Đề tài Kiểm toán nội bộ - Một nhân tố quan trọng cho quá trình phát triển của các doanh nghiệp và tổ chức hiện nay

Lời mở đầu 1

Nội dung . 1

Phần I : Lý luận chung . 1

1. Tổng quan về kiểm toán 1

1.1. Khái niệm về kiểm toán 1

1.2. Phân loại kiểm toán . 5

2. Khái quát chung về Kiểm toán nội bộ ( KTNB ) . 5

2.1. Khái niệm 5

2.2. Đặc trưng của KTNB . 7

2.2.1. Chủ thể của KTNB . 7

2.2.2. Lĩnh vực hoạt động của KTNB 10

3. Sự cần thiết của KTNB đối với các tổ chức 12

4. Một số khó khăn đối với quá trình phát triển của KTNB 14

4.1. Sự cạnh tranh với các công ty kiểm toán độc lập và công ty cung cấp dịch vụ kế toán . 14

4.2. Khó khăn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cấp quản lý và bộ phận được kiểm toán . 15

4.3. Thích ứng với thế giới công nghệ thông tin . 16

4.4. Vấn đề đào tạo kiểm toán viên nội bộ 17

Phần 2 : Tình hình hiện tại của KTNB và một số kiến nghị của bản thân 19

1. Tình hình hiện tại của KTNB . 19

1.1. Trên thế giới 19

1.2. ở Việt Nam 21

2. Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình phát triển KTNB ở Việt Nam 26

2.1. Về chính sách pháp luật . 26

2.2 . Về mô hình tổ chức bộ máy KTNB . 27

2.3. Xây dựng các chương trình , các học viện đào tạo kiểm toán viên nội bộ . 27

2.4 . Xây dựng và bam hành các chuẩn mực KTNB 28

Kết luận

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm toán nội bộ - Một nhân tố quan trọng cho quá trình phát triển của các doanh nghiệp và tổ chức hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp một cách khách quan . Vì thế trong các cuộc kiểm toán , việc phân công phải tránh sự mâu thuẫn về quyền lợi cũng như kiẻm toán viên nội bộ luôn được yêu cầu phải báo cáo định kỳ những thông tin cho người phụ trách về những mâu thuẫn đang , sẽ xảy ra . Đặc biệt kiểm toán viên nội bộ không được đảm nhận công việc nghiệp vụ khác cũng như kiểm toán viên nội bộ không nên trở lại kiểm toán bộ phận mà trước đây kiểm toán viên này có quyền hay có trách nhiệm . Vì như vậy kiểm toán viên nội bộ có khả năng sẽ thiên vị do đã có liên quan . Về mặt chuyên môn , kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức , kỹ năng , kỷ luật cần thiết để thực hiện công việc kiểm toán . Cụ thể kiểm toán viên nội bộ phải tinh thông nghiệp vụ trong việc áp dụng các chuẩn mực , thủ tục và thuật KTNB ; Tinh thông nguyên tắc và nghiệp vụ kế toán ; Hiểu biết nguyên tắc quản lý để nhận thức và đánh giá thực chất và tầm quan trọng của những sai lệch trong thực tế kinh doanh ; nhận thức rõ những nguyên tắc cơ bản của các vấn đề kế toán , kinh tế , luật thương mại , hệ thống thuế , tài chính , các phương pháp định lượng hệ thống thông tin được chương trình hoá . Ngoài ra kiểm toán viên nội bộ phải có nhiều đức tính quan trọng khác. Muốn trao đổi ý kiến có hiệu quả thì kiểm toán viên nội bộ phải là người khéo ứng xử khi tiếp xúc , phải nắm vững và duy trì mối quan hệ thoả đáng với các bộ phận được kiểm toán . Để không bị lạc hậu hay đào thải của nghề này , kiểm toán viên nội bộ phải không ngững học tập để duy trì trình độ thành thạo của mình trong thế giới năng động và thường xuyên thay đổi hiện nay . Bên cạnh đó kiểm toán viên phải rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực để có thể thích ứng với sự phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán . Mô hình thứ hai là sử dụng giám định viên kế toán ( hoặc giám sát viên nhà nước ) là mô hình ứng dụng phổ biến ở các xí nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp có qui mô nhỏ . Trong trường hợp này , người thực hiện công việc kiểm toán có thể là kiểm toán viên chuyên nghiệp ( hành nghề ) thậm chí ở một số nước trong các xí nghiệp công và doanh nghiệp nhà nước được biên chế trong bộ máy kiểm toán nhà nước . Mô hình này rất thích hợp với các xí nghiệp công , các doanh nghiệp có qui mô nhỏ không cần biên chế kiểm toán viên nội bộ . Nó phát huy được thế mạnh nghề nghiệp của các chuyên gia giỏi . Tuy nhiên trong trường hợp này chi phí kiểm toán thường cao do phải thuê nhân viên . Mặt khác , do công việc KTNB cũng do số ít chuyên gia có trình độ cao đảm nhiệm nên cần chú trọng đảm bảo tính khách quan trung thực của kiểm toán viên bằng các phương pháp bổ sung như kiểm tra chéo , định kỳ thay đổi nơi làm việc của các kiêmt toán viên tăng cường trách nhiệm của kiểm tra bên ngoài … Như vậy chủ thể của KTNB là các kiểm toán viên nội bộ nằm trong bộ máy KTNB cả đơn vị tổ chức đó hoặc là các giám định viên kiểm toán thuê ngoài . Dù là một nhân viên của tổ chức hay người ngoài , dù đã có chứng chỉ kiểm toán viên nội bộ hay chưa thì họ cũng phải là người có sự thành thạo về mặt chuyên môn và phải tuân thủ các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp rất chặt chẽ . Điều đó giúp cho công việc kiểm toán tiến hành hiệu quả hơn , phục vụ tót hơn cho nhu cầu quản lý trong doanh nghiệp cũng như các cơ quan chức năng của nhà nước . 2.2.2. Lĩnh vực hoạt động của KTNB . Theo chuẩn mực chung số 300 đã xác định rõ KTNB sẽ xem xét , đánh giá tính đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức và chất lượng thực hiện trách nhiệm được giao . Tuy nhiên , tuỳ theo yêu cầu của ban giám đốc và hội đồng quản trị mà KTNB trong từng tổ chức sẽ phải tuân theo định hướng công việc nhất định . Nhưng có thể thấy các lĩnh vực công việc mà hầu hết các hệ thống KTNB thường có trách nhiệm thực hiện là: Thẩm tra tính xác thực và tính toàn vẹn của thông tin tài chính , thông tin nghiệp vụ và các phương tiện đã sử dụng để xác định , định lượng , phân loại và báo cáo thông tin đó . Thẩm tra các hệ thống đã thiết lập để bảo đảm sự tuân thủ các chính sách , kế hoạch , thủ tục , pháp luật , các quy định có ảnh hưởng quan trọng tới các nghiệp vụ , các báo cáo và phải xác định tổ chức có làm theo đúng không . Thẩm tra các biện pháp sử dụng để bảo vệ tài sản , tránh tổn thất do các hành vi trộm cắp , hoả hoạn , sử dụng sai hoặc bất hợp pháp , thẩm tra sự vạch trần các yếu tố này . Khi cần thiết thì thẩm tra sự tồn tại của những tài sản đó . Đánh giá tính tiết kiệm và tính hiệu quả của các nguồn nhân lực được sử dụng . Điều này có nghĩa là ban giám đốc chịu trách nhiệm đề ra những chuẩn mực điều hành để định lượng việc sử dụng các nguồn nhân lực tiết kiệm và hiệu quả của một hoạt động , còn kiểm toán viên nội bộ chịu trách nhiện xem xét xem : Các chuẩn mực tác nghiệp đố được thiết lập để đo lường tiết kiệm và hiệu quả không ; Các chuẩn mực đã thiết lập thì có được thực hiện không ; Những sai lệch so với các chuẩn mực đã thiết lập có được xác định , phân tích và báo cáo cho người có trách nhiệm để sửa sai hay không . Mặt khác kiểm toán viên phải xác định những tình trạng khác như : Cơ sở vật chất có được tận dụng tối đa ; công việc có năng suất hay không? Các thủ tục có tốn kém không? Nhân viên thừa hay thiếu. Kiểm toán viên nội bộ phải xem xét các hoạt động hoặc chương trình để khẳng định kết quả có đáp ứng mục tiêu và mục đích đã định không , các nghiệp vụ hoặc chương trình có thực hiện đúng kế hoạch không . Như vậy yếu tố chủ yếu liên quan tới các lĩnh vực hoạt động là việc hoàn thành các mục tiêu của mình để hỗ trợ ban giám đốc thông qua việc xem xét , đánh giá các công việc kiểm soát nội bộ khác nhau . Tuỳ vào từng tổ chức , ban giám đốc có thể thay đổi hoặc yêu cầu kiểm toán viên nội bộ thực hiện phạm vi công việc khác nhau nhưng kiểm toán viên nội bộ vẫn phải tập trung vào các khía cạnh nêu trên của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trong tát cả các mối liên quan này thì kiểm toán viên nội bộ giữ vai trò tham vấn còn ban giám đốc phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng các nguồn lực phục vụ lợi ích tối đa của tổ chức . 3. Sự cần thiết của KTNB đối với các tổ chức. Mọi hoạt động , trong đó có hoạt động kiểm soát như KTNB xuất hiện trong thực tế đều là kết quả của nhu cầu này sinh . Với sụ phát triển tự nhiên, các nghiệp vụ trong doanh nghiệp ngày càng có khối lượng nhiều và phức tạp , nên người chủ sở hữu và quản lý cao cấp trong thực tế không thể dễ dàng tiếp xúc với các nghiệp vụ đó để kiểm tra hiệu quả của hoạt động một cách vừa ý được . Mặc dù ông chủ có thể xây dựng một hệ thống và muốn có cái nhìn phán quyết qua hệ thống đó , thì vẫn cứ khó cho ông ta khi muốn biết lợi ích của doanh nghiệp có được phục vụ xứng đáng hay không . Những quy tắc đã định ra có được tuân thủ không? Công nhân viên làm việc có hiệu năng hay không ? Liệu tài sản có được đảm bảo an toàn không ? Những quy tắc hiện hành có còn hiệu lực khi điều kiện thay đổi không ? Câu trả lời sau cùng cho những yêu cầu đó là ông chủ cần có sự trợ giúp . Việc giúp đỡ này phải giao cho một hay một số người chịu trách nhiệm trực tiếp kiểm tra các hoạt động và báo cáo lại theo như các câu hỏi trên . Như vậy là , hoạt động kiểm toán nội bộ đã đi vào thực tế một cách chính thức và rõ ràng. Việc luôn tồn tại một nhu cầu chung về dịch vụ KTNB có lẽ là đã rất rõ ràng dù đó là loại hình tổ chức gì , hoạt động với mục tiêu gì . Điều này có nghĩa là , mọi tổ chức , doanh nghiệp có tồn tại trách nhiệm quản lý đều cần có KTNB . Mục tiêu của các tổ chức có thể là tìm kiếm lợi nhuận , mục tiêu nhân đạo xã hội hoặc tiến hành một nhiệm vụ của chính phủ . Trong tất cả các trường hợp , khi các đơn vị có các nhu cầu bảo vệ – tức là làm sao để các hoạt động trên được tiến hành đúng các chính sách , thủ tục và được tiến hành theo cách thức phản ánh các tiêu chuẩn phù hợp , cũng như nhu cầu về nâng cao chất lượng hoạt động , hay tìm ra phương thức tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn lực trong điều kiện hạn chế của thị trường , thì cần có bộ phận KTNB liên quan tương ứng. Có thể thấy từ điểm khởi đầu , khi KTNB chỉ được xem như là một hoạt động đơn lẻ ở cấp thấp và trong đa số trường hợp tồn tại với tư cách là một bộ phận cấu thành của các chức năng kế toán ; KTNB đã định hình một cách vững chắc - được nhìn nhận như một nhiệm vụ không thể thiếu trong mọi lĩnh vực của tổ chức , kể cả các đơn vị tư nhân ; Nó cũng trở thành một hoạt động chuyên nghiệp mang tính độc lập cao , đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động của các tổ chức Ngoài ra , nhu cầu về KTNB tồn tại ở mọi cấp của một đơn vị . Một đơn vị có thể tiến hành các hoạt động của nó thông qua việc phân chia quyền lực theo các cấp , phòng ban hay các bộ phận nội bộ khác nhau . Trong mỗi trường hợp , sự quản lý của các bộ phận nội bộ này đều có sự chia sẻ về nguồn lực và liên quan về trách nhiệm quản lý . Sự quản lý , điều hành này do đó có một nhu cầu chính đáng với KTNB . 4. Một số khó khăn đối với quá trình phát triển của KTNB. 4.1. Sự cạnh tranh với các công ty kiểm toán độc lập và công ty lớn cung cấp dịch vụ kế toán . Xu hướng gần đây của nhiều công ty đặc biệt là các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán là sử dụng dịch vụ KTNB của các công ty bên ngoài . Điều này có thể được giải thích bởi quan điểm , cách nhìn nhận về tính độc lập của KTNB . Nhiều người cho rằng các công ty kiểm toán độc lập hoặc các công ty cung cấp dịch vụ kế toán có thể thực hiện KTNB thì nên để họ làm công việc này bởi như thế tính độc lập sẽ tăng lên . Khi các công ty bên ngoài cung cấp dịch vụ KTNB thì người thực hiện là các kiểm toán viên công chứng , họ không phải là nhân viên trong đơn vị , đồng thời có thể thấy họ có trình độ chuyên môn cao , thường được đào tạo chuyên nghiệp , khác với một số nhân viên thực hiện KTNB chỉ là những nhân viên có kinh nghiệm được đề bạt vào trong bộ máy KTNB . Vì vậy có thể làm cho việc thẩm tra , đánh giá các hoạt động trong tổ chức khách quan và hiệu quả hơn . Mặt khác , kiểm toán viên nội bộ thường thực hiện việc thẩm định đối với nhiều lĩnh vực . Điều này là do bản chất của nghề nghiệp và do sự so sánh giữa lợi ích thu được và chi phí để duy trì hiệu quả bộ máy KTNB của ban giám đốc. Khi số lượng kiểm toán viên nội bộ nhỏ , phải thực hiện kiểm toán đồng thời trên nhiều lĩnh vực thì có một sự quan tâm tới tính chuyên môn hoá của KTNB . Có thể thấy các công ty chuyên cung cấp dịch vụ kiểm toán luôn có sự phân chia kiểm toán viên thành các nhóm thực hiện kiểm toán ở các lĩnh vực khác nhau . Vì vậy trên từng lĩnh vực mỗi nhóm sẽ hoạt động một cách kinh nghiệm , thành thạo và hiệu quả hơn . Từ góc độ này , nhiều nhà quản lý cho rằng khi thuê các công ty bên ngoài thực hiện KTNB sẽ hiệu quả hơn bộ máy KTNB trong các tổ chức . 4.2. Khó khăn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cấp quản lý và bộ phận được kiểm toán . Có thể thấy xung đột thường nảy sinh giữa trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ với bộ phận quản lý cấp cao hơn và với bộ phận quản lý trực tiếp các hoạt động đang được kiểm toán . Trong cả hai mối quan hệ này thì trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ đều là thực hiện các dịch vụ bảo vệ và cải thiện . Nhưng đối với ban quản lý cấp cao hơn công việc của kiểm toán viên nội bộ được xem như một phần của hệ thống kiểm soát mà qua đó các nhà lãnh đạo cao cấp hơn nữa nắm được những khiếm khuyết và những vấn đề còn tồn tại . Còn đối với bộ phận được kiểm toán thì lại muốn làm việc với kiểm toán viên nội bộ như một đối tác với một loại quan hệ thận trọng . Cái khó cho kiểm toán viên nội bộ là mối quan hệ thứ hai , khi tốt đẹp , sẽ có tác dụng thúc đẩy sự hợp tác giữa kiểm toán viên và bộ phận bị kiểm toán , đồng thời nó có thể giúp cho việc cải thiện tính hiệu quả của bộ phận bị kiểm toán này . Ngược lại quan hệ thứ nhất lại là cơ sở để đánh giá quá trình hoạt động của kiểm toán viên nội bộ và là cơ sở cho sự tồn tại cho loại hình nghề nghiệp này . Đây là sự mâu thuẫn mang tính bản chất nghề nghiệp . Vấn đề đối với kiểm toán viên nội bộ là làm thế nào để hoà hợp hai loại mong muốn khác nhau và thoả mãn cả hai đối tác. Bên cạnh đó còn tồn tại sự xung đột tiềm ẩn giữa ban giám đốc công ty với hội đồng quản trị ( kể cả hội đồng kiểm tra trực thuộc ) . Mặc dù cả hai đối tượng này đều quan tâm tới lợi ích chung của toàn công ty nhưng mỗi bên nhìn nhận lợi ích của đơn vị theo một cách khác nhau . Ban giám đốc thường quan tâm nhiều hơn về sự tuân thủ , các áp lực từ phía chính phủ và hình tượng của công ty . Ban quản trị lại có sự quan tâm về quá trình hoạt động dài hạn . Khác với sự quan tâm có tính ngắn hạn , trước mắt của ban giám đốc . Một lần nữa kiểm toán viên nội bộ phải làm thế nào đó để đạt được sự cân bằng hợp lý và thoả mãn nhu cầu của cả hai bên - đây chính là điểm khó nhất trong nghề của kiểm toán viên nội bộ. 4.3. Thích ứng với thế giới công nghệ thông tin . Sự phát triển của công nghệ máy tính và các ứng dụng trong mọi vấn đề của cuộc sống hiện tại là một trong những sức mạnh to lớn và có ý nghĩa nhất của xã hội . Trong kinh doanh và khu vực Chính phủ , máy tính đã trở thành phương tiện chủ yếu để xử lý các dữ liệu văn phòng , và trong những năm gần đây , máy tính đang chuyển dần sang phạm vi các hệ thống ứng dụng . Nó cũng đem lại một khả năng mới cho một số lượng lớn các ứng dụng của khoa học quản lý . Những phát triển này đem lại những thuận lợi lớn nhưng đồng thời cũng gây ra không ít khó khăn cho công tác quản lý , điều hành . Mục tiêu của KTNB về trợ giúp tổ chức đòi hỏi kiểm toán viên nội bộ phải nhận thức được những cơ hội cũng như những thách thức mới này và trợ giúp mọi bộ phận để sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả . Thêm vào đó , những ứng dụng rộng rãi của máy tính đã tác động trực tiếp nhiều hơn tới công việc của kiểm toán viên nội bộ. Trước khi có sự xâm nhập của máy tính , kiểm toán viên nội bộ xử lý tài liệu và các dữ liệu có liên quan mà đã được thực hiện thủ công hoặc được xử lý bằng các loại máy cơ khí mà lao động của con người có thể dễ dàng nhận thấy . Ngày nay , các dữ liệu cơ bản được in ra bằng máy tính điện tử qua một loạt các chương trình và phương pháp xử lý dữ liệu phức tạp . Khi xem xét các số liệu này , kiểm toán viên nội bộ cần quay lại xem xét các chương trình và cácd kiểm soát mà qua đó số liệu được tạo ra . Vì vậy công việc của các kiểm toán viên nội bộ lại tăng thêm do phải xem xét quá trình xử lý cơ bản của máy tính . Để có thể trở thành một bộ phận cấu thành tích cực của hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả đòi hỏi kiểm toán viên nội bộ cần có những kiến thức chuyên môn tương đối đầy đủ về kỹ thuật máy tính , đây thực sự là một thách thức với kiểm toán viên nội bộ . Hơn nữa , bộ máy KTNB cần phải có một số nhân viên có chuyên môn đặc biệt về máy tính . Những nhân viên này có thể đóng vai trò là người tư vấn hoặc người đào tạo cho các kiểm toán viên nội bộ khác và có thể thực hiện chức năng là người liên lạc trong việc tiếp cận với sự phát triển của hệ thống thông tin nói riêng và toàn hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung . Vấn đề này đặt ra là bộ phận KTNB cần giải quyết khó khăn về nhân sự thực hiện nhiệm vụ này . Đặc biệt khi những ứng dụng ngày càng rộng rãi của máy tính đã dẫn đến việc trong nhiều công ty , việc xử lý bằng máy tính và nghiên cứu phân tích các hoạt động được tập trung cao , từ đó hình thành phòng hệ thống thông tin quản lý . Có thể thấy nhờ những ứng dụng của công nghệ thông tin nên phòng này có tác dụng rất lớn trong việc phân tích , đánh giá các mặt hoạt động trong công ty . Kết quả là phòng hệ thống thông tin quản lý trở thành một tác nhân mới quyết định mạnh mẽ tới lợi ích của công ty cũng như trở thành một đối thủ mới cạnh tranh với bộ phận KTNB trong công việc cung cấp các dịch vụ thẩm định , quản lý . Vấn đề của kiểm toán viên nội bộ là không thể không liên quan tới phòng này nói riêng và những ứng dụng của công nghệ thông tin nói chung . Vì vậy kiểm toán viên nội bộ chỉ có thể sử dụng bộ phận này như một công cụ để nâng cao hiệu quả hoạt động KTNB của công ty. 4.4. Vấn đề đào tạo kiểm toán viên nội bộ . Bất cứ ngành nghề nào muốn tồn tại và phát triển bền vững đều phải quan tâm đến một vấn đề chủ chốt , đó là giáo dục . Cái khó đầu tiên trong việc đào tạo kiểm toán viên nội bộ là xác định được yêu cầu tối thiểu về trình độ mà xã hội có thể chấp nhận được đối với nghề KTNB . Hoạt động KTNB thực hiện trên hầu hết các lĩnh vực , các mặt của một nghiệp vụ nên sự hiểu biết của kiểm toán viên nội bộ bị đòi hỏi rất rộng và rất cao . Nhưng thực tế không thể xây dựng một chương trình đào tạo trên tất cả các lĩnh vực để đáp ứng được mọi mặt cho quá trình kiểm soát và quản lý . Vì vậy Viện kiểm toán nội bộ đã nghiên cứu và xác định những mức kiến thức cần thiết trong một số lĩnh vực có vai trò chủ chốt . Mặc dù đã được giới hạn nhưng các loại hình đào tạo có thể đáp ứng được điều đó cũng không phải nhiều , kể cả tư thục , công lập … Nhưng đối với nghề KTNB thì số trường học đào tạo kiểm toán viên nội bộ còn rất hạn chế . Nhiều nước chưa có trường dành riêng cho việc đào tạo kiểm toán viên nội bộ mà nó chỉ là một bộ phận mở rộng trong các chuyên ngành đào tạo kiểm toán viên công chứng . Kết quả là số lượng lớn kiểm toán viên nội bộ có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn ít , chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng của xã hội đối với nghề nghiệp này . Cũng do đó mà thành tựu thực tế của KTNB ngoại trừ một số nước rất phát triển thì còn rất hạn chế . Trước thực tế vai trò của KTNB sẽ không được nâng cao và nhiều người sẽ không ủng hộ tích cực cho sự phát triển của KTNB . Sau khi nhìn nhận tổng quan về KTNB , chúng ta thấy rằng , điều dường như có ý nghĩa là sự tăng lên về mức độ phức tạp của các tổ chức và các hoạt động của chúng đã tạo ra nhiều cơ hội cho KTNB . Điều này có nghĩa là một thị trường rộng lớn và giàu có đang được mở ra cho KTNB . Một kết luận khác không kém phần quan trọng là KTNB đã được đặt vào vị trí xứng đáng để có thể khai thác tốt những lợi thế đó . Vị trí của KTNB trong tổ chức là duy nhất , quyền hạn và uy tín lớn khiến chúng ta có thể tin tưởng vào những thành quả cao nhất mà nó sẽ đạt được. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng , mọi thứ luôn thay đổi , luôn có mối nguy cơ mất vị trí trong mối quan hệ với các bộ phận khác trong tổ chức nếu như KTNB trở nên tự mãn quá mức . Nhưng triển vọng chung là vô cùng hoàn hảo cho sự tiến xa hơn nữa của KTNB . Sự phát triển của KTNB diễn ra rộng khắp xuát phát từ quá trình hoạt động của các bộ phận KTNB tại từng doanh nghiệp và tổ chức Chính phủ . Những hoạt động này là cơ sở cho sự thành công của các tổ chức đó . Thêm vào đó , những thành công này đã lan truyền tới các tổ chức , các doanh nghiệp khác , đặc biệt là qua các phương tiện thông tin của Viện KTNB . Sự tiến triển trong tương lai của KTNB cũng sẽ lớn hơn qua những nỗ lực nghề nghiệp trên một phạm vi rộng lớn . Tuy nhiên , về cơ bản , thành công của KTNB bắt nguồn từ những kết quả trong các hoạt động cụ thể của doanh nghiệp , các tổ chức . Do đó , chúng tôi cho rằng , từng kiểm toán viên nội bộ sẽ là những nhân tố chủ chốt trong quá trình phát triển những khái niệm mới, phương pháp và sự tiếp cận với hiệu quả thực tế . Và cũng đồng thời là những người đóng vai trò lãnh đạo trong thực tế , đẩy mạnh các nỗ lực về nghề nghiệp như là Viện KTNB . Nhưng xét trong toàn thể , sự phát triển của KTNB phụ thuộc vào thành tựu của mọi kiểm t oán viên nội bộ . Do đó , mục tiêu ở đây là nâng cao chất lượng hoạt động của từng kiểm toán viên và mỗi bộ phận KTNB trong các doanh nghiệp . Vì vậy , mục tiêu chung của KTNB là phải đem lại những trợ giúp tích cực , góp phần đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp , Chính phủ và xã hội nói chung . Mỗi chúng ta cũng cần hoành thành tót phần việc của mình trong tổ chức nói riêng và đóng góp vào những nỗ lực nghề nghiệp nói chung . Sự hợp tác chặt chẽ trong công việc sẽ đảm bảo cho sự phát triển của KTNB . Thực vậy , những thành tựu đã đạt được và sức mạnh hiện tại cho thấy KTNB có thể mạnh dạn bước vào tương lai với những triển vọng tốt đẹp . phần 2 . Tình hình hiện tại của KTNB và một số kiến nghị của bản thân . 1. Tình hình hiện tại của KTNB . 1.1. Trên thế giới . Với sự phát triển không ngừng của các loại hình kiểm soát phục vụ cho nhu cầu quản lý ngày càng phức tạp , KTNB cũng phát triển dần cả về số lượng và chất lượng . Trước hết nó thể hiện ở sự lớn mạnh của tổ chức nghề nghiệp . Viện KTNB được thành lập lần đầu tiên năm 1941 ở New York với ban đầu chỉ 25 hội viên . Sau hơn 50 năm đến 1999 thì hiệp hội đã có trên 60000 hội viên hoạt động ở hơn 100 quốc gia có thể chế khác nhau . Cũng có nhiều người không phải là thành viên chính thức của hội nhưng làm việc giống như kiểm toán viên nội bộ . Số lượng này khoảng trên 150 000 người ở Mỹ và 220 000 người ở Trung Quốc . ở nhiều nước phát triển như Anh , Pháp , úc … , Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ cuãng lớn mạnh nhanh và có vai trò rất lớn cho việc phát triển KTNB và mang đến nhiều lợi ích cho các thành viên . Hiệp hội kiểm toán viên của úc được thành lập năm 1952 ở Sydney. Đến nay hội đã có nhiều chi nhánh ở tất cả các bang với các hội viên hoạt động trong cả lĩnh vực tư và lĩnh vực công . Số lượng hội viên xấp xỉ 5000 người trong đó 60% là hoạt động trong lĩnh vực công và 40% là hoạt động trong lĩnh vực tư . Sự phát triển của hội nghề nghiệp đã có tác dụng rất tích cực với các kiểm toán viên nội bộ là thành viên , ngay cả những kiểm toán viên nội bộ không phải là thành viên . Hội là tổ chức cơ bản truyền thụ các phương pháp KTNB thông qua cả quá trình học trên lớp và thông qua việc tổ chức cho các thành viên gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau . Khi các kiểm toán viên nội bộ là thành viên của hội tiến hành các công việc kiểm toán thì sẽ gặp sự bảo trợ nhờ vai trò tác động ngày càng lớn đối với xã hội của hiệp hội . Đồng thời, thông qua nguồn tài chính lớn , hiệp hội đã cung cấp nhiều điều kiện cho quá trình nghiên cứu , triển khai các đề án mới của các hội viên … Hiện nay , Viện kiểm toán viên nội bộ đã xây dựng được “ Phòng kiến thức chung dành cho kiểm toán viên nội bộ “ . Từ cơ sở này , Viện hình thành các lĩnh vực để đào tạo kiểm toán viên nội bộ gồm : Quá trình KTNB ; kỹ năng KTNB ; Kiểm soát quản lý ; công nghệ thông tin và môi trường kiểm toán ; cũng như triển khai một chương trình cấp chứng chỉ công nhận danh hiệu kiểm toán viên nội bộ ( CIA - Certified Internal Auditor ) . Thực tế một số lượng lớn cácd kiểm toán viên nội bộ đã được cấp chứng chỉ kể cả người đã hoạt động lâu năm hay những người mới tham gia các kỳ thi sát hạch . Bên cạnh đó cũng còn nhiều thành viên của Viện chưa có chứng chỉ , điều này trái ngược với Viện kế toán viên công chứng của Hoa kỳ ( AICPA ), là nơi mà tất cả các thành viên đều yêu cầu phải có chứng chỉ của CPA . Điều này một phần là do tình trạng vào và ra khỏi nghề kiểm toán viên nội bộ thường rất lớn – vì thế đã làm giảm động cơ cố gắng phấn đấu để có chứng chỉ. Đặc biệt , Viện Kiểm toán viên nội bộ đã công bố “ Các chuẩn mực nghề nghiệp hoạt động KTNB “ vào tháng 6 năm 1978 làm cơ sở hướng dẫn cho hoạt động KTNB , nhanh chóng đưa KTNB trở thành một nghề nghiệp độc lập đáp ứng yêu cầu của xã hội. 1.2. Tại Việt Nam . Trước khi có sự ra đời của KTNB thì ở Việt Nam đã xuất hiện hai loại hình kiểm toán : Kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập . Sau mỗi năm tài chính , cấc doanh nghiệp trong nước đều phải đựơc kiểm toán bới một trong hai hoặc cả hai loại hình này . Với những phát triển và biến đổi không ngừng của nền kinh tế , qua mỗi kỳ kiểm toán các doanh nghiệp càng lộ rõ những thiếu hụt và non yếu trong quản lý kinh tế . Quyền và trách nhiệm kiểm soát chi tiêu của kế toán trưởng chưa được phát huy đúng mức , thậm chí có chỗ , có lúc còn bị xem nhẹ , chạy theo sản xuất buông lỏng quản lý , vi phạm nhiều quy tắc hạch toán . Đặc biệt là chế độ quản lý và hạch toán tài sản , chế độ kiểm kê , chế độ chứng từ , việc hạch toán giá thành , doanh thu … đều bộc lộ nhiều sai sót . Vì vậy nên cần thiết phải có sự ra đời của KTNB để hỗ trợ cho việc quản lý sản xuất , kinh tế tài chính . Như vậy , KTNB ra đời là do yêu cầu trực tiếp của các doanh nghiệp trong nền kinh tế . Sự ra đời chính thức của Qui chế KTNB bằng quyết định số 832 TC/QĐ/CĐKT ra ngày 28/10/1997 đã giúp các nhà quản lý doanh nghiệp giải quyết những khó khăn trong nội bộ doanh nghiệp . Nó như một động lực mới kích thích sự cạnh tranh công bằng và quyết liệt trong cơ chế kinh tế mới . Căn cứ vào Thông tư hướng dẫn sô 52/1998/TT-BTC ra ngày 16/04/1998 , các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là Tổng công ty tiến hành chuẩn bị cơ sở cho việc thành lập bộ phận KTNB ở doanh nghiệp mình . Những đơn vị đàu tiên cho ra đời bộ phận kiểm toán này là các Tổng công ty 90 , Tổng công ty 91 , Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam , Bộ Quốc phòng … Trong những năm đầu thành lập , cơ cấu tổ chức lẫn hình thức hoạt động của bộ phận KTNB tại các Tổng công ty bám sát các chỉ dẫn của Thông tư 52/1998/TT-BTC ; các phòng KTNB được thành lập ; trưởng phòng được cân nhắc , xem xét và bổ nhiệm ; các kiểm toán viên được tuyển chọn theo đúng các tiêu chuẩn đã đề ra … Hình thức kiểm toán mới này khi bước vào hoạt động vừa mang đặc điểm chung với các nước trên thế giới , vừa có những đặ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1152.doc
Tài liệu liên quan