Đề tài Khủng hoảng tài chính trong khu vực và tác động của nó trước Việt Nam

IMF chịu trách nhiệm bảo vệ sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Vì vậy, vai trò trung tâm của IMF trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là rất rõ ràng và đã được tái khẳng định bởi cộng đồng quốc tế trên nhiều diễn đàn đa phương. Ưu tiên của IMF cũng rất rõ ràng: Khôi phục lòng tin vào các nền kinh tế bị khủng hoảng tác động.

 

Phản ứng tức thì của IMF với cuộc khủng hoảng nhằm khôi phục lòng tin vào các quốc gia bị ảnh hưởng gồm các hoạt động cụ thể như sau:

 

Áp dụng phương thức tỷ giá hối đoái linh hoạt ở những nơi chưa sử dụng phương thức này:

 

- Tạm thời thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế áp lực đối với cán cân thanh toán.

 

- Hành động tức thì để khắc phục những đặc điểm dễ thấy trong hệ thống tài chính, đã cấu thành những yếu tố chính gây nên khủng hoảng.

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2621 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính trong khu vực và tác động của nó trước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các hoạt động rủi ro hơn để nhằm kiếm được những khoản lợi nhuận khá hơn. * Nhóm nguyên nhân thứ ba: Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực. - Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á, đặc biệt là Mỹ. - Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi phồng các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ cũng đưa lượng cung bản tệ lên quá cao.Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng truởng GDP. - Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất khẩu của các nước Đông nam Á. Điều đó làm cho hàng hoá của những nước này mất đi lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, xuất khẩu đình trệ. - Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm trên thị trường thế giới mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước Châu Á chưa thể thích ứng kịp trong ngày một ngày hai. Tóm lại ,xét cho cùng thì những nguyên nhân từ phía bản thân các nước đang chịu khủng hoảng nặng nề mới là lýdo chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này. 2. Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng: Không cần nói nhiều thì chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà cuộc khủng hoảng đã để lại cho các nước Châu Á. Tuỳ theo tình hình thực tế ở mỗi nước, mỗi khu vực khác nhau mà hậu quả để lại cũng khác nhau. Song nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã tác động đến các nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế theo hai hướng khác nhau: các tác động tích cực và các tác động tiêu cực. 2.1. Các tác động tiêu cực: Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nẳm trong khu vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng tiền và của các thị trường tiền tệ ở mỗi nước và khu vực: là sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ vào mỗi nước và toàn khu vực, là sự giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả những điều đó đã làm cho giảm sút tốc độ tăng trưởng của các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng lai. Sự gắng gỏi giữ giá bản tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ ngoại tệ của nhà nước, đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình trạng thất nghiệp tăng nhanh, lạm phát cao. Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoan tăng trưởng kinh tế nhanh, kéo dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước đang phát triển khu vực, để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với nhịp độ tăng trưởng ôn hoà hơn. Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế giới khoảng 500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được nhưng tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính toán khoảng 150 tỷ USD đã bị rút khỏi Đông nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoai giảm niềm tin. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và tiếp tục giảm ở mức thấp trong những năm tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra. Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên vai các công ty - con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của chúng, nhất là đối với các Công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Ở Inđônêxia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài /GDP đã nhảy từ 35% lên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản. Tình hình “bong bóng bất động sản” vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi hoặc giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó bán. Khủng hoảng cũng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các nước trong khu vực(gấp đôi trong năm 1998 so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc và Inđônxia …) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do đó thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng hoảng. 2. 2. Các tác động tích cực: Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt các tác động xấu vô cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó,nó cũng mang lại những tác động tích cực. Đó là đem toàn bộ nền kinh tế châu á nói chung và Đông Nam Á, Đông Bắc Á nói riêng sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng nóng trước đó. Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước. Thứ hai, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục vụ cho mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá hơn nền tài chính quốc gia. Có thể nói cuộc khủng hoảng sẽ như một cú “động” mạnh để xốc lại nền kinh tế cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả. Toàn bộ nền kinh tế sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của khủng hoảng sẽ có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện hơn, do đó hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn. Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần và là dịp để chính phủ và nhân dân mỗi nước thuộc khu vực cũng như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế bổ khuyết những thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về những yếu tố thuộc con người… từ đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế. Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng cũng chuyển dịch vị thế về kinh tế chính trị truyền thống của các cường quốc tại khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Asean vầ Mỹ, châu Âu. 3. Diễn biến ở một số nước 3.1. Thái Lan – Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng: Trước cuộc khủng hoảng Thái Lan có một nền kinh tế dường như rất mạnh, với tốc độ tăng trưởng ổn định và được coi là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan được xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của Châu Á, lạm phát thấp ngân sách chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt, tình trạng thất nghiệp hầu như không có. Thực tế của hình ảnh mạnh mẽ này lại che giấu nhiều vấn đề nghiêm trọng bên trong. Do nhận thức muộn mằn, thiếu một sự quản lý tốt kể cả sự quản lý ở cấp chính phủ lẫn cấp công ty, việc tự do hoá về tài chính các thị trường vốn trở nên dễ bị tác động bởi các cuộc tấn công của hoạt động đầu cơ khi những yếu tố căn bản của thị trường còn yếu. Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém phát triển và hiểu quả. Một đặc điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991-1996 đầu tư nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính và sử dụng vốn vay ngắn hạn của nước ngoài. Việc sử dụng gần 90% vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty vì phải trả lãi thường xuyên và bằng ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu quả là nếu quản lý kinh doanh không tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty sẽ thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản bình quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/ năm vào năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 1996. Trong nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16.3%/năm còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng đã và đang tích luỹ nguy cơ khủng hoảng “phá sản doanh nghiệp”. Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả, các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan đã rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước. Trong cùng thời gian này, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) của hệ thống ngân hàng Thái Lan giảm còn 0,09%/ năm. Rõ ràng Thái đang tích luỹ nguy cơ khủng hoảng “phá sản các ngân hàng”. Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán trong suốt các năm 91-96, cán cân thương mại thâm hụt liên tục tổng cộng là 35,26 tỷ đôla. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 96 tới 4,7 tỷ đôla. Lý do của tình trạng này là xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích, lạm phát cao, đồng baht lên giá. Để bù đắp thâm hụt thương mại, Thái Lan phải vay nợ nước ngoài , nợ nước ngoài tăng 35,99 tỷ đôla (năm 91) lên 89tỷ (năm 96), gấp 2,47 lằn trong 5 năm. Nợ ngắn hạn năm 95 và 96 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 95. Kết quả tỷ giá hối đoái tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia này càng cao. Tóm lại cuối năm 96 và đầu 97 ở Thái Lan đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng ở mức cao. Khi xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đủ thông tin sẽ lo lắng, lo sợ ngân hàng và các tổ chức tài chính phá sản sẽ thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi các tổ chức này. Lo sợ tỷ giá hối đoái tăng, đồng baht mất giá khiến họ đổ xô đi mua ngoại tệ làm cầu ngoại tệ tăng. - Ngày 4 và 5tháng 3 năm 97 hơn 21, 4 tỷ baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính. - Sau đó ngày 9 tháng 4 năm 97 chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số công ty tài chính bị đóng cửa lên 58/91 (chiếm 64% toàn quốc). Chính phủ bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ giảm. - Thấy trước nguy cơ ngày 2/7/1997 chính phủ Thái Lan thả nổi đồng baht. Cùng với sự phá giá đồng baht là các ngân hàng, các công ty tài chính sụp đổ, tỷ giá hối đoái tăng cao các doanh nghiệp phá sản hàng loạt là bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở Thái khởi đầu cho khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á. 3.2. Inđônêxia-Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng: Inđônêxia là nước đông dân nhất khu vực Đông Nam Á -202 triệu người. Inđônêxia phát triển liên tục trong suốt 30 năm với nhịp độ tăng trưởng trung bình 6% GDP/năm. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã bùng nổ ở Thái lan và nhanh chóng lan tràn vào Inđônêxia. Cũng giống như Thái Lan, cuộc khủng hoảng mang đầy đủ những nguy cơ và điểm yếu như đã đề cập. Khủng hoảng tài chính tiền tệ được khởi đầu bằng việc mất giá của đồng Rupiah. Tháng 7 khi Thái Lan thả nổi đồng baht thì In đônêxia buộc phải nới lỏng khoảng giao động của tỷ giá từ 8% lên tới 12%. Đến tháng 8 thì đồng Rupiah bắt đầu bị tấn công. Ngày 14-8 cơ chế ấn định tỷ giá hối đoái bị thaythế bởi tỷ giá hối đoái được thả nổi tự do. Đồng Rupiah rớt giá mạnh hơn. Mặc dù IMF đã hỗ trợ 23 tỷ USD để giải quyết hậu quả nhưng đồng Rupiah vẫn rớt giá không cứu vãn được, thời điểm rớt giá cao nhất lên tới trên 625%. Đồng Rupiah và thị trường chứng khoán Jakarta thấp kỷ lục trong lịch sử vào tháng 9. Cuộc khủng hoảng làm cho mức sống người dân giảm xuống rất nhanh. Tỷ lệ thất nghiệp tăng 4 lần, tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ tăng 3 lần so với trước khủng hoảng. Dự trữ ngoại tệ giảm xuống mức thấp nhất từ trước đến nay. Do thời gian ủ bệnh quá lâu, mức độ khá trầm trọng nên nét đặc trưng của khủng hoảng ở Inđônêxia là diễn biến của cuộc khủng hoảng với tốc độ cao và những hậu quả nặng nề, kéo dài hơn so với các nước khác. 3.3. Hàn Quốc-Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (Chaebol): Sau một thời gian hoành hành ở các nước Đông Nam Á như Thái Lan , Inđônêxia, Malaixia,Philippines… đến tháng 10-1997 khủng hoảng tài chính bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc. Nhiều nhà kinh té nói, thực chất sự suy thoái kinh tế ở Hàn Quốc là sự sụp đổ một loạt các tập đoàn kinh tế lớn. Các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) được coi là những trụ cột của nền kinh tế Hàn Quốc. Thế nhưng chưa đầy 10 tháng, 7 trong 30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Phải đến khi tập đoàn thép Hanbo-tập đoàn lớn thứ 14 của hàn Quốc gục ngã vì không đủ sức thanh toán tổng số vốn nợ thì nền kinh tế Hàn Quốc mới thực sự bị chấn động. Như một bênh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng loạt tập đoàn khác lần lượt gục ngã. Sự đổ vỡ của một loạt tập đoàn lớn đã giáng một đòn nặng nề vào hệ thống tài chính ngân hàng của nước này vốn vẫn được coi là tụt hậu nhiều so với nền kinh tế. Mối lo ngại cho ngành tài chính ngân hàng là khả năng trả nợ nước ngoài, và việc đồng won mất giá. Ngày 17/11/1997 đồng won giảm quá mức dự đoán là 1000 won/USD và tiếp tục giảm nhiều trong nhiều ngày sau đó. Ngày 22/11/1997 đồng won giảm xuống mức kỷ lục là 1153 won/USD, tức là giảm 36,6% so với cuối năm 1996 và 19,5% so với mức cuối tháng 10/1997. Thị truờng tiền tệ ở Hàn Quốc trở nên náo loạn. Rõ ràng những gì đang xảy ra ở Hàn Quốc là một cuộc khủng hoảng. 3.4. Nhật Bản - Sự sụt giá của đồng yên: Vượt qua Hàn Quốc, cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ tràn vào đất nước mặt trời mọc - Nhật Bản. Một số công ty chứng khoán ở Nhật Bản bị phá sản, hàng ngàn nguời lao động mất việc và buộc thủ tướng Hashimoto phải từ chức. Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng yên từ tháng 5/1998 có lúc lên cao 146,5 yên/ USD vào cuối tháng 8/1998 ở mức 145,5 yên/1USD. Tốc độ tăng trưởng chậm một cách đáng nhớ trong năm 1997, từ năm 5% xuống còn 1,6% và chìm đắm trong suy thoái 1998. Như vậy sự yếu kém và mức độ bất ổn cao của đồng yên đã làm thay đổi tính chất của cuộc khủng hoảng. Không còn đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính mà nó biến thành cuộc khủng hoảng kép ( khủng hoảng tài chính tiền tệ), kèm theo nguy cơ của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện. Trên phạm vi toàn cầu, cơn bão tiền tệ Nhật Bản cũng đang chứng tỏ sức mạnh tàn phá của mình. Thị trường chứng khoán khắp nơi rung lên theo động thái lên xuỗng thất thường của đồng yên. Số phận của đồng USD và thị trường chứng khoán Hồng Kông đang đứng trước một thử thách mới gay gắt. Thực tế là tháng10/1997 thị trường chứng khoán Hồng Kông sụp đổ. 27/10/1997 chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm mạnh 554 điểm, thị trường chứng khoán New York tạm thời đóng băng. 3.5. Trung Quốc – một bức tường thành: Kể từ khi biến động tài chính nổ ra ở Thái Lan tháng 7 năm 1997 và đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á, đến nay Trung Quốc là nước duy nhất đứng ngoài cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và luôn là điểm sáng là đầu tầu tăng trưởng của khu vực này. Do cuộc khủng hoảng, kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 7/1997, xong mức giảm sút không nghiêm trọng lắm. Tỷ giá hối đoái của đồng yuan về cơ bản vẫn giữ được ổn định. Chỉ số tháng 1, tháng 6 và tháng 12 năm 1996 tương ứng là 105,82%; 107,16%; 109,08%. Như vậy sự biến động ở mức khá ổn định trong năm này. Do tỷ giá hối đoái của các đồng tiền Đông Nam Á và đồng Won nối đuôi nhau giảm xuống làm cho thị trường Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng chút ít bởi cuộc khủng hoảng nhưng có một điều chắc chắn rằng thị trường tài chính của Trung Quốc sẽ vẫn ổn định và đồng yuan sẽ được duy trì một cách an toàn. 3.6. Phillipnes: Ngân hàng trung ương tăng lãi suất lên 1, 75% vào tháng 5 năm 1997, tiếp tục tăng lên 2% vào ngày 19 tháng 6. Ngay khi Thái Lan bị khủng hoảng vào ngày 2 tháng 7 thì một ngày sau đó ngân hàng trung ương Phillipines bị buộc phải can thiệp để bảo vệ đồng peso tuy vậy đồng peso vẫn rớt giá một cách không ngờ, từ 26 peso/ USD tại thời điểm bắt đầu khủng hoảng, xuống mức 38 peso/ USD vào năm 2000, tại thời điểm cuối cuộc khủng hoảng thì con số này là 40 peso/ USD. Tại thị trường chứng khoán Phillipines, chỉ số PSE giảm xuống còn 1000 điểm từ mức 3000 điểm vào năm 1997. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn tới sự ra đi của tổng thống Joseph Estrada, thay thế vị trí của ông là bà Gloria Macapagal-Arroyo, bà là người đưa đất nước Phillipines ra khỏi cuộc khủng hoảng này. 3.7. Malaysia: Năm 1997, quốc gia này có một lượng lớn tài khoản vãng lai thâm hụt 6% GDP. Tháng 7, đồng Ringgit bị tấn công bởi những kẻ đầu cơ bằng việc bán đi một cách bất hợp pháp các cổ phần có nguồn gốc Malaysia ở Singapore. 4 ngày sau, Standard & Poor’s đánh giá thấp tỷ lệ nợ của Malaysia. 1 tuần sau, thị trường chứng khoán Kuala Lumpur sụt xuống còn 856 điểm, thấp nhất kể từ 1993. Mùng 2 tháng 10, đồng Ringgit lại một lần nữa rớt giá, thủ tướng Mahathir bin Mohamad ngay lập tức đưa ra chương trình kiểm soát vốn. Tuy nhiên, hệ thống tiền tệ vẫn không tránh khỏi sự sụp đổ vào cuối năm 1997 khi thủ tướng tuyên bố sẽ sử dụng 10 tỷ Ringgit vào các kế hoạch đường bộ, tàu điện và ống dẫn dầu. Năm 1998, sản lượng đầu ra của nền kinh tế bị suy giảm. Sản lượng của khu vực xây dựng rút xuống 23,5%, ngành công nghiệp thu hẹp 9% còn nông nghiệp là 5,9%. Xét tổng thể thì GDP của Malaysia giảm mạnh 6,2% năm 1998. Singapore: Luôn được coi là một nền kinh tế tương đối khoẻ mạnh so với các nước trong khu vực trong suốt thời kì khủng hoảng nhưng đương nhiên là quốc gia này vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì khả năng chèo lái đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng vẫn được chú ý rộng rãi, chính sách tài khoá của Singapore rất đáng để cho các quốc gia láng giềng học tập. Là một nền kinh tế mở, đồng đôla Singapore cũng được mở tự do cho thị trường đầu cơ ngay từ 1985. Nền kinh tế đủ năng động để khiến Singapore trở thành một quốc gia có chỗ đứng độc lập, chính phủ Sing quản lý tỉ giá hối đoái để tránh khả năng tấn công của đầu cơ. Tuy đồng tiền của quốc gia này được coi là đồng tiền mạnh nhất ASEAN vậy mà vẫn bị rớt giá 10% so với đồng đôla Mỹ trong suốt thời kì khủng hoảng. 4. Vai trò của IMF và bài học rút ra: IMF chịu trách nhiệm bảo vệ sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Vì vậy, vai trò trung tâm của IMF trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là rất rõ ràng và đã được tái khẳng định bởi cộng đồng quốc tế trên nhiều diễn đàn đa phương. Ưu tiên của IMF cũng rất rõ ràng: Khôi phục lòng tin vào các nền kinh tế bị khủng hoảng tác động. Phản ứng tức thì của IMF với cuộc khủng hoảng nhằm khôi phục lòng tin vào các quốc gia bị ảnh hưởng gồm các hoạt động cụ thể như sau: Áp dụng phương thức tỷ giá hối đoái linh hoạt ở những nơi chưa sử dụng phương thức này: - Tạm thời thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế áp lực đối với cán cân thanh toán. Hành động tức thì để khắc phục những đặc điểm dễ thấy trong hệ thống tài chính, đã cấu thành những yếu tố chính gây nên khủng hoảng. Cải cách cơ cấu nhằm xoá bỏ những đặc điểm yếu kém của nền kinh tế gây cản trở cho sự phát triển (như độc quyền, hàng rào mậu dịch, thông lệ không minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp) và cải thiện hiệu quả của các định chế tài chính trung gian cũng như tính lành mạnh của hệ thống tài chính tương lai. Nỗ lực khai thông hoặc duy trì những kênh tài trợ từ nước ngoài. Duy trì chính sách tài chính lành mạnh, bao gồm chính sách tăng ngân sách chi cho cơ cấu lại ngành tài chính, trong khi vẫn đảm bảo chi tiêu xã hội. Cải cách cơ cấu mạnh mẽ, sâu rộng và hạt nhân cuả tất cả các chương trình, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong những chương trình mà IMF đã tài trợ trong quá khứ, những vấn đề tồn tại trong các quốc gia là sự mất cân bằng, phản ánh chính sách kinh tế vĩ mô không phù hợp. Dù được thiết kế phù hợp với hoàn cảnh đặc thù từng quốc gia, trong mọi trường họp chương trình vẫn nhằm thực hiện các mục tiêu: + Đóng cửa các tổ chức tài chính không còn khả năng tồn tại, cùng với điều chỉnh dòng vốn của các cổ đông. + Tái cơ cấu nguồn vốn cho các định chế thiếu vốn. + Tăng cường sự tham gia của nước ngoài vào hệ thống tài chính trong nước nhằm giải quyết các vấn đề về quản lí nhà nước đã góp phần gây nên khủng hoảng. Việc cải cách hệ thống tài chính đang được củng cố bằng các biện pháp được thiết kế nhằm cải thiện hiệu quả của các thị trường, phá vỡ mối liên hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và chính phủ, triệt để tự do hoá thị trường. Tính công khai phải được tăng cường, cả trong việc công bố các dữ liệu kinh tế (cụ thể là về dự trữ ngoại tệ và nợ) lẫn trong hoạt động tiết lộ thông tin của khu vực tài chính, doanh nghiệp và khu vực ngân hàng. Các biện pháp bổ sung do IMF thực hiện dể đối phó với cuộc khủng hoảng: Ngoài các biện pháp đã nêu, IMF còn bổ sung thêm vào các biện pháp như thiết kế chương trình và cung cấp nguồn tài chính để hỗ trợ với các bước đã thực hiện sau đây: - Hội đồng quản trị tự quản lý đã sử dụng trình tự quản lý nhanh được thiết lập theo cơ chế tài trợ khẩn cấp và điều khoản về tình trạng đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các nước thành viên về thời gian phê duyệt và khối lượng tài trợ. - Chương trình dự trữ bổ sung đã được tạo lập để phục vụ các quốc gia thành viên trong tình trạng đặc biệt đang gặp khó khăn nghiêm trọng về cán cân thanh toán do nhu cầu lớn về tài chính ngắn hạn phát sinh từ việc mất lòng tin của thị trường. - Sự phối hợp giữa IMF với các định chế tài chính quốc tế khác, đặc biệt là ngân hàng thế giới và ADB cũng như với các nhà tài trợ song phương, nhằm tập trung sự giúp đỡ thực sự của cộng đồng quốc tế đối với chương trình cải cách kinh tế ở các quốc gia chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính. - Tăng cường cấp độ đối thoại giữa IMF với cử tri ở các quốc gia, tham gia chương trình đã được khởi xướng, bao gồm cả việc tham khảo ý kiến của các nhóm lao động và những mối liên hệ rộng mở với giới báo chí và công chúng . - Các chương trình của IMF đã được tiếp tục bằng các nỗ lực hợp tác giữa các ngân hàng, chủ nợ quốc tế và các con nợ ở các quốc gia bị ảnh hưởng nhằm giải quyết những khó khăn nghiêm trọng trong việc tài trợ cho khu vực tài chính tư nhân vốn là trung tâm của cuộc khủng hoảng. - Các biện pháp tạm thời đã được thực hiện khi cần thiết, bao gồm việc bổ nhiệm phó tổng giám đốc điều hành IMF - Prabhakar Narvekar làm cố vấn đặc biệt của tổng thống Inđônêxia, thành lập các văn phòng đại diện tại Hàn Quốc và Thái Lan và hàng loạt các hoạt động thông qua văn phòng khu vực Châu Á Thái Bình Dương của IMF mới được thành lập. Trước nhu cầu cấp thiết đối với việc phối hợp cộng đồng quốc tế đối phó với khủng hoảng và sự bất ổn lớn ở Châu Á, các chương trình IMF trợ giúp, đã gặp phải sự dò xét của nhiều bình luận viên. Tuy nhiên, một số ý kiến phê phán là dựa trên những nhìn nhận sai lầm về phản ứng của IMF đối với những sự kiện ở Châu Á. Những bài học từ cuộc khủng hoảng: IMF đã xác định 6 khu vực chính mà những sáng kiến đã được đưa ra cần phải được tăng cường: - Giám sát có hiệu quả hơn chính sách và thực thi chính sách kinh tế của các quốc gia, hỗ trợ bằng quá trình công khai hoá đầy đủ hơn tất cả dữ liệu kinh tế và tài chính quan trọng. IMF đã lập và sẽ tiếp tục cải tiến các chuẩn mực dữ liệu để hướng dẫn các quốc gia thành viên công bố dữ liệu một cách đáng tin cậy và kịp thời. - Cải cách lĩnh vực tài chính, kể cả việc ban hành các quy định an toàn và giám sát cao hơn. - Việc nuôi dưỡng quá trình tự do hoá tài khản vốn được tiến hành từng bước có trật tự và bài bản để tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro của sự tự do di chuyển vốn. - Thúc đẩy quá trình giám sát trong khu vực. - Nỗ lực trên khắp thế giới để thúc đẩy quản lý nhà nước để chống tham nhũng. - Những cơ cấu hữu hiệu hơn để giải quyết nợ một cách tuần tự,kể cả luật phá sản tốt hơn ở cấp độ quốc gia và các giải pháp tốt hơn ở cấp độ quốc tế,để liên hiệp các chủ nợ và các nhà đầu tư của lĩnh vực tư nhân với các nỗ lực chính thức để giải quyết các vấn đề nợ quốc gia và nợ tư nhân. Tất cả các bước ở trên nhằm phục vụ cho mục tiêu dài hạn trong giải pháp của IMF đối với cuộc khủng hoảng Châu Á, cho phép nền kinh tế bị tác động ở Châu Á phát triển mạnh mẽ hơn, nhanh chóng phục hồi tăng trưởng và giúp tăng cường hệ thống tiền tệ quốc tế, đương đầu với những thử thách trong thế kỷ tới. III. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH KHU VỰC TỚI VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA CHÍNH PHỦ: Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam được chia thành hai giai đoạn trước “đổi mới” và sau “đổi mới”. Trước đổi mới là thời kì từ năm 1976 đến năm 1985, sau đổi mới là giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Hiện tại nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế mở. Từ khi “đổi mới” Việt Nam ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới, do đó cũng đã phải chịu những ảnh hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Trên con đường chuyển đổi cơ chế và hội nhập Việt Nam đã đạt được không ít thành tựu cũng như phải đối đầu với không ít thách thức.Trong tiểu luận này chúng ta chỉ xét đến nền kinh tế Việt Nam kể từ thời kì mở cửa, khi mà đất nước ta có những ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á. Tác động tiêu cực: Xét về lĩnh vực thương mại, dưới thời kì kế hoạch hoá, Việt Nam kiểm soát chặt chẽ việc giao dịch thương mại nước ngoài. Tại thời điểm đó, Liên Xô cũ và Đông Âu là những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Tất cả mọi giao dịch đều do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Sau đổi mới năm 1986, xuất khẩu được coi là mục tiêu số một. Rất nhiều chính sách đã được thi hành. Tự do hoá thương mại bằng việc giảm bớt sự hạn chế của hệ thống thuế quan và phi thuế quan nhằm khuyến khích người xuất khẩu. Năm 1990, tỷ lệ tăng trưởng của xuất khẩu đạt 23,5%. Năm 1991, tỷ lệ này giảm xuống -13,2% bởi sự tan rã của Liên bang Xô viết và Đông Âu, những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Những năm sau, V

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhung_hoang_tai_chinh_62.doc
Tài liệu liên quan