MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT . 1
1.1. KHÁI NIỆM TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI . 4
1.2 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HưỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG NGẮN,
TRUNG VÀ DÀI HẠN . 4
1.2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn . 4
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến đến tỷ giá trong trung và dài hạn . 6
1.2.2.1 Lạm phát và lãi suất . 6
1.2.2.2 Tác động của xu hướng tài khoản vãng lai: . 7
1.2.2.3 Can thiệp của Ngân hàng Trung Ương: . 9
1.2.2.5 Ảnh hưởng của tỷ giá thị trường tự do: . 10
1.3 MỐI LIÊN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ. 11
1.3.1 Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến lạm phát . 11
1.3.2 Tác động của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại . 12
1.4 CÁC LÝ THUYẾT KINH ĐIỂN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ HỐI
ĐOÁI VÀ CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ . 14
1.4.1 Lý thuyết ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity – PPP) . 14
1.4.2 Lý thuyết ngang giá lãi suất (Interest Rate Parity). . 15
1.4.3 Hiệu ứng Fisher quốc tế: . 15
1.4.4 Phương pháp tiền tệ. 16
1.4.4.1 Mô hình Mundell- Flemming: . 16
1.4.4.2 Mô hình giá linh hoạt: . 19
1.4.4.3 Mô hình giá cứng Dornbusch: . 20
1.4.5 Phương pháp cân bằng danh mục(PBM): . 20
KẾT LUẬN CHưƠNG 1 . 21
CHưƠNG 2: KHẢO SÁT VÀ KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ ẢNH HưỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN LẠM PHÁT VÀ
CÁN CÂN THưƠNG MẠI. 23
2.1 VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH VĨ MÔ VIỆT NAM 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2011 23
2.2 KHẢO SÁT TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ NGẮN HẠN ĐẾN TỶ GIÁ
HỐI ĐOÁI . 26
2.3 KIỂM ĐỊNH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
TRONG TRUNG VÀ DÀI HẠN . 32
2.3.1 Kiểm định tác động của lạm phát, lãi suất, thu nhập đến tỷ giá bằng mô hình VECM . 32
2.3.1.1 Phương pháp: . 32
2.3.1.2 Dữ liệu và mô tả . 33
2.3.1.3 Mô hình kiểm định . 33
2.3.1.4 Kết luận từ mô hình . 35
2.3.2. Kiểm định sự can thiệp của NHNN vào tỷ giá. 35
2.3.2.1 Phương pháp . 36
2.3.2.2 Dữ liệu và mô tả . 37
2.3.2.3 Kết quả ước lượng: . 37
2.3.2.4 Kết luận từ mô hình: . 39
2.3.3 Mối quan hệ tác động giữa tỷ giá thị trường chợ đen và tỷ giá chính thức. . 39
2.3.3.1 Phương pháp . 39
2.3.3.2 Dữ liệu và mô tả . 40
2.3.3.3 Mô hình kiểm định . 40
2.3.3.4 Kết luận từ mô hình: . 42
2.3.4 Kiểm định mối quan hệ tác động của tài khoản vãng lai đến tỷ giá . 43
2.3.4.1 Phương pháp: . 43
2.3.4.2 Dữ liệu và mô tả . 43
2.3.4.3 Kết quả ước lượng mô hình . 43
2.3.4.4 Kết luận từ mô hình: . 44
2.4. ĐO LưỜNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ. . 45
2.4.1 Ý tưởng mô hình. 45
2.4.2 Phương pháp và xử lý số liệu . 45
2.4.3 Kết quả . 47
2.4.3 Kết luận . 48
2.5. TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN CÁC NHÂN TỐ VĨ MÔ . 49
2.5.1 Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát . 49
2.5.1.1 Phương pháp: . 49
2.5.1.2. Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu: . 50
2.5.1.3 Xác định mối quan hệ trong dài hạn. . 51
2.5.1.4 Mô hình xem xét mối quan hệ tác động của tỷ giá lên lạm phát . 52
2.5.1.5 Kết luận từ mô hình: . 54
2.5.2 Tác động của tỷ giá hối đoái lên xuất nhập khẩu. . 55
2.5.2.1 Phương pháp . 55
2.5.2.2. Dữ liệu và mô tả: . 55
2.5.2.3. Kiểm định. . 56
KẾT LUẬN CHưƠNG 2 . 57
CHưƠNG 3: KHUYẾN NGHỊ VỀ VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
HưỚNG ĐẾN CÁC MỤC TIÊU NGẮN VÀ TRUNG HẠN . 59
3.1 KHUYẾN NGHỊ VỀ VIỆC ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ THEO MỤC TIÊU . 59
3.1.1 Mục tiêu ngắn hạn . 59
3.1.2 Mục tiêu trung và dài hạn . 60
3.1.2.1 Lựa chọn chế độ tỷ giá . 60
3.1.2.2 Cơ chế hai tỷ giá . 63
3.2 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VỚI MỤC TIÊU NGẮN HẠN: ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ
VÀ CHỐNG LẠM PHÁT . 63
3.3 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VỚI MỤC TIÊU TRUNG VÀ DÀI HẠN . 70
3.3.1 Nâng cao tính độc lập của Ngân hàng trung ương . 71
3.3.2 Hiện đại hóa thị trường ngoại hối . 73
3.3.3 Nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ . 76
KẾT LUẬN CHưƠNG 3 . 79
KẾT LUẬN . 80
181 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8687 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm định các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến lạm phát và cán cân thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trạng thâm hụt ngân sách vẫn còn và khó suy giảm trong tương lai gần do nhu
cầu chi ngân sách để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế và an sinh xã hội
ngày một tăng. Hệ thống ngân hàng nhìn chung là chưa đủ mạnh, minh chứng là
việc hệ thống ngân hàng Việt Nam tỏ ra vô cùng khốn đốn khi thông tư 13/TT-
NHNN ban hành vào năm 2010. Rồi sau đó liên tục ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm
hàng đầu thế giới là Moody, Fitch, S&P hạ bậc tín nhiệm của các ngân hàng hàng
đầu Việt Nam là Vietcombank và ACB đã làm dấy lên những lo ngại cho hệ thống
ngân hàng Việt Nam. Thêm vào đó, như mô hình kiểm định ở chương 2 chúng tôi
đã chỉ ra rằng: nguồn dự trữ ngoại – một công cụ can thiệp vào tỷ giá – mặc dù có
tác động nhưng mức độ tác động rất thấp do lượng dự trữ còn thấp. Khi mà cán cân
thương mại vẫn ở trong tình trạng nhập siêu như nước ta hiện nay thì mức dự trữ
ngoại tệ khó có thể cải thiện rõ rệt được trong một sớm một chiều. Một câu hỏi đặt
ra là liệu vấn đề trên có được giải quyết khi cố định nội tệ với một ngoại tệ mạnh
như đồng đô la Mỹ (USD) hay không? Quan điểm này được củng cố khi việc triển
khai các giải pháp điều tiết kinh tế thiếu tính đồng bộ, cộng với hệ thống thông tin -
dự báo lạc hậu, thiếu khoa học đã hạn chế phạm vi tác động của chính sách kinh tế
Trang 62
vĩ mô đến tỷ giá. Chính những yếu điểm trong tài chính dự báo trước sự xuất hiện
những cơn sốc có nguồn gốc từ thị trường tiền tệ như vậy nên đã đưa ra yêu cầu duy
trì một chế độ tỷ giá cố định nhằm đối phó lại. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá cố định
không hỗ trợ cho một nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam.
Không những vậy, như trong chương 2 phần kiểm định về sự can thiệp của Chính
Phủ vào tỷ giá và hình bên dưới đã chỉ rõ, việc NHNN Việt Nam đã duy trì việc
kiểm soát tỷ giá trong thời gian quá dài đã dẫn đến sự chênh lệch trong giá trị thực
và giá trị danh nghĩa của VND. Vì vậy, nếu tiếp tục duy trì một chế độ tỷ giá cố
định là một sự lựa chọn trái với quy luật.
Hình 3. 1: So sánh REER và NEER
Nguồn: Tính toán của người viết
Tóm lại, thực trạng tài chính nước nhà vừa đòi hỏi một chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng
lại chưa thể đáp ứng ngay được những yêu cầu của nó và vẫn ủng hộ một chế độ tỷ
giá cố định. Vì vậy, một chế độ tỷ giá bán thả nổi sẽ là sự lựa chọn hợp lý trong
trung hạn và làm bước đệm để tiến tới thả nổi hoàn toàn khi “cơ thể” nền kinh tế
phát triển một cách đồng bộ trong dài hạn. Bên cạnh đó, cũng sẽ rất hữu ích nếu tồn
tại song song các công cụ hành chính với mục đích can thiệp kịp thời đến những
dao động của tỷ giá94, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế lớn ở từng thời kỳ. Việc phá
giá nội tệ một cách thận trọng sẽ đưa giá trị đồng Việt Nam trở về mức hợp lý hơn
so với các đồng tiền khác trong khu vực, từ đó tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất
khẩu.
94
Như đã đề cập trong phần đo lường mức độ ảnh hưởng của các công cụ điều hành tỷ giá
50%
60%
70%
80%
90%
100%
110%
120%
130%
140%
150%
1995199619971998199920002001200220032004200520062007200820092010
REER
Trang 63
3.1.2.2 Cơ chế hai tỷ giá
Một vấn đề cần bàn đến đó là cơ chế hai tỷ giá, trong khi đó xu hướng tỷ giá thế
giới đang hướng về cơ chế một tỷ giá. Chúng tôi nghiên cứu ở Trung Quốc đã hợp
nhất cơ chế hai tỷ giá vào năm 1994, muốn làm điều này Trung Quốc đã xây dựng
hệ thống bán đấu giá và thị trường ngoại hối phát triển mạnh giao dịch phái sinh cụ
thể là swap. Đồng thời các nhà làm chính sách phải phân tích dựa vào mô hình toán
học để xem xét thời gian tác động của việc hợp nhất tỷ giá và các rủi ro đầu cơ tiền
tệ95. Tuy nhiên, như kiểm định ở chương hai cho thấy, ở Việt Nam, việc điều hành
chính sách tỷ giá không phụ thuộc nhiều vào thị trường tự do, và tiến hành thả nổi
dần thì sẽ tự nhiên thống nhất được hai tỷ giá. Hơn nữa, so sánh giữa lợi ích đạt
được và rủi ro phải chịu khi tiến hành hợp nhất Việt Nam thì có lẽ việc hợp nhất
không phải là giải pháp hay nhất vì khả năng quản lý được rủi ro đầu cơ cần kinh
nghiệm và nhiều yếu tố khác nữa mà Việt Nam thì chưa thật mạnh ở điểm này.
3.2 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VỚI MỤC TIÊU NGẮN HẠN: ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ
VÀ CHỐNG LẠM PHÁT
Trên lí thuyết, giữ ổn định tỷ giá có thể giúp tăng cường lòng tin vào đồng nội tệ,
buộc Chính phủ phải kiểm soát thâm hụt ngân sách và tốc độ tăng tín dụng và thông
qua đó tăng cường mức độ tin cậy vào chính sách của Chính phủ. Khi những yếu tố
này được kiểm soát, lạm phát cũng sẽ giảm đi và dần ổn định. Đặc biệt, trong một
nền kinh tế có mức độ “đôla hóa” cao như Việt Nam, khi nguy cơ lạm phát quay trở
lại và niềm tin vào VND giảm sút, người dân sẽ quay lưng lại với đồng nội tệ và
chuyển sang dự trữ vàng và USD để tiết kiệm và phòng thân. Do đó việc quản lí tỷ
giá có ảnh hưởng tới việc kiểm soát lạm phát vì tỷ giá không chỉ ảnh hưởng tới
hàng hóa xuất nhập khẩu mà còn tới các hàng hóa nội địa nếu giá của chúng thường
được tính bằng USD. Điều này cũng được minh chứng trong thực nghiệm mà mô
hình mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá chúng tôi đã xây dựng trong chương 2.
Chúng ta cùng xem lại phản ứng của lạm phát đối với một cú sốc thay đổi trong tỷ
giá qua hình bên dưới:
95
Jian Xu, “Dual exchange rate regime with fraudulent leakage and its unification: The case of China”,
10/2002.
Trang 64
Hình 3. 2: Phản ứng của các biến đối với cú sốc tỷ giá
Nguồn: Tính toán của người viết
Theo hình trên, chúng ta có thể thấy một sự tăng lên trong tỷ giá sẽ khiến cho lạm
phát tăng theo. Đây là những nguyên nhân góp phần khiến NHNN ngần ngại trong
việc tăng tỉ giá theo cung cầu thị trường trong nhiều năm qua.
Biểu đồ dưới đây sẽ cho chúng ta thấy về hiệu quả của điều hành chính sách tỷ giá
đến lạm phát từ năm 1990 đến năm 2010. Qua đó chúng ta thấy rằng, sau khi chứng
kiến mức lạm phát phi mã và tác động tai hại của nó đến nền kinh tế, nước ta đã
thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ tỷ giá và giữ ở mức tương đối ổn định. Điều đó đã
làm cho lạm phát hạ nhiệt từ năm 1992 – 1997. Nó cho thấy mức độ hiệu quả của
việc giữ chế độ tỷ giá cố định trong giai đoạn này. Tuy nhiên, hiệu quả này không
được lặp lại ở các giai đoạn sau đó. Thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng ở
châu Á (1997-2003) gắn liền với việc mất giá danh nghĩa của tiền đồng nhưng giai
đoạn lạm phát cao (khoảng 10%) lại không kéo dài và thậm chí thời kỳ này đã kết
thúc bằng giai đoạn giảm phát (2001). Việc thực hiện chính sách neo tỷ giá cũng
không phát huy được hiệu quả trong giai đoạn từ 2004 cho đến nay khi lạm phát
vẫn là một vấn đề nhức nhối mà đỉnh điểm là năm 2008 với mức lạm phát vượt trên
Trang 65
20%. Và thời điểm hiện tại, khi đã bước qua quý II năm 2011 thì “bóng ma” lạm
phát lại tiếp tục đe dọa đến nền kinh tế của nước ta.
Biểu đồ 3. 1: Biểu đồ lạm phát và tỷ giá USD/VND danh nghĩa
Nguồn: IFS, Economics statistics
Tại sao cùng một chế độ tỷ giá mà tác động đến lạm phát trong các giai đoạn lại
khác nhau như vậy? Theo Nguyễn Thị Thu Hằng (2010) và các cộng sự, một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này phát từ nguồn gốc bên trong của lạm
phát
96
. Lý giải cho nguyên nhân này, mô hình của chúng tôi xây dựng ở chương 2
đã chỉ ra rằng, ngoài yếu tố tỷ giá thì cung tiền M2 có mức ảnh hưởng tương đối
mạnh mẽ đến lạm phát. Vì vậy, khi hai yếu tố này cùng mang một dấu hiệu tích cực
cho nền kinh tế thì nó sẽ giúp cho chính sách tỷ giá phát huy hiệu quả đối với lạm
phát. Giai đoạn từ năm 1992 – 1997 là một ví dụ điển hình, khi nền kinh tế được
kiểm soát tốt, chính sách tỷ giá ổn định đã giúp ổn định và giảm lạm phát. Ngược
lại, giai đoạn từ năm 2005 – 2008 là một bức tranh tương phản của giai đoạn trên.
Sự gia tăng mạnh mẽ của cung tiền và tín dụng trong nền kinh tế giai đoạn này là
nguyên nhân khiến cho chính sách tỷ giá mất đi tác dụng vốn có.
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, lạm phát đang đứng trước nguy cơ
tăng cao trở lại; đồng thời Chính phủ cũng đã kết thúc gói kích cầu hỗ trợ các doanh
96
Nguyễn Thị Thu Hằng và các cộng sự, “Lựa chọn chính sách tỷ giá trong bối cảnh phục hồi kinh tế”,
tr.33, VEPR, năm 2010
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
18000
20000
1
9
9
0
1
9
9
1
1
9
9
2
1
9
9
3
1
9
9
4
1
9
9
5
1
9
9
6
1
9
9
7
1
9
9
8
1
9
9
9
2
0
0
0
2
0
0
1
2
0
0
2
2
0
0
3
2
0
0
4
2
0
0
5
2
0
0
6
2
0
0
7
2
0
0
8
2
0
0
9
2
0
1
0
Lạm phát Tỷ giá USD/VND
Trang 66
nghiệp sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, cơ chế thắt chặt chi tiêu
được đưa ra. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, chính sách tỷ giá lúc này nếu được
sử dụng đúng cách sẽ là một công cụ vô cùng mạnh để kiểm soát lạm phát tại Việt
Nam.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, một mình chính sách tỷ giá không thể phát huy hết
được hiệu quả trong chống lạm phát. Ổn định tỷ giá nếu không gắn với cung tiền và
điều tiết vĩ mô nhằm kiểm soát tổng cầu thì sẽ làm mất đi tác dụng của chính sách
tỷ giá trong cuộc chiến chống lạm phát. Vì vậy, để thực hiện chính sách ổn định tỷ
giá kiểm soát lạm phát cần thực hiện phối hợp các biện pháp:
Thứ nhất, phải hạn chế cung tiền bằng các biện pháp như thực hiện chính sách
tiền tệ chặt chẽ, thận trọng. Theo một nghiên cứu định lượng của TS.Phạm Đỗ Chí97
(2011), phải giảm mức tăng cung tiền M2 xuống còn 15%-16% và mức tăng trưởng
tín dụng xuống còn 18%-20% nếu muốn kiểm soát được lạm phát dưới mức hai con
số vào cuối năm 2011.
Thứ hai, thực hiện một chính sách tài khóa thắt chặt. Mặc dù mô hình trong
chương 2 chỉ ra rằng, chi tiêu công của Chính Phủ dường như ít có tác động đến sự
biến động của tỷ giá. Tuy nhiên, chỉ tiêu này lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến lượng tiền
lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với mức cung tiền
M2. Do đó, để đạt được những gì đề cập trong vấn đề thứ nhất, cần phải thực hiện
một chính sách tài khóa thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu.
Thứ ba, tiến hành giảm dần mặt bằng lãi suất hiện nay. Ta có công thức ước
lượng: Lãi suất VND = lãi suất USD + độ điều chỉnh kỳ vọng (%) của tỷ giá
VND/USD. Lấy thí dụ về việc điều chỉnh tỷ giá vào hôm 11/2 vừa qua; khi tỷ giá
được nâng lên 9,3% tương ứng với thời điểm đó lãi suất USD khoảng từ 4%-5% và
lãi suất huy động VND là 14%. Điều này cho thấy công thức trên dự đoán khá
chính xác mức thay đổi của tỷ giá trong vài tháng qua. Dựa vào công thức trên
chúng ta thấy, để tiến tới ổn định tỷ giá hối đoái thì phải điều chỉnh giảm dần lãi
suất huy động xuống. Cũng dựa vào công thức trên, chúng ta có thể thấy rằng để
giảm lãi suất huy động tiền đồng và ổn định tỷ giá VND/USD phải bắt đầu bằng
97
TS. Phạm Đỗ Chí, “Bài toán 2011 cho lạm phát, lãi suất và tỷ giá”, Thời báo kinh tế Sài Gòn, 18/2/2011
Trang 67
việc giảm lãi suất huy động tiền USD và giảm kỳ vọng lạm phát. Trong thời gian
vừa qua, một trong những nguyên nhân gây ra việc tăng mạnh lãi suất là do tín dụng
ngoại tệ đã tăng quá nhanh (ví dụ trên 41% ở địa bàn TP.HCM năm qua)98. Vì vậy,
một biện pháp thắt chặt tiền tệ có thể được sử dụng là nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với đồng ngoại tệ lên cao hơn so với mức 3% như hiện nay. Đây là một công cụ mà
theo chương 2 chúng tôi đã kiểm định và cho thấy khả năng phản ứng của nó là khá
nhanh nhạy đối với các diễn biến của thị trường.
Về kỳ vọng lạm phát, nghị quyết 11/NQ-TTCP vừa ban hành đã cho thấy sự quyết
tâm của Chính phủ trong việc kiềm chế lạm phát và bước đầu cho thấy những sự
khả quan. Theo các chuyên gia của ADB thì họ hoàn toàn tin tưởng vào sự thành
công của Nghị quyết 11 vì những hành động quyết liệt và những cam kết mạnh mẽ
từ Chính phủ trong cuộc chiến chống lạm phát thay vì ưu tiên cho mục tiêu phát
triển kinh tế bằng mọi giá như trước đây. Chính điều này sẽ giúp cho kỳ vọng lạm
phát trong thời gian tới sẽ dần dần giảm xuống.
Thứ tư, giảm nhập siêu. Theo thủ tướng Nguyễn Tiến Dũng, tỷ giá là tổng hoà của
nhiều mối quan hệ, không chỉ liên quan đến xuất, nhập khẩu, nhập siêu, mà còn liên
quan đến vay nợ và trả nợ nước ngoài, đến cung - cầu ngoại tệ, đến nhập khẩu lạm
phát và khuyếch đại lạm phát ở trong nước… Vì vậy, tỷ giá được ví như một cái
“huyệt” quan trọng; “bấm” vào nó để tăng hay giảm sẽ tác động đến các mối quan
hệ trên. Trong khi đó, “huyệt” này chịu nhiều sức ép trong đó có bốn yếu tố quan
trọng. Yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu, có thể còn được gọi là cái gốc của tỷ giá
là nhập siêu, bởi nhập siêu làm mất cân đối cán cân thương mại, làm mất cân đối
cán cân thanh toán, tạo sức ép lên tỷ giá99. Mô hình thực nghiệm của chúng tôi ở
chương 2 cũng đã chứng minh vấn đề này khi nó chỉ ra được sự tác động mạnh mẽ
của cán cân thương mại đến tỷ giá hối đoái ở cả 5 kỳ quan sát100. Theo đó, một sự
sụt giảm trong cán cân thương mại sẽ làm mất giá thêm đồng nội tệ; đồng thời gây
tác động dây chuyền đến lạm phát. Vì vậy, vấn đề nhập siêu cần quan tâm đúng
98
98
TS. Phạm Đỗ Chí, “Bài toán 2011 cho lạm phát, lãi suất và tỷ giá”, Thời báo kinh tế Sài Gòn,
18/2/2011
99
Phát biểu của thủ tường Chính phủ trong cuộc họp giữa Thường trực Chính phủ với lãnh đạo các địa
phương ngày 24/2, Báo Pháp luật Việt Nam, 27/02/2011,
huyet-ty-gia-trong-kiem-che-lam-phat-2035437/
100
Xin xem phần 2.3.5
Trang 68
mức. Tất nhiên, với điều kiện nên kinh tế của chúng ta hiện nay chưa thể giảm nhập
siêu một cách nhanh chóng được; nó đòi hỏi cần có một lộ trình trong dài hạn. Bởi
vì những nguyên nhân sâu xa của nhập siêu thường xuất phát từ khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước, cơ cấu kinh tế chậm chuyển đổi, mất cân
đối trong cơ cấu tiết kiệm – đầu tư... Bên cạnh đó, xuất phát điểm xây dựng kinh tế
của nước ta là thấp so với các nước bạn; vì vậy, tư tưởng nhập siêu đối với nước ta
là một vấn đề hiển nhiên đã hình thành từ lâu trong suy nghĩ của một số các Bộ,
ngành và người dân. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, để hạn chế tình trạng nhập siêu có
thể tiến hành các biện pháp như sau:
- Bộ Công Thương nên nghiên cứu xem xét lại cơ cấu xuất – nhập khẩu.
Xem xét các mặt hàng cần thiết phải nhập cho nền kinh tế và hạn chế những mặt
hàng chưa thực sự cần thiết. Biện pháp thuế quan đối với các mặt hàng ô-tô, điện tử,
mỹ phẩm ... nên được tính đến. Tuy nhiên, biện pháp này lại gắn liền với những
cam kết gia nhập WTO, và các hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam
đã ký kết. Vì vậy, khi thực hiện biện pháp này cần được xem xét một cách thận
trọng và chỉ xem như là một biện pháp tình thế trong ngắn hạn.
- Bộ Tài chính tăng cường kiểm soát tình trạng gian lận qua giá nhập khẩu.
Nếu chống được gian lận qua giá một cách hiệu quả, thì chúng ta có thể kiểm soát
được nhập khẩu rất tốt, bởi hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ khó tiêu thụ trong thị
trường nội địa. Bên cạnh đó, công tác giám sát quản lý chứng nhận xuất xứ (C/O)
cũng rất cần thiết, vì đã xuất hiện tình trạng doanh nghiệp làm C/O giả để hưởng
mức thuế suất thấp hơn.
- Biện pháp thắt chặt nguồn vốn đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng xa
xỉ cũng nên được áp dụng. Các doanh nghiệp cũng nên tính toán lại lượng điện tiêu
thụ và có biện pháp tiết kiệm cần thiết.
- Song song với áp dụng các biện pháp mạnh để giảm nhập khẩu trong thời
gian sắp tới, việc đẩy mạnh xuất khẩu nhằm rút ngắn khoảng cách giữa xuất khẩu
và nhập khẩu là hết sức cần thiết.
Thứ năm, giải quyết vấn đề niềm tin của người dân vào đồng nội tệ. Tình trạng
găm giữ đô la, đô-la hóa, vàng hóa đang diễn ra hết sức nghiêm trọng. Tổng nguồn
Trang 69
USD của cả nước không thiếu. Lượng USD trôi nổi trên thị trường cũng không ít,
chưa kể lượng vàng nếu được quy đổi ra USD. Tuy nhiên, do tình trạng USD hoá ở
Việt Nam, tình trạng găm giữ USD của doanh nghiệp, người dân, thậm chí của cả
một số doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng thương mại, hiện rất cao. Hiện tượng này
phổ biến bởi tâm lý lo ngại rủi ro do biến động tỷ giá, do việc mua, bán chưa thật dễ
dàng.
Trở lại với quyết định nâng tỷ giá vào ngày 11/2/2011 của NHNN. Nhìn vào
biểu đồ 3.1 ở trên chúng ta có thể thấy, việc điều hành tỷ giá một cách cứng
nhắc đã khiến cho giá trị danh nghĩa lệch đi khỏi giá trị thực của nó. VND
đã được định giá cao so với giá trị thực của nó kể từ năm 2006 đã làm cho
tâm lý của đại bộ phận người dân không còn tin vào sức mạnh của đồng nội
tệ, luôn trông chờ vào một sự điều chỉnh tỷ giá đã khiến cho tình trạng đô-la
hóa diễn ra một cách mạnh mẽ. Việc NHNN quyết định nâng tỷ giá thêm
9,3%, và kéo biên độ dao động từ 3% về còn 1% trong thời gian vừa qua
theo ý kiến chủ quan của người viết là một bước đi thích hợp. Trước thời
điểm điều chỉnh tỷ giá khoảng 2 tháng, tỷ giá thị trường chợ đen cao hơn so
với tỷ giá chính thức khoảng 6% - 8% đã cho thấy mức độ hoang mang của
người dân vào một sự biến động của tỷ giá (Điều này cũng được thể hiện rõ
trong kết quả khảo sát mà chúng tôi đã trình bày trong chương 2). Động thái
điều chỉnh của NHNN đã giúp cho hai tỷ giá chính thức và chợ đen đã tiến
lại gần với nhau; và cũng được xem như là một hình thức hợp thức hóa các
hoạt động trên thị trường. Như vậy có thể thấy, động thái trên của NHNN
nếu xét riêng về việc ổn định tâm lý người dân thì nó đã phát huy được tác
dụng. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự tập trung quá nhiều vào
giới hạn biến động tỷ giá hối đoái cũng gây nguy hiểm cho chính sách
tiền tệ trong kiểm soát lạm phát. Bởi vì nó có thể làm cho chính sách sai
lệch khi nền kinh tế phải đương đầu những cú sốc về thương mại như
trường hợp xảy ra ở New Zealand vào cuối những năm 1990101.
101
Xem thêm phụ lục 1.8
Trang 70
Đối với tác động của tỷ giá đến lạm phát, như hình 3.2 chúng ta cũng đã thấy; việc
tỷ giá tăng sẽ làm cho lạm phát tăng ngay sau đó nhưng khoảng sau 4 kỳ quan sát
thì lạm phát lại quay đầu giảm và tiến tới ổn định. Vì vậy, việc tăng tỷ giá vẫn được
xem là việc nên làm để tránh kỳ vọng lạm phát tăng cao trong bối cảnh tâm lý người
dân không còn tin tưởng vào đồng nội tệ. Hơn nữa, như đã nói ở phần trước, việc
chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen tồn tại nhiều tháng trước
đó cũng khiến nhiều doanh nghiệp nhập khẩu khó có thể mua USD trên thị trường
chính thức mà phải tìm đến thị trường chợ đen. Vì vậy, mức độ nhập khẩu lạm phát
theo như nhiều người lo ngại là có nhưng không thực sự quá lớn.
3.3 CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VỚI MỤC TIÊU TRUNG VÀ DÀI HẠN102
Việt Nam hiện tại đang đứng giữa hai lựa chọn: quay trở lại cơ chế neo tỷ giá hay là
chuyển đổi mạnh sang cơ chế tỷ giá thả nổi. Như đã phân tích ở phần 3.1.2, chúng
tôi cho rằng một chính sách tỷ giá bán thả nổi (thả nổi có quản lý) là một hướng đi
thích hợp trong trung hạn để hướng tới một chính sách thả nổi hoàn toàn trong dài
hạn. Để một chính sách bán thả nổi thực sự đem lại hiệu quả thì chúng tôi cho rằng
khi từ bỏ cơ chế neo tỷ giá, NHNN buộc phải tìm một “mỏ neo” khác để thực thi
các chính sách tiền tệ. Có hai “mỏ neo” mà NHTW các nước tìm đến: kiểm soát
cung tiền và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu định trước (inflation targets). Như
Masson et al. (1997) chỉ ra, việc theo đuổi chính sách kiểm soát lạm phát mục tiêu
đòi hỏi NHTW phải độc lập, tức một ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc công
khai, không bị tác động bởi chính sách tài khóa và các tổ chức kinh tế, tài chính trên
thị trường103. Đồng thời, chính sách tỷ giá không nên cô lập, tức nó cần được kết
hợp với chính sách tài khóa, chính sách lãi suất, chính sách thu nhập và tái cấu
102
Xem thêm phụ lục 1.8 về bài học điều hành chính sách tỷ giá của các nước trên thế giới.
103
Có bốn tiêu chí để xác định tính độc lập của một ngân hàng trung ương (Walsh, 2005):
- Độc lập về mặt luật pháp: ngân hàng trung ương cần có địa vị pháp lí rõ ràng trong mối quan hệ với chính
phủ và quốc hội. Xác định về mặt luật pháp cơ quan (chính phủ hoặc quốc hội) cũng như các lĩnh vực cụ thể
mà NHTW sẽ phải giải trình.
- Độc lập về mục tiêu: NHTW có toàn quyền quyết định các mục tiêu chính sách của mình: kiểm soát lạm
phát, kiểm soát cung tiền, hay ổn định tỉ giá. Các mục tiêu này thường được NHTW công bố công khai và
được theo đuổi một cách nhất quán.
- Độc lập về sử dụng công cụ: NHTW được toàn quyền lựa chọn các công cụ phù hợp để đạt được mục tiêu
chính sách của mình.
- Độc lập về quản lí: NHTW được độc lập trong việc lựa chọn nhân sự và tổ chức bộ máy hành chính của
mình mà không chịu sự chi phối của chính phủ.
Trang 71
trúc
104
. Việc tự do hoá tài chính (tỷ giá, dòng vốn) cần tiến hành theo lộ trình, trong
đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ tiền tệ và hiện đại hoá thị trường
ngoại hối là những việc cần tiến hành ngay.
3.3.1 Nâng cao tính độc lập của Ngân hàng trung ương
- Vị trí pháp lý độc lập105: Thực tiễn tại Việt Nam đã cho thấy, khi NHNN là cơ
quan của Chính phủ thì hoạt động của NHNN phụ thuộc rất nhiều vào Chính phủ và
vị trí pháp lý là NHTW của một quốc gia bị lu mờ. Gần như mọi hoạt động của
NHTW đều phải được sự cho phép của Chính phủ (hoạt động phát hành tiền, thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia, hoạt động cho vay ngân sách trung ương, bảo lãnh
cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong
trường hợp đặc biệt). Ở đây, NHNN Việt Nam chỉ được coi như là cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, giống như các bộ khác, chứ không phải là một thiết chế đặc
biệt dù tổ chức, hoạt động của NHNN Việt Nam ảnh hưởng rất lớn đến tính an toàn
của hệ thống ngân hàng, sự ổn định của giá trị đồng tiền, an ninh tiền tệ của một
quốc gia. Luật NHNN Việt Nam chưa thể hiện được quyền tự chủ, tính độc lập của
ngân hàng này trong việc hoạch định và thực thi các vấn đề về chính sách tiền tệ
quốc gia. Trong khi đó, cần phải khẳng định rằng, một NHTW hiện đại phải có tính
độc lập về vị trí pháp lý, nhân sự, cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành, mục tiêu và về
hoạt động của mình, trong đó sự độc lập về vị trí pháp lý được đặt lên hàng đầu.
Khi nói đến vị trí pháp lý của bất kỳ một chủ thể nào trong xã hội là đề cập
đến chỗ đứng, vị thế, vai trò của chủ thể đó trong xã hội được thể chế hoá bằng
pháp luật. Đối với NHTW, vị trí pháp lý được xác định trong mối quan hệ với các
thiết chế khác như Chính phủ, Quốc hội. Vì vậy, việc phân quyền giữa Quốc hội –
Chính phủ - NHTW nên rõ ràng; đồng thời giao cho NHTW có mộ mức độ độc lập
tương đối trong mối quan hệ với Chính phủ. Có như vậy mới bảo đảm được sự linh
hoạt, mềm dẻo, minh bạch trong điều hành thị trường tiền tệ của NHTW, bảo đảm
được sự ổn định giá trị đồng tiền trong nền kinh tế.
104
Xem thêm bài học của Ba Lan, phụ lục 1.8
105
Xem thêm TS.Lê Thị Thu Thủy, “Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương Việt Nam”, tạp chí nghiên
cứu pháp luật, 2010
Trang 72
- Độc lập về mục tiêu hoạt động: Mục tiêu hoạt động của NHTW phải được xác
định rõ ràng, thể hiện tính độc lập về mục tiêu của NHTW. Trong Luật NHNN Việt
Nam, các mục tiêu được quy định quá nhiều: ổn định giá trị đồng tiền, góp phần
đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát
triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, mục tiêu tối
cao của NHTW là bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng và ổn định
giá trị đồng tiền. Mục tiêu còn lại là hệ quả của việc đạt được các mục tiêu nêu trên.
Trong hai mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm an toàn hoạt động của hệ
thống ngân hàng thì mục tiêu thứ hai là tiền đề cho mục tiêu thứ nhất. NHTW là
ngân hàng quản lý hoạt động ngân hàng, nên việc đảm bảo an toàn cho hoạt động
của các tổ chức tín dụng là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Mục tiêu có rõ ràng thì
NHTW mới có thể kiểm soát được rủi ro trong lĩnh vực quản lý của mình.
- Độc lập về việc sử dụng các công cụ: Để đạt được mục tiêu đặt ra, NHTW phải
độc lập trong hoạt động của mình. Hoạt động của NHTW được ví như con dao hai
lưỡi. Nếu thực hiện không hợp lý sẽ gây hậu quả khôn lường cho cả nền kinh tế.
Ngược lại, nếu biết sử dụng, nó sẽ là công cụ hữu hiệu để đạt được các mục tiêu đặt
ra. Điều đó đòi hỏi các công cụ ngân hàng phải do NHTW tự hoạch định, tự quyết
định sử dụng theo phương cách linh hoạt, mềm dẻo, tránh sự can thiệp không cần
thiết của Chính phủ. Vì vậy cần:
- NHNN phải được quyền quyết định các định hướng, giải pháp trong xây
dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia cũng như trong việc thực hiện các
chức năng khác của ngân hàng trung ương. Tất nhiên, song song với các thẩm
quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành
chính sách tiền tệ và thực hiện các chức năng của NHTW.
- Cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai trò độc lập của NHTW
nghĩa là NHTW thoát ly hoàn toàn khỏi Chính phủ. Mục tiêu cuối cùng của chính
sách tiền tệ và cũng là mục tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá cả,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kiểm định các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến lạm phát và cán cân thương mại.pdf