Đề tài Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam

MỤC LỤC

Chương 1: Khái quát về kiểm soát chất lượng trong kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập 1

1.1. Vai trò của kiểm soát chất lượng kiểm toán. 1

1.2. Các tiêu chí kiểm soát chất lượng kiểm toán. 5

1.3. Kinh nghiệm kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập trên thế giới 11

Chương 2: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam. 13

2.1. Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam: thực trạng và những vấn đề đặt ra. 13

2.2. Sự tất yếu phải nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán ở Việt Nam. 18

2.3. Phương hướng nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam 19

2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam. 21

2.4.1. Quan tâm đến chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo. 21

2.4.2. Cần đổi mới công tác thi thi tuyển cấp chứng chỉ Kiểm toán viên hành nghề hướng đến sự thừa nhận của các nước đối với chứng chỉ Kiểm toán viên của Việt Nam. 24

2.4.3. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của Kiểm toán viên. 30

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2368 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uản lý, giám sát, cấp chứng chỉ cho hoạt động kiểm toán. Ví dụ như Liên đoàn Kế toán Quốc tế- IFAC- một tổ chức nghề nghiệp có uy tín hàng đầu về kế toán và kiểm toán hiện nay trên thế giới. Được thành lập năm 1977, đến nay IFAC có 160 tổ chức thành viên tại 120 quốc gia đại diện cho hơn 2,5 triệu kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực công cộng, giáo dục, dịch vụ quản lý, công nghiệp và thương mại. Mọi hoạt động của IFAC nhằm thúc đẩy sự phát triển của nghề nghiệp kế toán và kiểm toán trên toàn thế giới và góp phần vào sự phát triển lớn mạnh của kinh tế thế giới thông qua việc thiết lập và thúc đẩy việc tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp chất lượng cao, hướng tới sự thống nhất trên toàn thế giới về chuẩn mực này. Để đạt mục tiêu này, IFAC đã có sự phối hợp chặt chẽ cùng với tổ chức thành viên, các tổ chức kế toán khu vực và tiếp thu ý kiến tham gia của các hội thành viên và cơ quan chính phủ của các nước. IFAC đã ban hành các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, chuẩn mực quốc tế về kiểm soát chất lượng, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,và để có sự hỗ trợ tốt hơn cho các tổ chức thành viên và các kiểm toán viên, kế toán viên chuyên nghiệp, Liên đoàn đã và đang soạn thảo nhiều tài liệu hướng dẫn nhằm hỗ trợ các kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp trong việc nghiên cứu và cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tốt hơn trong công việc của mình, thành lập tổ công tác chuyên trách về các doanh nghiệp và doanh nghiệp kiểm toán vừa và nhỏ, về các quốc gia đang phát triển để nghiên cứu, giải quyết các vấn đề có liên quan bởi vì đây là những nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế toàn cầu.Ngoài ra còn có các hiệp hội tương đối có uy tín cao như Hiệp hội Kế toán công chứng Anh ACCA ( The Association of Chartered Certified Accountants) với hơn 100 năm phát triển cùng sự phát triển ngày càng cao của chất lượng kế toán tài chính, ACCA có truyền thống lịch sử lâu dài và ngày càng được phát huy với những đổi mới tư duy hiện đại và hơn 115.000 thành viên trên 170 quốc gia trên thế giới, với mục tiêu chất lượng luôn đặt lên hàng đầu trong việc đào tạo những người có năng lực muốn đi sâu trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính và quản lý trên khắp thế giới. AASB( Auditing and Assurance Standards Board) bao gồm 15 thành viên, là những thành viên tự nguyện từ AASOC( Auditing and Assurance Standards Oversight Council), Chương 2: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam. 2.1. Kiểm soát chất lượng kiểm toán độc lập ở Việt Nam: thực trạng và những vấn đề đặt ra. Kiểm toán độc lập là dịch vụ chuyên nghiệp, trình độ cao của kinh tế thị trường, càng quan trọng hơn khi Nhà nước khuyến khích phát triển đa thành phần kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, phát triển thị trường chứng khoán, mở cửa hội nhập quốc tế. Doanh nghiệp muốn phát triển, phát hành cổ phiếu, thu hút vốn đầu tư thì không thể không công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm tra, giám sát và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động kiểm toán luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên toàn thế giới. Công tác này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và bền vững của nền kinh tế thị trường.  Kể từ khi thành lập công ty kiểm toán đầu tiên ở Việt Nam năm 1991 cho đến nay, công tác kiểm tra và giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán đều do Bộ Tài chính thực hiện. Tính từ cuộc kiểm tra đầu tiên thực hiện vào năm 1998, đến năm 2005 các đoàn kiểm tra do Bộ Tài chính chủ trì đã thực hiện được 8 đợt kiểm tra, và đã kiểm tra được 55 công ty trong tổng số 105 công ty có đăng ký kinh doanh hoạt động kiểm toán. Các cuộc kiểm tra đã phát hiện kịp thời nhiều vấn đề nổi cộm có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công tác kiểm toán và uy tín nghề nghiệp, như: Nhiều công ty chưa có chương trình đào tạo toàn diện và liên tục cho các cấp nhân viên. Còn tình trạng cho thuê hay cho mượn chứng chỉ kiểm toán viên. Quy trình soát xét hồ sơ kiểm toán và giấy tờ làm việc chưa được thực hiện và tuân thủ đầy đủ, có trường hợp chỉ 1 - 2 cấp soát xét. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một vụ kiện về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Không vì thế mà chúng ta có thể xem nhẹ việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Quá trình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán hiện nay vẫn không tránh khỏi những bất cập. Kinh nghiệm hành nghề, năng lực quản lí của nhiều doanh nghiệp kiểm toán còn hạn chế. Nhiều công ty kiểm toán đã cố gắng tăng sức cạnh tranh bằng cách hạ giá phí kiểm toán và đương nhiên, điều này sẽ làm giảm thời gian, giảm số lượng các thủ tục kiểm toán và làm giảm chất lượng của bằng chứng kiểm toán thu thập, nếu sự cắt giảm giá phí là quá mức. Hơn nữa, sức ép với các công ty kiểm toán ngày càng tăng trong điều kiện hiện nay, khi mà bản thân các khách hàng thường quá chú trọng vào tiêu thức giá phí thấp để lựa chọn công  ty kiểm toán. Một số ít các công ty kiểm toán để có thể tiếp tục tồn tại và hoạt động có lãi, họ đã cố gắng chiều theo ý khách hàng. Điều này sẽ trở nên đặc biệt nghiêm trọng khi kiểm toán viên không có bản lĩnh, yếu kém về trình độ chuyên môn dẫn đến việc bỏ qua sai sót cần điều chỉnh, thậm chí có thể thay đổi ý kiến kiểm toán. Bên cạnh những nhân tố chủ quan trên, còn không ít những nhân tố khách quan làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán. Hiện nay, chúng ta chưa có quy định bắt buộc mua bảo hiểm nghề nghiệp đối với hoạt động kiểm toán. Năm 2003 đã ban hành chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, nhưng hệ thống chế tài đánh giá chất lượng kiểm toán và giải quyết tranh chấp, kiện tụng khi xảy ra rủi ro chưa được hoàn thiện. ở Việt Nam vẫn chưa có cơ quan chuyên trách việc đánh giá chất lượng đối với hoạt động kiểm toán độc lập. (Trong bộ máy Kiểm toán Nhà nước hiện nay đã có một bộ phận chuyên trách thực hiện kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán). Các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp đã hình thành, nhưng chưa hoạt động hiệu quả. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng đuợc hai hiệp hội là Hiệp hội kế toán và Hiệp hội kiểm toán nhưng hoạt động của các Hiệp hội mới chỉ dừng lại ở việc nâng cao năng lực chuyên môn, chứ chưa đưa ra các giải pháp kiểm soát về đạo đức nghề nghiệp đối với những người hành nghề kế toán, kiểm toán. Dựa trên những vấn đề đã phát hiện, các đoàn kiểm tra đều tổng kết, đưa ra kết luận, và kiến nghị các biện pháp xử lý, khắc phục để giúp các công ty kiểm toán nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán. Từ những phát hiện, đề xuất và kiến nghị của các đoàn kiểm tra, Bộ Tài chính cũng đã nghiên cứu, đánh giá, tổng kết và thể chế hóa những bài học này trong các văn bản pháp lý về quản lý hoạt động kế toán, kiểm toán. Các kiến nghị của các đoàn kiểm tra và các điều chỉnh trong hệ thống văn bản pháp lý của Chính phủ và Bộ Tài chính đã dần dần đem lại các kết quả tích cực, giúp các công ty khắc phục dần các sai sót, cải tiến các quy trình kiểm toán, nâng cao chất lượng và uy tín của hoạt động kế toán và kiểm toán. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực và thành tựu trong công tác kiểm tra, có thể nhận thấy công tác kiểm tra, giám sát và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán vẫn còn khá nhiều tồn tại như: Nội dung kiểm tra chưa đi vào thực chất, còn mang tính hình thức hành chính, như nặng về kiểm tra các loại giấy phép, chứng chỉ; Việc kiểm tra chưa có tính chuyên nghiệp cao do những người thực hiện không chuyên sâu về nghề nghiệp; Quy trình và nội dung kiểm tra chưa nhất quán do chưa có văn bản về quy chế và quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán; Việc kiểm tra có thể gây xung đột về lợi ích do trong thành phần đoàn kiểm tra có sự tham gia của các công ty cạnh tranh, hay có thể làm tiết lộ bí mật thông tin của khách hàng Gần đây, các tổ chức quốc tế đều yêu cầu Nhà nước chuyển giao công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán cho Hội nghề nghiệp.Để tạo dựng Hội nghề nghiệp đảm trách chức năng quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán, theo đề nghị của Bộ Tài chính, được phép của Bộ nội vụ, ngày 15/4/2005, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã được thành lập tại Hà Nội và chính thức đi vào hoạt động từ 1/1/2006. Ngày 14/07/2005, tại Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã chính thức chuyển giao chức năng quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán cho VACPA. Từ ngày 01/01/2007 VACPA đã triển khai toàn bộ chức năng được giao. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu một giai đoạn mới cho nghề nghiệp kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Kể từ đây, những người hành nghề kiểm toán độc lập ở Việt Nam đã có một tổ chức nghề nghiệp độc lập, tự cân đối và tự quản riêng. Hội sẽ hỗ trợ, đào tạo, cập nhật chuyên môn, kiểm soát chất lượng dịch vụ, đạo đức nghề nghiệp, trao đổi vướng mắc, kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng và uy tín Hội viên, duy trì và phát triển nghề nghiệp kế toán, kiểm toán ở Việt Nam sánh vai với bè bạn trong khu vực và quốc tế. Ngay sau ngày thành lập 15 tháng 4 năm 2005, Hội Kiểm toán viên Hành nghề Việt Nam (viết tắt là VACPA) đã nhanh chóng kiện toàn tổ chức, lập ra bốn Ban chuyên môn để giúp thực hiện mục tiêu của Hội là góp phần duy trì và phát triển nghề nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính của Việt Nam thông qua hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức, trao đổi và thông tin quản lý đạo đức nghề nghiệp, và kiểm soát chất lượng dịch vụ của Hội. Các thành viên trong các Ban chuyên trách và  BCH của VACPA đã dành phần lớn thời gian cho công việc xây dựng các qui chế và chương trình hoạt động của VACPA, củng cố tổ chức, quản lý và phát triển Hội viên. Theo các kế hoạch và chương trình hoạt động này, bắt đầu từ năm 2006 các Hội viên của VACPA có thể phát triển năng lực chuyên môn thông qua các chương trình đào tạo, cập nhật kiến thức hàng năm sẽ do Ban đào tạo - VACPA kết hợp với Bộ Tài chính tổ chức. Những vướng mắc trong quá trình hành nghề của Hội viên sẽ được tháo gỡ thông qua chương trình hoạt động của Ban Tư Vấn - VACPA.  Hội viên VACPA có thể gửi các vướng mắc trong quá trình hành nghề của mình qua Email về các văn phòng của VACPA tại khu vực, nơi mà Hội viên đang hoạt động để được  Ban Tư vấn-VACPA nghiên cứu và trả lời chung cho các Hội viên bằng văn bản chính thức qua Email, hoặc trên Website của Hội. Ngoài ra VACPA có thể hỗ trợ Hội viên thông qua các cuộc hội thảo chuyên đề hoặc các cuộc giao lưu do Hội tổ chức tại các khu vực.   Ban Kiểm tra là một trong số bốn Ban chuyên môn thay mặt Hội thực hiện chức năng kiểm tra giám sát nghề nghiệp Kế toán, Kiểm toán được chuyển giao từ Bộ Tài chính sang Hội theo Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14/7/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Đây là một nét mới trong công tác quản lý nhà nước ở Việt Nam, khi chúng ta đang đi theo mô hình của thế giới đó là hội nghề nghiệp đóng vai trò của một cơ quan quản lý chất lượng hành nghề chuyên môn, và trong trường hợp này là nghề kế toán và kiểm toán. Việc kiểm soát chất lượng hành nghề kế toán và kiểm toán định kỳ của Ban Kiểm tra-VACPA có tác dụng: nhắc nhở Hội viên tuân thủ các Chuẩn mực chuyên môn của người hành nghề, nhằm giảm thiểu rủi ro cho nghề nghiệp, tránh thiệt hại về kinh tế và uy tín cho Hội viên trong tương lai; nhắc nhở các Hội viên tuân thủ Đạo đức nghề nghiệp (tính độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn, tính bảo mật và tuân thủ Chuẩn mực chuyên môn) trong quá trình hành nghề; giúp Hội viên thiết lập một kỷ cương trong việc không ngừng phát triển các nguyên tắc nghề nghiệp và khuôn khổ kỷ luật cá nhân; giúp đỡ Hội viên xác định những điểm yếu, kém trong quá trình hành nghề. Ngoài ra Ban Kiểm tra - VACPA sẽ phối hợp với các ban chuyên trách khác và các văn phòng của VACPA lập kế hoạch trợ giúp kỹ thuật cho Hội viên có đủ năng lực trong việc tiếp tục hành nghề. Thực hiện Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14/7/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc chuyển giao cho Hội nghề nghiệp thực hiện một số nội dung công việc quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán. Năm 2005, Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán Bộ Tài Chính đã mời VACPA tham gia thực hiện kiểm tra chất lượng hành nghề kế toán và kiểm toán tại 14 công ty  kiểm toán đang hoạt động ở Việt Nam; đã kết hợp với VACPA tổ chức các lớp cập nhật kiến thức cho Kiểm toán viên, bồi dưỡng và tham gia thi tuyển kiểm toán viên từ năm 2006. Sắp tới đây, việc cấp chứng chỉ CPA cũng sẽ được chuyển giao cho VACPA, từ đó góp phần nâng cao năng lực kiểm soát chất lượng kiểm toán của Hội. 2.2. Sự tất yếu phải nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán ở Việt Nam. Sở dĩ chất lượng kiểm toán trong nước chưa cao là do người sử dụng báo cáo kiểm toán chưa yêu cầu cao. Người sử dụng phải đòi hỏi cao thì người làm kiểm toán mới cung cấp những sản phẩm chất lượng cao. Kiểm toán viên tạo ra sản phẩm chất lượng cao nhưng người sử dụng không đánh giá được hết “tầm” của sản phẩm, nên họ chưa thực sự bỏ công sức ra làm tốt Trước khi doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính cho cơ quan thuế phải qua kiểm toán nhưng nhiều khi doanh nghiệp không chấp nhận quy định này mà cơ quan thuế vẫn chấp nhận. Đây cũng là một lý do quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ đòi hỏi tính chính xác, đầy đủ đối với báo cáo kiểm toán từ phía người sử dụng. Đặc biệt là xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, trong thời gian tới, số lượng các tổ chức phát hành, niêm yết, và kinh doanh chứng khoán Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng, đòi hỏi các dịch vụ kiểm toán trong lĩnh vực này phải tăng cả về số lượng và chất lượng. Vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới WTO. Theo cam kết, khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, dịch vụ kiểm toán phải được mở rộng cho các đối tác nước ngoài tham gia. Đây là một thách thức lớn khi kế toán, kiểm toán Việt Nam chưa được quốc tế thừa nhận. Trên thực tế, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế của chúng ta thường thuê các công ty kiểm toán nước ngoài hoặc công ty là thành viên kiểm toán quốc tế do tâm lý chưa tin tưởng vào chất lượng, uy tín của các công ty kiểm toán trong nước và cũng do các công ty này còn khá non trẻ trong khi dịch vụ kiểm toán ở các nước không chỉ giàu kinh nghiệm mà còn mang tính chuyên nghiệp cao. Trước tình cảnh đó, kiểm toán độc lập Việt Nam cần tạo lập một phong cách hoạt động chuyên nghiệp, theo các chuẩn mực quốc tế là điều mà kiểm toán viên cần hướng đến, nếu không muốn bị loại khỏi “cuộc chơi”. Một yếu tố khác cần được quan tâm là cạnh tranh. Cạnh tranh có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và kiểm toán nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi công ty kiểm toán dù muốn hay không vẫn phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là điều kiện thuận lợi để mỗi công ty tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên giành ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trên thị trường, cạnh tranh giữa các công ty là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, tạo ưu thế về mọi mặt kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận. Xu thế cạnh tranh ngày nay là cạnh tranh về chất lượng sản phẩm dịch vụ, giá cả Trong bối cảnh như vậy, nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam là yêu cầu tất yếu 2.3. Phương hướng nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, kinh nghiệm của thế giới, khi xác lập và thực hiện việc nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập chúng ta cần có những phương hướng cụ thể, rõ ràng. Dưới đây là một số đề xuất hướng nâng cao chất lượng cho chất lượng kiểm toán độc lập của Việt Nam: Đảm bảo thực hiện và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng. Vai trò của Nhà nước (Bộ Tài chính) trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kiểm toán là tất yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Vai trò này xuyên suốt trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đối với lĩnh vực kiểm toán, Bộ Tài chính và các Bộ, Ngành chức năng của Nhà nước có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn các tổ chức, hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán vẫn chưa thực sự phát triển mạnh. Tăng cường vai trò của các tổ chức nghề nghiệp kế toán và kiểm toán. Muốn nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập cần nâng cao cơ chế kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập đặt trong mối quan hệ giữa yếu tố pháp lý và yếu tố nghề nghiệp.Về lâu dài Nhà nước sẽ phải dần dần chuyển giao chức năng quản lý ngành kiểm toán cho các tổ chức nghề nghiệp theo đúng thông lệ Quốc tế như việc hướng dẫn chuẩn mực, nghiệp vụ kiểm toán, quản lý độ ngũ hành nghề, quản lý và kiểm soát đạo đức nghề nghiệp cuả kiểm toán viên, quản lý và kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, Học tập kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với đặc thù thực tế phát triển kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Trong khi chúng ta có thể khai thác và tiếp thu kinh nghiệm thế giới cũng phải hết sức cân nhắc về cơ chế, mô hình tổ chức hoạt động chất lượng, tuyển chọn và đào tạo kiểm toán viên, tài trợ các hoạt động kiểm tra, kiểm soát chất lượng, tài trợ các chương trình cập nhật kiến thức, nghiên cứu đưa ra quy trình kiểm soát hợp lý, sao cho phù hợp với thực trạng và có khả năng phát triển chất lượng tốt hơn trong tương lai. 2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán độc lập Việt Nam. 2.4.1. Quan tâm đến chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo. Ở nước ta hiện nay có rất nhiều Học viện, Trường đại học, cao đẳng đào tạo chuyên nghành kế toán – kiểm toán, nhưng những cơ sở đào tạo đội ngũ kế toán – kiểm toán hệ chính quy từng có “thâm niên” chỉ có thể kể tới Học viện tài chính, Đại học kinh tế quốc dân và Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Thế nhưng tại các cơ sở đào tạo này thì câu hỏi đặt ra là kết thúc quá trình đào tạo thì bằng cấp này đã được tổ chức nào trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung công nhận? Xin được trả lời là chưa. Vậy làm thế nào để những chương trình, nội dung và bằng cấp này có được sự thừa nhận rộng rãi của quốc tế? Thứ nhất, chuẩn hóa hơn nữa khung chương trình đào tạo từ phía cơ quan chức năng ban hành Theo Điều 39 Luật giáo dục quy định về mục tiêu, nội dung và yêu cầu đào tạo ở trình độ Đại học là “Đào tạo trình độ đại học giúp Sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên nghành được đào tạo”. Như vậy, bên cạnh kiến thức về lý thuyết thì khung chương trình ban hành nhất thiết phải có những yêu cầu về việc thực hành. Thực tế hiện nay là các cơ sở đào tạo căn cứ vào quy chế đào tạo của Bộ giáo dục ban hành để xây dựng chương trình đào tạo cho phù hợp. Tuy nhiên, khi xây dựng chương trình theo từng chuyên nghành thì lại phụ thuộc vào các Tiểu ban xây dựng đưa ra những môn học, thời lượng những môn học, thứ tự môn học...Do đó, trong tiểu ban này cần phải mời những chuyên gia, những nhà khoa học có kinh nghiệm, những thành viên của cơ quan chức năng liên quan cùng xây dựng để có được cái nhìn toàn diện hơn về yêu cầu đào tạo, xu hướng phát triển của tương lai, khả năng tiếp cận khu vực và thế giới để mà đi tắt đón đầu, tránh tình trạng “bình mới, rượu cũ” đổi đi đổi lại thứ tự, thời lượng các môn học. Và khi xây dựng chương trình phải coi trọng phần kiến thức chuyên nghành, ngoại ngữ. Thứ hai, Xây dựng lộ trình tiếp cận với các chương trình đào tạo tiên tiến của thế giới Hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA) đã và đang tiến hành làm việc với những cơ sở đào đạo nhằm hướng tới đưa những chương trình đào tạo kế toán – kiểm toán chuẩn quốc tế vào các trường. Vì thực tế hiện nay khi xem xét kết quả đào tạo trong các cơ sở đào tạo thì việc miễn các môn thi theo chương trình của ACCA, CAT... là không có. Như vậy, người học của chúng ta rất thiệt thời cho nên cần thiết và cấp bách các cơ sở đào tạo phải đặt mục tiêu và thái độ sẵn sàng hơn nữa trong việc tiếp cận các chương trình tiến tiến trong khu vực nói riêng, trên thế giới nói chung để dần các bằng cấp này sẽ được thừa nhận rộng rãi. Thứ ba, Coi trọng hơn nữa việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ Giảng viên tại các cơ sở đào tạo Khẳng định rằng để đào tạo ra những sản phẩm trí tuệ có chất lượng cho xã hội và đáp ứng yêu cầu hội nhập thì đội ngũ Giảng viên có vai trò vô cùng quan trọng. Thực tế có thể nhận thấy rằng, đội ngũ Giảng viên được hình thành chủ yếu từ đào tạo trong nước và nước ngoài. Nếu được đào tạo trong nước thì trình độ ngoại ngữ sẽ không cao, phương pháp nghiên cứu khoa học cũng vẫn chưa có nhiều thay đổi, và đặc biệt là việc tiếp cận với những thay đổi của khu vực, thế giới còn rất hạn chế do yếu tố môi trường, ngoại ngữ - cho nên kiến thức bổ sung cũng như truyền đạt cho sinh viên chỉ mang tính chất “lối mòn”. Phần còn lại đội ngũ Giảng viên được đào tạo từ nước ngoài thì họ có một trình độ ngoại ngữ nhất định, phương pháp làm việc khoa học hơn nhưng để ứng dụng của những cái mới này vào các bài giảng thì vẫn còn gặp những khó khăn vì các chương trình trong nước và nước ngoài vẫn có những điểm chưa tương đồng và phương pháp tiếp cận môn học cũng khác nhau. Như vậy, ta thấy rằng để có những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế thì trước hết người làm ra nó – đội ngũ Giảng viên phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, cần từng bước đào tạo và đào tạo lại đội ngũ Giảng viên tiếp cận dần với những nội dung, phương pháp tiên tiến trên thế giới. Thứ tư, Đối tượng học phải có cơ hội tiếp cận nhiều hơn nữa với các nội dung, chương trình mới Cơ sở đào tạo và các Tổ chức, các Hiệp hội cần thiết phải phối hợp với nhau để tổ chức nhiều các buổi giới thiệu, hội thảo những chương trình mới, nội dung mới với Sinh viên. Một sinh viên tốt nghiệp ra trường sẽ có nhiều cơ hội việc làm hơn nếu như ngoài những kiến thức thu được họ có thêm có thêm các chứng chỉ quốc tế. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ, tin học phải được xem là vấn đề thiết yếu, vô cùng quan trọng. Chúng ta đặt câu hỏi tại sao các Tổ chức, các Hiệp hội không dần tiếp cận với các cơ sở đào tạo để cùng xây dựng chương trình với mục đích vừa nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tế. Vừa đạt được trình độ chuẩn để khi Sinh viên tốt ngiệp sẽ được miễn các môn thi nếu như muốn có các chứng hành nghề? Nếu có sự kết hợp này thì ngay từ khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường Sinh viên đã có những sự năng động, định hướng nhất định rồi. Thứ năm, Tạo nên sự gắn kết hơn nữa giữa Cơ quan chủ quản, các Hiệp hội nghề nghiệp với các cơ sở đào tạo và giữa các cơ sở đào tạo với nhau Sự gắn kết giữa các cơ quan chủ quản, các Hiệp hội nghề nghiệp là hoàn toàn cần thiết bởi vì: Về phía các cơ sở đào tạo sẽ tạo ra được một kênh thông tin giữa yêu cầu thực tế và vấn đề đang đào tạo để mà điều chỉnh chương trình, nội dung cho phù hợp. Về phía Giảng viên sẽ có môi trường, có điều kiện cập nhật, nắm bắt được những thay đổi của những quy định – đặc biệt là những thay đổi quốc tế mà nhiều lúc muốn học vẫn không biết tìm tài liệu này ở đâu. Về phía Sinh viên sẽ được hưởng thụ những mặt tích cực này. Chính vì thế, thời gian tới cần tích cực hơn nữa việc triển khai mối quan hệ hai chiều này bằng những cuộc hội thảo, những buổi tọa đàm trao đổi. Bên cạnh đó các tổ chức, các Hiệp hội nếu có tổ các buổi hội thảo, cập nhật kiến thức mới cần ưu tiên mời nhiều hơn đội ngũ Giảng viên viết bài, tham dự và ngược lại Có thể thấy rằng tại các cơ sở đào tạo sẽ xây dựng chương trình đạo cho phù hợp với truyền thống, thế mạnh của mình. Do đó cần thiết phải có giao lưu nhiều hơn nữa giữa các cơ sở đào tạo nhằm trao đổi, chuẩn hóa, học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Để làm được điều này trong giai đoạn hiện nay ngoài nỗ lực cố gắng của các trường, thì vai trò cầu nối của ACCA là vô cùng quan trọng. 2.4.2. Cần đổi mới công tác thi thi tuyển cấp chứng chỉ Kiểm toán viên hành nghề hướng đến sự thừa nhận của các nước đối với chứng chỉ Kiểm toán viên của Việt Nam. Mười lăm năm hình thành và phát triển kiểm toán độc lập cũng là 15 năm hình thành và phát triển của hoạt động đào tạo và thi tuyển Kiểm toán viên Việt Nam, đã góp phần hình thành một đội ngũ đông đảo những người hành nghề kế toán, kiểm toán đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao, càng nhanh về quy mô và chất lượng của hoạt động kiểm toán độc lập. Việc tổ chức ôn, thi và cấp Chứng chỉ Kiểm toán viên Việt Nam hiện nay có những ưu điểm nhất định nhưng vẫn còn một số tồn tại: - Số lượng 8 môn thi được quy định từ năm 1992 hiện nay không phù hợp. - Đối tượng được tham dự vẫn còn hẹp. - Thời gian hướng dẫn ôn thi các môn còn quá ngắn, mới chỉ phục vụ cho việc thi chứ chưa nhằm mục đích trang bị kiến thức và nâng cao nghề nghiệp sau này. Về tài liệu học, chỉ đến năm 2006, Hội đồng thi mới biên soạn và phát hành được tài liệu học thi còn trước đó chỉ có đề cương ôn thi và tài liệu tham khảo. - Việc tổ chức một kỳ thi gồm 8 môn liên tục trong vòng 1 tuần gâp áp lực lớn cho người thi. Trong điều kiện hiện nay Việt Nam đang đàm phán gia nhập các Hiệp định hội nhập kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6215.doc
Tài liệu liên quan