng GDP thực sự đạt 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái tính từ tháng
Một đến tháng Chín. Trong khi khu vực sản xuất vẫn còn phải đối mặt với những thách thức
lớn do nhu cầu giảm sút thì ngành xây dựng lại đang dẫn đầu về tốc độ phục hồi, với giá trị
thặng dư trong ngành ước đạt tới tỷ lệ tăng trưởng hai con số trong cả năm. Một yếu tố quan
trọng khác góp phần làm nên quá trình phục hồi, đó là sức mua nội địa với mức tăng doanh
thu bán lẻ thực tế lên 9,3% so với cùng kỳ từ tháng Một đến tháng Tám năm ngoái. Mặc dù
Ngân hàng Thế giới dự đoán mức tăng trưởng cả năm 2009 của Việt Nam sẽ là 5,5%, hoặc
thấp hơn 2 phần trăm so với trung bình các năm trước, chúng ta tin tưởng rằng nền kinh tế
Việt Nam sẽ tự tìm đường thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng một cách tốt đẹp.
Cuộc suy thoái kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng rõ rệt đến khu vực xuất nhập
khẩu của Việt Nam mà trong đó mối lo ngại chính là hoạt động xuất khẩu, vốn chiếm 70%
GDP. Trong tám tháng đầu năm 2009, xuất khẩu tính theo đôla đã giảm 14,2% so với cùng
kỳ năm trước. Doanh thu từ xuất khẩu đều giảm ở hầu khắp các mặt hàng và các thị trường
truyền thống của Việt Nam. Mặc dù sự giảm sút này còn ít hơn ở các nước đang phát triển
khác, nhưng nó cũng làm cho năm 2009 trở thành năm đầu tiên Việt Nam phải gánh chịu sự
sụt giảm về xuất khẩu kể từ khi bắt đầu cải cách kinh tế. Về nhập khẩu, tám tháng đầu năm
2009 đã chứng kiến sự suy giảm còn mạnh mẽ hơn, thấp hơn 28,2% so với cùng kỳ năm
trước. Sự xuống dốc tương đối của xuất khẩu và nhập khẩu lại giúp thu hẹp thâm hụt cán cân
thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai, trong đó thâm hụt tài khoản vãng lai được ước
đoán ở mức 5 phần trăm của GDP năm 2009, giảm xuống từ 11,9% năm 2008. Mức thâm
hụt thực tế có thể còn cao hơn thế nếu nền kinh tế tiếp tục đẩy mạnh đà phục hồi hiện nay.
Mặc dù có thể quản lý được mức thâm hụt tài khoản vãng lai theo dự đoán nhưng dự trữ
ngoại tệ lại sụt giảm từ mức 23 tỷ đôla vào cuối năm 2008 xuống còn khoảng 16,5 tỷ vào
tháng Tám năm 2009. Phần lớn sự sụt giảm diễn ra vào giữa tháng Năm và tháng Bảy khi
ngân hàng trung ương tác động vào thị trường hối đoái nhằm bình ổn tiền tệ.
Sự thâm hụt tài chính có khả năng tăng lên đến 9,4% GDP trong năm 2009,
phản ánh mức sụt giảm doanh thu và chi phí tiêu dùng tăng lên đáng kể. Doanh thu
thường có xu hướng suy giảm cùng với sự suy thoái của các hoạt động kinh tế, giá dầu giảm
và các biện pháp giãn thuế khác nhau trong các gói kích thích. Mức chi tiêu đã tăng đáng kể
do có các biện pháp kích thích tiêu dùng và cam kết của chính phủ nhằm đảm bảo mang lại
an sinh xã hội. Trong khi Việt Nam có thể kêu gọi thêm các nguồn tài chính từ bên ngoài t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khủng hoảng tài chính toàn cầu đến đầu tư nước ngoài và việt nam.doc