Đề tài Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ quốc tế - Phân tích rủi ro tiềm ẩn của nền kinh tế Việt Nam

 

MỤC LỤC

 

I. KHÁI NIỆM KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 4

II. DIỄN BIẾN, NGUYÊN NHÂN

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI HIỆN NAY .6

III. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG ĐẾN THẾ GIỚI 12

IV. NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG SAU

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ .22

V.TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG

ĐẾN VIỆT NAM .24

VI. MỘT SỐ CUỘC KHỦNG HOẢNG

TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KHU VỰC .28

VII. CÁC NGUY CƠ RỦI RO TIỀM ẨN CỦA

KINH TẾ VIỆT NAM .35

VIII. KẾT LUẬN , GIẢI PHÁP CHO CÁC RỦI RO

CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 47

 

 

 

 

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2698 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ quốc tế - Phân tích rủi ro tiềm ẩn của nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phức tạp hơn do các công cụ đầu tư tinh vi, khó kiểm soát, nhưng riêng về giá bất động sản, sự biến động tăng giảm không lớn lắm so với Nhật Bản 15 năm trước. Thứ hai, trong thập niên 1990 Nhật bị giảm phát nặng nên lãi suất danh nghĩa giảm đến gần số không nhưng lãi suất thực vẫn cao. Hiện nay Mỹ lạm phát vài phần trăm nên dễ dùng chính sách tiền tệ kích thích sản xuất hơn Nhật hồi thập niên 1990. Các yếu tố làm cho kinh tế Nhật hồi phục từ năm 2003 cũng cho thấy những gợi ý cho khả năng hồi phục của kinh tế Mỹ hiện nay. Một mặt Nhật can thiệp tích cực vào thị trường ngoại hối giữ cho đồng yen ở mức thấp, nhờ đó đẩy mạnh xuất khẩu. Mặt khác, chính phủ bơm tiền vào ngân hàng, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho vay. Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng cao suốt cả một giai đoạn dài góp phần tăng ngoại nhu để kinh tế Nhật chóng hồi phục. Cả 3 yếu tố này ngày nay cũng có thể thấy trong trường hợp của kinh tế Mỹ. Do đó, vấn đề nợ xấu của Mỹ có lẽ không kéo dài như Nhật 15 năm trước. Có thể từ cuối năm 2009 kinh tế Mỹ có triển vọng bước vào quá trình hồi phục. Với tình hình khủng hoảng tình trạng thất nghiệp sẽ ra tăng. Tại Mỹ con số thất nghiệp đã lên tới 9,5%, tại khu vực châu Âu là là 9,8%. Riêng tại Đức đầu tàu kinh tế Châu Âu đã là 9%. Riêng ở Nhật là 5,5 %. Tình trạng thất nghiệp sẽ là thach thức đối với các nước. Khi mà chỉ số thất nghiệp luon là chỉ tiêu đánh giá nền kinh tế. Việc thất nghiệp cao tạo sức ép lên ngân sách nhà nhà nước khi phải hỗ trợ tiền trợ cấp. Trong khi ngân sách của các nước hiện nay có xu hướng thâm hụt cao. IV NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG SAU KHỦNG HOẢNG KINH TẾ Khủng hoảng tài chính khiến cả thế giới bị chịu tác động. Không những thế nó còn tác động lớn khi cuộc khủng hoảng đi qua. Măc dù cuộc khủng hoảng chưa có dấu hiệu kết thúc các ngân hàng , tổ chức tài chính trên thế giới lần lượt nộp đơn phá sản hoặc sáp nhập , bán lại . Các nước trên thế giới gặp khó khăn trông việc tạo dựng việc làm cho nhân dân khi mà tình trạng thất nghiệp trở nên nghiêm trọng. Thì dấu hiểu khủng hoạng nợ công đã được thấy dõ một cách rõ hơn khi mà tổng số nợ công trên thế giới đã ở mức 35000 tỷ USD. Tình hình nợ công không chỉ diễn ra tại các nước nhỏ mà ngay cả các nước lớn những đầu tàu kinh tế thế giới. Ngay cả đầu tau kinh tế Mỹ cũng đã nợ tới 11500 tỷ USD , tổng số nợcủa Mỹ chiếm tới 80% GDP của nước này.Hay nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới là Nhật cũng đã nợ tới 10000 tỷ USD gấp đôi GDP của nước này. Có thể nói chưa bao giờ các nước trên thế giới lại vay nợ nhiều như bây giờ kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II 1945. Việc vay nợ nhiều đã trở thành một vấn đề ngay từ bây giờ không phải là câu chuyện trước mắt. Nếu như sau chiến tranh thế giới thứ II với kế hoạch Mashall của mình thì Mỹ là chủ nở của các nước châu Âu thì hiện tại tất cả đều là những người đang phải chịu nợ. Thứ nhất ở các nước phát triển đứng trước tình thế là đảm bảo an sinh xã hội. Khi mà ở các nước này tình hình dân số già và việc phải trả một khoản tiền lớn cho lương hưu hay trợ cấp sẽ khiến tình hình nợ công trở nên khó khăn hơn. Đơn cử Nhật Bản với tuổi thọ bình quân khoảng 86 tuổi thì việc đáp ứng nhu cầu của người dân sẽ là thach thức lớn. Cộng thêm khoản trợ cấp thất nghiệp khi mà tinh hình thất nghiệp đang ngày càng cao. Thứ hai : Với các gói kích cầu của từng quốc gia. Với những số tiền lớn như vậy cũng tạo nên khoảng thâm hụt ngân sách của mình. Nguy cơ vỡ nợ ở các quốc gia yếu. Và điều đó đã được minh chứng tai Ireland và Rumani. Hay một số các quốc gia Hy Lạp , Italia, Tây Ban Nha. Dưới đây là bảng cho thấy tình trạng nợ công của các nước phát triển nhất thế giới ( theo buttonwood.economist.com) Series Nominal GDP (US$) Public debt Public debt (% of GDP) Population Population (% change pa) Public debt per capita UNITED STATES 13958.2 7228.0 51.9 306.8 0.9 23,560 JAPAN 4972.2 9490.4 190.0 127.1 -0.2 74,680 CHINA 4933.1 934.5 18.8 1333.5 0.4 701 GERMANY 3097.9 2462.3 78.4 82.8 0.1 29,738 UNITED KINGDOM 2110.6 1493.7 68.4 61.9 0.7 24,147 FRANCE 2621.9 2057.4 77.4 62.6 0.5 32,872 ITALY 2067.3 2413.6 115.2 58.1 0.0 41,520 SPAIN 1404.1 829.4 58.3 45.8 0.5 18,124 RUSSIAN 1283.2 187.8 14.7 141.4 -0.3 1,328 INDIA 1228.1 753.9 60.8 1166.1 1.6 647 INDONESIA 486.8 157.2 31.4 240.3 1.2 654 AUSTRALIA 864.5 159.1 18.5 21.3 1.2 7,481 SOUTH AFRICA 261.6 70.2 35.2 49.0 0.6 1,432 ARGENTINA 268.8 124.9 52.9 40.1 1.0 3,113 BRAZIL 1400.2 599.4 41.2 194.4 1.3 3,084 KOREA, REP. OF 742.6 228.0 29.9 49.4 0.4 4,616 MEXICO 837.7 255.5 30.5 111.2 1.1 2,297 TURKEY 596.4 284.8 47.9 72.6 1.0 3,922 Những con số biết nói. Qua đó ta thấy được tình trang của một số nước. V. TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG ĐẾN VIỆT NAM Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ có tác động trực tiếp thế nào đến Việt Nam? Điều đó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước.Tình hình hội nhập mở cửa của Việt Nam có sâu rộng với kinh tế Mỹ và thế giới hay không? Xét trên khía cạnh Đầu tư, hiện nay, Mỹ đứng thứ 6 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam. Mỹ cũng là nhà đầu tư (NĐT) lớn, nếu cộng cả giá trị đầu tư qua các nước thứ 3 thì Mỹ là NĐT số 1 vào  Việt Nam trong nhiều năm qua. Các dự án từ Mỹ vào Việt Nam phần lớn là giai đoạn đầu và tập trung nhiều vào hạ tầng dài hạn. Ngược lại, quan hệ về ngắn hạn chúng ta xuất sang Mỹ nhiều hơn. Trên lĩnh vực thương mại, Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng khoảng 23-25%. Còn lại, quan hệ giữa 2 hệ thống tài chính, ngân hàng gần như không đáng kể. Về các tác động gián tiếp,  Việt Nam chưa vào sâu trong cuộc chơi toàn cầu nên đang có lợi thế là cơn tác động này chưa lan tới. Các nền kinh tế khác trong những ngày qua đã bị ảnh hưởng. Lợi thế này tạo cho chúng ta cái nhìn tốt về một nền kinh tế “an bình” không bị bão táp làm tan vỡ. Chính điều này đã quyết định tính chất và quy mô của cơn địa chấn này đến nền kinh tế nước ta. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng về mặt tiền tệ đối với Việt Nam có lẽ không đáng kể. Những loại chứng khoán mà hiện nay đang có vấn đề của những công ty chứng khoán và bảo hiểm của Mỹ chưa bán ở Việt Nam. Hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa lành mạnh, dễ tổn thương, dễ lâm vào bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội bộ Việt Nam như thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, dân chúng khó tiếp cận, tồn tại giao dịch nội gián..., chứ không liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng ở Mỹ. Ngành ngân hàng Việt Nam bị ảnh hưởng không đáng kể bởi hầu hết các NH Việt Nam là NHTM, phục vụ cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp, độ phân tán rủi ro cao và không có sự liên thông đầu tư với các ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ như các nước khác. Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư. Nếu có chăng cũng chỉ có thể xảy ra khả năng một số nhóm nhà đầu tư sẽ làm động tác “xả hàng” cổ phiếu ngành ngân hàng nhằm làm trầm trọng thêm tình hình để kéo giá cổ phiếu ngân hàng xuống“. Đầu tư trực tiếp (FDI) ở Việt Nam có lẽ cũng không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mỹ. Các nhà đầu tư chính ở Việt Nam là Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... Ngay cả những công ty chế tạo của Mỹ nếu có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ không vì cuộc khủng hoảng này mà đình hoãn kế hoạch đó. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy kinh tế Nhật suy thoái hầu như không ảnh hưởng gì đến FDI của họ ở Trung Quốc và  Việt Nam. Kinh nghiệm của Intel tại Việt Nam cũng cho thấy công ty này chậm triển khai kế hoạch đầu tư ở nước ta chủ yếu vì không bảo đảm được nguồn nhân lực có trình độ cao cần thiết. Theo một khảo sát gần đây thì các doanh nghiệp nước ngoài khi được hỏi họ nước nào là địa điểm mà họ sẽ chú trọng đầu từ vào? Thì Việt Nam được nhiều người chọn lựa là thị trường mục tiêu hàng đầu. Vì VIệt Nam có tình hình chính trị ổn định cộng thêm cơ sở pháp lý của Việt Nam ngày càng được cải cách , làm thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cộng thêm khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng ít bị chịu ảnh hưởng bởi khủng hoảng và được dự đoán là khu vực sẽ hồi phục nhanh sau khủng hoảng. Lĩnh vực xuất khẩu: Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc suy thoái của Mỹ có lẽ là ở lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng phần lớn sản phẩm của ta xuất khẩu sang Mỹ là hàng may mặc, giày dép và hàng thủy sản nên trước mắt chỉ những mặt hàng này gặp khó khăn. Dù Mỹ không gặp khủng hoảng, việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nhất định sang Mỹ dễ gây va chạm với các nhà sản xuất bản xứ. Vấn đề của Việt Nam là phải nỗ lực chuyển dịch cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu theo hướng cao cấp hơn, đa dạng hơn. Trong thời gian trước mắt, Việt Nam nên củng cố sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp để khi kinh tế Mỹ hồi phục sẽ triển khai chiến lược xuất khẩu với nhiều mặt hàng đa dạng hơn. Đối với Bất động sản: Chỉ có  FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao cấp là có thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên sự suy giảm trong lĩnh vực đầu tư này không phải là điều đáng quan ngại. Đối với Thị trường chứng khoán: Sự ảnh hưởng nếu có thì chỉ do tác động tâm lý nhất thời của nhà đầu tư (NĐT). Còn hoạt động của thị trường chứng khoán vẫn do các yếu tố nội tại của nền kinh tế nước ta quy định. Điều này thấy rõ nhất khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam không còn quá bị ảnh hưởng của khối ngoại. Nhưng tháng qua mặc cho các quỹ đầu tư nước ngoài thoái vốn hay khối ngoại bán ròng thì thị trường chứng khoán VIệt Nam vẫn sôi động . Về mặt tâm lý ảnh hưởng lớn đến thị trường do thị trường chứng khoán Việt Nam mới được hình thành vì vậy việc chạy theo đám đông là điều không thể chánh khỏi ở thị trườn Việt Nam. Mặc cho các công ty chứng khoán tại VIệt Nam có mối quan hệ làm ăn với các công ty tổ chức nước ngoài hay không thì thị trường vẫn bị ảnh hưởng theo. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ở thị trường nước ngoài có thể khiến nguồn vốn đầu tư vào TTCK Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của các tổ chức đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam cũng phải dè dặt trong đầu tư. Điều này làm hạn chế nguồn cung của thị trường, làm cho TTCK khó có thể tăng quá nhanh như vừa qua. Đối với ngành du lịch: Ngành du lịch Việt Nam cũng sẽ không bị tác động nhiều vì khách du lịch vào Việt Nam rất đa dạng chứ không tập trung ở phân khúc khách cao cấp. VI. MỘT SỐ CUỘCKHỦNG HOẢNG TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ KHUU VỰC 1. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ gắn liền với cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới 1929 – 1933: Đồng Bảng Anh mất giá nghiêm trọng trên thị trường quốc tế và thị trường nội địa từ giữa cuối năm 1930. Sau những cố gắng trong tuyệt vọng đã bị phá giá vào tháng 9/1931 - với tỷ lệ phá giá 33% cùng với tuyên bố của chính phủ Anh hủy bỏ chế độ chuyển đổi Bảng Anh ra vàng. Khi đồng Bảng Anh phá giá thì mũi nhọn của cuộc khủng hoảng hướng vào USD, trước sức ép nặng nề của cuộc khủng hoảng Bảng Anh, giới đầu cơ chuyển hướng tấn công vào kho dự trữ vàng của Mỹ. Tháng 3/1933, tổng thống Hoa Kỳ ra đạo luật đình chỉ chuyển đổi USD ra vàng, từ đó làm cho đồng USD ngày càng mất giá thêm, tháng 1/1934 tổng thống Mỹ chuẩn y đạo luật của Hạ viện: “Quốc hữu hoá dự trữ vàng”. Tháng 11/1934 chính phủ Mỹ tuyên bố phá giá đồng USD với tỷ lệ 41%. Hàm lượng vàng của USD giảm từ 1,5046g xuống còn 0,8867g 2. Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ quốc tế năm 1967: Đồng Bảng Anh đã bị mất giá từ đầu năm 1967, đồng Bảng Anh bị bán ra ồ ạc trên thị trường làm cho nó ngày càng mất giá, NHTW Anh đã sử dụng dự trữ quốc tế (USD) để mua Bảng Anh vào nhằm giữa tỷ giá Bảng Anh không bị sụt giảm. Tuy nhiên, không chịu nổi cuộc tấn công của lực lượng đầu cơ, tháng 11/1971 chính phủ Anh đã phải tuyên bố phá giá Bảng Anh 14%. Tiếp theo là khủng hoảng đồng Frăng Pháp năm 1968, đồng Mác, đồng Yên. 3. Cuộc khủng hoảng USD và sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods Thực ra thì cuộc khủng hoảng USD bắt nguồn từ năm 1967 với sự phá giá của đồng Bảng Anh – Theo hệ thống tiền tệ Bretton Woods, ngoài đồng USD là đồng tiền quốc tế chủ chốt số 1, còn có đồng Bảng Anh giữ vị trí đồng tiền quốc tế chủ chốt số 2, cuộc khủng hoảng đồng Bảng Anh với sự phá giá 14% đã góp phần đẩy nhanh cuộc khủng hoảng USD đi đến sụp đổ năm 1971. Giới đầu cơ đã tung ra thị trường hàng tỷ USD để mua vàng, hoặc săn lùng những đồng tiền ổn định. Thị trường hối đoái Frankfurt, Tokyo, Zurich đã bị chao đảo bởi làn sóng USD tràn vào từ các nơi trên thế giới, NHTW Đức, Nhật, Thụy Sĩ …đã thả nỗi đồng tiền trong nước, vì không thể can thiệp để cứu vãn sự xuống dốc của USD. Trong sự khủng hoảng nghiêm trọng đó của USD, tháng 12/1971 tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố: “Đình chỉ chuyển đổi USD ra vàng”, “Phá giá USD 7,89%”. Sau đó tháng 2/1973 lại phá giá 10%. Hệ thống tiền tệ Bretton Woods (còn gọi là hệ thống bán vị USD) với tỉ giá cố định đã bị sụp đổ hoàn toàn 4. Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ Mexico Với sự ảnh hưởng rộng lớn và rất nghiêm trọng đến các nước châu Mỹ la tinh cuối năm 1994 Nguyên nhân Sau cuộc khủng hoảng nợ năm 1982, Mexico đã tiến hành một loạt cải cách giúp khôi phục được nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng trở lại trong khi peso Mexico lại được neo vào dolla Mỹ đã dẫn tới hiện tượng Peso lên giá so với dollar. Đầu thập niên 1990, hiện tượng này diễn tiến nhanh chóng. Hậu quả là xuất khẩu của Mexico chịu ảnh hưởng bất lợi trong khi nhập khẩu được thúc đẩy. Điều này dẫn tới Mexico trở nên bị thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Đầu năm 1993, mức độ thâm hụt tương đương 6,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Sự thâm hụt này chủ yếu được bù đắp bằng vay nợ ngắn hạn của nước ngoài. Một thời gian dài, lãi suất của Mexico cao hơn lãi suất của Mỹ. Kinh tế tăng trưởng mạnh, tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định, lãi suất trong nước cao là những nhân tố thúc đẩy dòng vốn tư nhân nước ngoài đổ vào nền kinh tế Mexico. Riêng thời gian từ 1990 đến 1993, Mexico đã thu hút được 93 tỷ Dollar đầu tư nước ngoài, chiếm một nửa tổng đầu tư nước ngoài vào Mỹ Latin. Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã kiến nghị chính phủ Mexico có các biện pháp giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, mức độ thâm hụt tiếp tục gia tăng trong năm 1994, lên tới 8% GDP. Cuộc bầu cử tổng thống Mexico vào tháng 8 năm 1994 cộng với một loạt sự kiện an ninh trong nước (sự nổi dậy của người Anh-điêng ở Chiapas, vụ ám sát ứng cử viên tổng thống Luis Conaldo Colosio) và ngoài nước đã khiến chính phủ không tập trung đủ cho xử lý thâm hụt. Chính phủ đã phá giá peso theo từng biên độ nhỏ. Các nhà đầu tư trở nên lo ngại về sự bền vững của nền kinh tế Mexico. Việc chính phủ đổi các khoản nợ định danh bằng peso sang định danh bằng dollar càng làm người ta lo lắng hơn. Bên cạnh đó, năm 1994 đã xảy ra hiện tượng lãi suất quốc tế tăng lên kích thích các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục đầu tư của mình theo hướng giảm đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển. Hai xu hướng trên đã kết hợp với nhau tạo nên sự rút vốn ồ ạt khỏi Mexico. Diễn biến Ngày 1 tháng 1 năm 1994, lực lượng vũ trang Zapatistas đã nổi dậy. Cuối tháng 2, tỷ giá hối đoái giữa peso và dollar tăng đến kịch trần biên độ giao động. Nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn lạc quan về tình hình Mexico và vốn nước ngoài vẫn tiếp tục đổ vào. Tháng 3, úng cử viên tổng thống Colosio bị ám sát. Do bất ổn về chính trị các nhà đầu tư nước ngoài trở nên bất an và lo lắng cho tài sản của mình ở Mexico. Hoảng loạn tài chính đã xảy ra. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã giảm nhu cầu về chứng khoán của Mexico. Peso chịu sức ép mất giá và chính phủ đã tung khoảng 10 tỷ dollar dự trữ ngoại hối nhà nước ra để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa. Tháng 4, lãi suất trái phiếu chính phủ định danh bằng peso có xu hướng tăng. Lo ngại rằng điều này có thể gây tổn thương cho khu vực ngân hàng chưa đủ mạnh của đất nước và sợ rằng lãi suất cao có thể gây ra suy thoái kinh tế vào một năm có bàu cử tổng thống, nên chính phủ đã một mặt dùng dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi suất, một mặt tiến hành đổi các trái phiếu chính phủ từ định danh bằng peso sang định danh bằng dollar. Đã có cảnh báo của một số học giả kinh tế về việc peso quá cao so với dollar. Chính phủ Mexico chọn biện pháp vừa dùng dữ trữ ngoại hối để giữ ổn định tỷ giá, vừa từng bước nhỏ điều chỉnh tỷ giá. Tháng 8, tổng thống mới nhậm chức. Các chính sách tài chính, tiền tệ vẫn được giữ như cũ. Cuối tháng 9, José Francisco Ruiz Massieu bị ám sát. Các nhà đầu tư thêm bất an. Song chính phủ vẫn không điều chỉnh chính sách. Giữa tháng 10, Cục dữ trữ Liên bang Mỹ tuyên bố mặc dù lo ngại về mức dự trữ ngoại hối ít ỏi của Mexico, song Mexico đừng nên mong đợi chi viện của nước ngoài. Các nhà đầu tư càng thêm bất an. Giữa tháng 10, sau khi một số công ty lớn của Mexico công khai tình trạng lợi nhuận của mình giảm sút. Thị trường chứng khoán Mexico chao đảo. Áp lực mất giá peso càng thêm mạnh. Các nhà đầu tư bắt đầu rút khỏi thị trường Mexico. Cuối tháng 10, thống đốc ngân hàng trung ương Mexico công khai rằng dữ trữ ngoại hối của Mexico chỉ còn 17,12 tỷ dollar. Ngày 20 tháng 12 năm 2004, peso bị mất giá mạnh. Chính phủ đã can thiệp nhằm giảm tốc độ mất giá, song không có hiệu quả mà lại mất rất nhiều dự trữ ngoại hối nhà nước. Đến ngày 22, chính phủ đành tuyên bố thả nổi peso. Quyết định này đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng tin vào khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn (các khoản nợ nước ngoài nếu tính theo peso phình ra khi tỷ giá giữa peso và dollar tăng lên). Vì thế, peso càng mất giá hơn nữa. Nợ nước ngoài đột nhiên tăng lên đã khiến bảng cân đối tài sản của các xí nghiệp và ngân hàng của Mexico xấu đi. Hậu quả là nền kinh tế Mexico rơi vào khủng hoảng thực sự. 5. Cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ Châu Á 1997: Năm 1997 khủng hoảng thị trường tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á sau đó lan rộng ra nhiều nước ở Châu Á. Thái Lan là nơi châm ngòi cho phản ứng dây chuyền giảm giá tiền tệ trong khu vực, sau đó các nước trong khu vực Đông Nam Á như Philippine, Indonesia, Malaysia, Singapore Tháng 10/1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc, tiếp theo là Nhật Bản (nền kinh tế đứng thứ 2 của thế giới). Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảngtài chính bắt đầu từ tháng7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là “những con hổ châu Á”. Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á. Inđonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malayxia,Philipin cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Trung Quốc, Đài Loan Singapo, Việt Nam không bị ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình. Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Baraxin , MỸ. Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là “bộ ba chính sách không đồng thời”. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hoá tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế. Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hoátài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. Các dòng vốn nước ngoài kéo vào Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á. Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân Tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á(hiện tại Trung Quốc vẫn duy trì đồng Nhân Dân Tệ thấp hơn giá trị thực).Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, FED bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng đôla Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Những tháng đầu năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ. Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra. Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Khi các nứơc mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài. Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. 6. Khủng hoảng kinh tế Achentina 2001-2002 Vào đầu những năm 90 Acgentina áp dụng một số chính sách nhằm làm giảm lạm phát như áp dụng chính sách tỉ giá 1peso = 1usd. Ngoài gia còn mức cung tiền bằng mức dự trữ ngoại tệ , đồng peso hoàn toàn có thể chuyển đổi. Việc áp dụng một loạt chính sách này làm đầu tư nước ngoài tăng cao tỉ lệ lạm phát giảm , tăng trưởng kinh tế cao đạt trung bình từ 6,1% từ năm 1991 đến 1997. Áp dụng chính sách này mà tỉ giá trở nên cứng nhắc và Argentina phải phụ thuộc vào FED khi đưa ra các lãi xuất của mình. Cùng theo đó khoản nợ của chính phủ lên cao 150 tỷ USD không có khả năng thanh toán được. Cùng với tác động bên ngoài là khủng hoảng tại Mêhico đối tác lớn nhất của Argentina . Mehico phá giá đông Peso của mình dẫn tới đồng dola Mỹ lên giá làm đồng peso của Argentina lên theo. Dẫn tới tính cạnh tranh xuất khẩu giảm mạnh. Hơn hết việc tài trợ cho các khoản nợ của mình bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ khiến nợ của chính phủ tăng mạnh. Với một số nguyên nhân trên mà kinh tế Argentina rơi vào tình trạng giảm phát và bước vào tình trạng suy thoái. Các doanh nghiệp nước ngoài lo ngại về tình hình sức khoẻ của kinh tế Argentina khi mà nợ của chính phủ cao cộng thêm tỉ lệ thất nghiệpp cao (12%) cộng thêm các khoản nợ đã đáo hạ vì vậy Arhentina rơi vào khủng hoảng . Khi dân chúng mất lòng tin vào chính phủ. Chỉ trong vòng từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2001 dân chúng đã rút 15 tỷ usd trong hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp nước ngoài thoái vốn. VII CÁC RỦI RO TIỀM ẢN MÀ KINH TẾ VIỆT NAM GẶP PHẢI Thông qua các cuộc khủng hoảng ở trên và dựa vào thực tại nền kinh tế Việt Nam . Duới đây là một số rủi ro mà Việt Nam gặp phải. Việt Nam mở của kinh tế từ năm 1986 theo đại hội VI. Nhưng từ năm 1986 đến trước khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận kinh tế với chúng ta thì nền kinh tế của ta vẫn trì trệ. K

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKh7911ng ho7843ng ti chnh v kh7911ng ho7843ng n7907 qu7889c .doc
Tài liệu liên quan