MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I: Cơ sở lý luận về kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên 3
I. Cơ sở lý luận về kiểm toán viên 3
1. Khái niệm kiểm toán viên 3
2. Vai trò của kiểm toán viên 4
3. Yêu cầu đối với kiểm toán viên 5
3.1. Yêu cầu về trình độ chuyên môn đối với kiểm toán viên 6
3.2. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên 7
II. Cơ sở lý luận về đào tạo kiểm toán viên 12
1. Mục tiêu đào tạo kiểm toán viên 12
1.1. Về mặt số lượng 13
1.2. Về cơ cấu 13
1.3. Về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng 13
2. Yêu cầu đào tạo đối với kiểm toán viên 13
2.1. Về nội dung kiến thức và trình độ hiểu biết: 14
2.2. Về kỹ năng nghề nghiệp 14
2.3. Về năng lực nhận thức 14
2.4. Về năng lực tư duy 15
2.5. Về phẩm chất nhân văn 15
3. Kinh nghiệm đào tạo kiểm toán viên ở một số nước 16
Chương II: Thực trạng kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam 19
I. Thực trạng kiểm toán viên tại Việt Nam 19
1. Thực trạng kiểm toán viên Nhà nước 19
2. Thực trạng kiểm toán viên độc lập 22
3. Thực trạng kiểm toán viên nội bộ 24
4. Cơ hội và thách thức đặt ra cho kiểm toán viên Việt Nam hiện nay 25
4.1. Cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập 26
4.2. Cơ hội và thách thức của quá trình phát triển công nghệ thông tin 28
4.3. Cơ hội và thách thức của ISO 31
4.4. Thách thức từ kiểm toán môi trường 32
II. Khái quát chung về thực trạng đào tạo tại việt nam 33
1. Sự cần thiết phải đào tạo và cấp chứng chỉ đào tạo kiểm toán tại Việt Nam. 33
2. Phân loại đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam. 34
3. Thực trạng các quy định pháp lý liên quan đến đào tạo kiểm toán tại Việt Nam. 35
4. Các tổ chức đào tạo tại Việt Nam. 36
4.1. Đào tạo lấy bằng và học vị . 36
4.2. Đào tạo nghề nghiệp lấy chứng chỉ nghề nghiệp 38
Chương III: Nhận xét và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo kiểm tóan viên tại Việt Nam 44
I. Một số vấn đề còn tồn tại trong đào tạo kiểm toán viên tại việt Nam 44
1.1. Trong đào tạo lấy bằng - học vị 44
1.2. Trong đào tạo lấy chứng chỉ 45
II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam 45
2.1. Đào tạo lấy bằng - học vị 45
2.1.1. Đổi mới nội dung chương trình: 46
2.1.2. Đổi mới giáo trình: 46
2.1.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy: 47
2.2. Đào tạo lấy chứng chỉ nghề nghiệp 47
2.2.1. Đối với Nhà nước 47
2.2.2. Đối với Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam, Hội kiểm toán viên hành nghề và các tổ chức nghề nghiệp: 48
2.2.3. Đối với các công ty kiểm toán: 48
2.2.4. Đối với khách hàng và các bên thứ ba 48
Kết luận 49
Danh mục tài liệu tham khảo 50
53 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển đến năm 2020, KTNN phải tiếp tục khẳng định là một mô hình tập trung, thống nhất trực tuyến của Cơ quan KTNN bao gồm các bộ phận giúp việc cho Tổng KTNN, các KTNN chuyên ngành ở Trung ương và các KTNN khu vực ở các địa phương. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN Trung ương theo Nghị định 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ và Luật KTNN. Phát triển dần mạng lưới KTNN khu vực đủ để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán NSNN trên địa bàn các địa phương theo phân vùng; xây dựng cơ cấu tổ chức KTNN khu vực phù hợp với yêu cầu kiểm toán NSNN trên địa bàn theo hướng tinh giản bộ máy hành chính gián tiếp để tăng cường cho bộ phận trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Đến năm 2010, hình thành đủ 9 KTNN khu vực để đáp ứng yêu cầu kiểm toán NSNN theo quy định của Luật NSNN sửa đổi; nghiên cứu để có thể thành lập một số văn phòng đại diện của KTNN tại một số Bộ, ngành có số thu, chi NSNN lớn.
Theo hướng đó, trong thời gian sắp tới, KTNN phải xây dựng đội ngũ KTV đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, có kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp tương xứng với yêu cầu nghề nghiệp kiểm toán, đáp ứng yêu cầu của công cuộc hội nhập nền kinh tế. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đội ngũ KTV phải hợp lý về cơ cấu với số KTV cấp cao chiếm 5% trên tổng số KTV; KTV chính từ 30 – 35% và KTV chiếm 60 -65%; số trợ lý kiểm toán không vượt quá 20% tổng số KTV; số công chức, viên chức làm công tác tham mưu, quản lý không quá 20% tổng số KTV. Để đảm bảo cơ cấu thực hiện các mục tiêu như trên, đến năm 2010 biên chế toán ngành là 1200 người, trong đó có khoảng 850 KTV, 150 trợ lý KTV và 200 người làm công tác tham mưu, quản lý và sự nghiệp. Trong đó, mỗi vụ có từ 15 – 20 người; mỗi KTNN chuyên ngành có 50 -60 người; Học viện kiểm toán có 40 – 50 người; Trung tâm tin học, Trung tâm thông tin, lưu trữ có 15 – 20 người.
Thứ hai, chuẩn hoá tiêu chuẩn ngạch bậc KTV; định kỳ kiểm tra, sát hạch, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, KTV để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng phù hợp. Khuyến khích các KTV của KTNN tham dự kỳ thi Quốc gia để được cấp chứng chỉ KTV chuyên nghiệp (CPA) của Việt Nam. Có kế hoạch tuyển chọn và tập trung kinh phí để đạo tạo trong và ngoài nước một số KTV có đủ bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn, thành thạo về tin học và ngoại ngữ, trong đó có một số chuyên gia đạt trình độ khá của khu vực và có khả năng hội nhập với KTNN các nước trên thế giới.
Thứ ba, tăng cường năng lực cho Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ, phấn đấu đến giai đoạn 2006 -2010 nâng cấp Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ thành Học viện Kiểm toán, vừa thực hiện chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, KTV cho ngành KTNN, vừa thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học. Hoàn thiện các quy chế quản lý đào tạo, bồi dưỡng; phát triển đội ngũ giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm chức trong và ngoài ngành; đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp đánh giá chất lượng học viên; đến năm 2010 phải biên soạn và phát hành đồng bộ hệ thống giáo trình, tài liệu giảng dạy.
2. Thực trạng kiểm toán viên độc lập
Hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta ra đời từ những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ trước với việc Bộ Tài chính thành lập Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO). Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán ở nước ta là Nghị định 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ về việc ban hành “Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân” được thay thế bằng Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về “Quy chế tổ chức kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”. Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các Quyết định và Thông tư về “Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên”, hướng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán, ban hành và công bố Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Cho đến nay đã có 33 Chuẩn mực kiểm toán đã được ban hành và công bố áp dụng cho kiểm toán độc lập. Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã đưa ra những quy định về các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và thể thức áp dụng chúng trong tất cả các giai đoạn và từng bước công việc của cuộc kiểm toán giúp cho KTV thực hiện các cuộc kiểm toán một cách khoa học hợp lý, trên cơ sở đó đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán.
Có thể nói các văn bản pháp quy về kiểm toán độc lập, trong đó đặc biệt là hệ thống Chuẩn mực kiểm toán đã là những cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc hình thành và phát triển hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta, trong đó có đội ngũ KTV độc lập.
Cho đến nay, hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta đã không ngừng phát triển cả về số lượng các công ty kiểm toán, số lượng các KTV độc lập cũng như quy mô hoạt động của các công ty. Đến tháng 1/2005, ngoài 6 công ty kiểm toán của nước ngoài hoạt động ở Việt Nam còn có hơn 70 công ty kiểm toán của Việt Nam được thành lập trong đó có 44 công ty được phép hành nghề kiểm toán BCTC. Trong 44 công ty được phép hành nghề kiểm toán có 3 công ty nước ngoài, 1 công ty hợp danh mới được thành lập, còn lại là các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
So với đội ngũ KTV Nhà nước vốn xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau, đội ngũ KTV độc lập được đánh giá là chuyên nghiệp hơn và ngày càng hoàn thiện về mặt chuyên môn để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Có thể thấy việc ban hành “Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ KTV hành nghề” cho KTV độc lập là một động thái tích cực của Bộ Tài chính nhằm nâng cao chất lượng của KTV độc lập. Việc thành lập và phát triển nhiều công ty kiểm toán độc lập hiện nay đòi hỏi các công ty phải quan tâm đến chất lượng kiểm toán của mình ngay từ khầu đầu tiên là lựa chọn KTV nếu muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường kiểm toán. Hầu hết các công ty kiểm toán độc lập sẽ dựa vào các tiêu chuẩn sau để tuyển chọn đội ngũ KTV của mình:
Thứ nhất, tiêu chuẩn đầu tiên để lựa chọn một KTV độc lập là phải có khả năng thực hiện công việc đúng đắn, nhất là khả năng đưa ra một báo cáo kiểm toán mà người sử dụng báo cáo BCTC có thể tin tưởng.
Thứ hai, tiêu chuẩn cũng rất quan trọng nữa là KTV có năng lực và hiểu biết về kinh doanh, có thể thực hiện được các công việc theo dự toán đã thoả thuận về thời gian và phí kiểm toán, thu thập được thông tin cần thiết cho cuộc kiểm toán mà không gây gián đoạn không cần thiết tới việc kinh doanh cũng như tới công việc của nhân viên phía công ty được kiểm toán.
Thứ ba, KTV độc lập phải tạo cho doanh nghiệp được kiểm toán một cảm giác hài lòng và dễ chịu khi làm việc. Điều này đòi hỏi KTV phải có kỹ năng tiếp cận và giao tiếp phù hợp để tạo được sự hợp tác từ phía công ty khách hàng.
Với những tiêu chuẩn đó được đặt ra cho KTV độc lập khi được tuyển chọn vào công ty kiểm toán, có thể đánh giá rằng chất lượng đội ngũ KTV độc lập ở Việt Nam đang dần đáp ứng được xu thế hội nhập và yêu cầu của thực tiễn. Hiện nay, Việt Nam có khoảng hơn 1000 KTV chuyên nghiệp được Bộ Tài chính cấp chứng chỉ hành nghề, trong đó đứng đầu là công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) chiếm khoảng 20% số CPA của cả nước. Tuy nhiên, yêu cầu của Việt Nam hiện nay cần khoảng 3000 KTV chuyên nghiệp để có thể kiểm toán hết các doanh nghiệp bắt buộc phải kiểm toán và các doanh nghiệp có nhu cầu kiểm toán. Chính sự thiếu hụt về số lượng KTV độc lập đã buộc các KTV phải làm thêm giờ trong mùa kiểm toán. Điều này đôi khi tạo ra sức ép công việc lớn, làm cho chất lượng kiểm toán không đạt như mong muốn và đặc biệt tần suất di chuyển lao động trong ngành kiểm toán rất cao. Theo ước tính tại Việt Nam, số người gia nhập vào thị trường lao động kiểm toán luôn cân bằng với số người ra khỏi thị trường kiểm toán. Vì vậy đặc điểm nổi bật của lao động trong ngành kiểm toán độc lập là tuổi đời còn rất trẻ, khả năng tiếp thu công nghệ mới cao, khả năng thích ứng nhanh và phù hợp với tính chất của công việc.
Chất lượng KTV độc lập ở Việt Nam được đánh giá là đang trong giai đoạn hội nhập với thế giới. Bằng chứng cho nhận định này là số lượng KTV được cấp chứng chỉ hành nghề của các hiệp hội trên thế giới như ACCA ngày càng tăng và đó trở thành chiến lược quốc tế hoá đội ngũ nhân viên ở các công ty. Theo thống kê cho thấy trong các kỳ thi ACCA vừa qua, 2 KTV có số điểm cao nhất thế giới đều là người Việt Nam đang làm việc cho các công ty kiểm toán nước ngoài. Điều này chứng tỏ tiềm năng của KTV độc lập ở Việt Nam là rất lớn song vấn đề mà chúng ta cần quan tâm là chế độ đãi ngộ để các KTV này phục vụ chính nền kiểm toán trong nước.
Song song với việc chú ý đến chất lượng KTV độc lập thì vấn đề thiếu hụt trầm trọng về KTV độc lập chuyên nghiệp đang gây sức ép cho chính các KTV độc lập đang hoạt động trong ngành kiểm toán. Theo ước tính sơ bộ, hiện nay các KTV độc lập chuyên nghiệp phải đảm nhận khối lượng công việc đáng lẽ ra do 2 người tiến hành. Có thể thấy điều này là hoàn toàn chính xác vì theo Nghị định 105/NĐ-CP Nhà nước đã mở rộng đối tượng buộc phải kiểm toán độc lập nhưng tốc độ tăng trưởng của các KTV chuyên nghiệp không bắt kịp với tốc độ tăng của các loại hình doanh nghiệp thuộc đối tượng kiểm toán này. Vì vậy vấn đề đặt ra cho kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay là phải phát triển nhanh, mạnh đảm bảo về cả chất lượng và số lượng để trước hết là đáp ứng nhu cầu trong nước đồng thời thực hiện hội nhập chủ động với thế giới theo lộ trình đã được cam kết.
3. Thực trạng kiểm toán viên nội bộ
Cho đến nay, kiểm toán nội bộ vẫn còn là một khái niệm không rộng rãi tại Việt Nam. Có thể nhận thấy rằng số lượng các công ty, doanh nghiệp có Uỷ ban kiểm toán nội bộ và do đó có KTV nội bộ là rất hạn chế. Hầu hết chúng ta chỉ thấy khái niệm KTV nội bộ tại Việt Nam trong các Ngân hàng lớn, trong đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một điển hình. Bên cạnh đó, việc Nhà nước quy định các Tổng công ty 90, 91 phải có hệ thống kiểm soát nội bộ đã tạo ra cơ chế buộc các doanh nghiệp này phải có KTV nội bộ dù là không chuyên nghiệp. Nhìn chung đội ngũ KTV nội bộ tại Việt Nam có thể phân thành hai bộ phận như sau:
Thứ nhất, một bộ phận không chuyên nghiệp được chuyển từ các bộ phận khác trong công ty. Những người này hầu hết đều có kiến thức về kế toán, kiểm toán nhưng không chuyên sâu. Công việc của họ thiên về kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy chế tài chính hơn là đưa ra các kiến nghị kịp thời cho Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Do đó ảnh hưởng từ các nhận xét của họ đối với bộ phận kế toán tài chính tại công ty là không đáng kể.
Thứ hai, bộ phận kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp được tuyển dụng theo các yêu cầu khắt khe theo các tiêu chuẩn đặt ra của bản thân công ty và các quy định hiện hành. Thậm chí họ còn là các KTV độc lập chuyên nghiệp chuyển sang làm KTV nội bộ. Chúng ta có thể lấy trường hợp KTV nội bộ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một ví dụ điển hình cho đội ngũ KTV nội bộ chuyên nghiệp. Vì vậy công việc của họ không chỉ dừng ở chỗ kiểm tra, giám sát mà chủ yếu là đưa ra các kiến nghị hợp lý, kịp thời cho Hội đồng quản trị hoặc Ban Giám đốc trong việc tổ chức một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt. Và ảnh hưởng của các nhận xét của KTV nội bộ đối với bộ phận tài chính kế toán là rất lớn. Nếu nhận thấy làm việc không hiệu quả, KTV nội bộ hoàn toàn có thể đề nghị thay đổi toàn bộ hệ thống kế toán, kể cả kế toán trưởng.
Theo xu thế hiện nay, việc các công ty phải tự nâng cao chất lượng hoạt động của mình là một vấn đề tất yếu. Do vậy việc tổ chức hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp ngày càng trở nên rộng rãi. KTV nội bộ tại Việt Nam vì thế mà ngày càng có cơ hội phát triển. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là phải phát triển một đội ngũ KTV nội bộ chuyên nghiệp đảm bảo cho việc hội nhập một cách chủ động.
4. Cơ hội và thách thức đặt ra cho kiểm toán viên Việt Nam hiện nay
Ngày nay, kiểm toán đã và đang có sự thay đổi đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội. Các nhân tố mới xuất hiện có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của kiểm toán, chẳng hạn như sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử trên nhu cầu của xã hội ngày càng đặt lên vai KTV những trọng trách trong việc kiểm tra, rà soát và báo cáo về các vấn đề phi tài chính như sự tuân thủ đối với Luật bảo vệ môi trường, tuân thủ các chuẩn mực quản trị chất lượng quốc tế (ISO)… Chính vì những nhân tố này cùng với sự thay đổi trong bản thân những chức năng truyền thồng của kiểm toán đã đặt ra cho KTV những thách thức mới. Tất nhiên, nó cũng tạo ra những cơ hội mới cho những ai biết chớp thời cơ của sự thay đổi này. Trong đó có những vấn đề nảy sinh mà cơ hội và thách thức luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau.
4.1. Cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập
Khi các ngành phát triển thông qua trao đổi công nghệ và toàn cầu hoá thì bản chất và phạm vi các giao dịch quốc tế kéo theo sự mở rộng các dịch vụ kế toán, kiểm toán. Mặt khác, do tính vượt trội so với các nghề nghiệp khác, kế toán và kiểm toán được đặt lên vị trí hàng đầu trong việc thông qua các nguyên tắc của GATS, GAAP. Trong quá trình tự do hoá và toàn cầu, việc cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán có thể diễn ra trong các quan hệ song phương và đa phương theo các hình thức sau:
Thứ nhất, một tổ chức nghề nghiệp hoặc chuyên gia ở nước này cung cấp dịch vụ cho một khách hàng ở nước khác.
Thứ hai, một công ty mẹ ở một nước khác, thuê kiểm toán ở nước mà công ty con đang hoạt động để kiểm toán công ty con và báo cáo cho công ty mẹ.
Thứ ba, thiết lập mạng chuyên gia mà thành viên là chuyên gia của nhiều nước khác nhau.
Thứ tư, một tổ chức nghề nghiệp ở một nước đến làm việc tạm thời hoặc thường xuyên và lâu dài ở một nước khác.
Thứ năm, tổ chức các dự án dài hạn đòi hỏi phải đi lại thường xuyên giữa khách hàng và KTV đến các nước khác nhau.
Quá trình hội nhập kế toán, kiểm toán tạo nên những cơ hội to lớn cho KTV Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra những thách thức ngặt nghèo đòi hỏi phải có giải pháp hữu hiệu để vượt qua và phát triển. Khi hội nhập, KTV Việt Nam có thể nhanh chóng học tập đựơc kỹ năng và công nghệ tiên tiến trên thế giới để phục vụ trực tiếp cho kiểm toán nhưng cũng phải đứng trước khó khăn rất lớn, chẳng hạn như việc phải tiếp cận và cập nhật nhiều luồng thông tin đa phương hơn, tính cạnh tranh cao hơn.
4.1.1. Cơ hội và thách thức của việc công nhận lẫn nhau
Công nhận lẫn nhau về giấy phép hành nghề và trình độ chuyên gia kiểm toán là một trong những nguyên tắc cơ bản của GATS liên quan đến nghề kiểm toán. Việc công nhận các chứng chỉ và trình độ chuyên gia kiểm toán diễn ra các quan hệ song phương và có thể mở rộng thành các thoả ước công nhận lẫn nhau giữa các nước.
Trong trật tự thương mại toàn cầu, các chuyên gia kiểm toán giỏi của Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để làm việc và có thu nhập cao ở nước ngoài ( chẳng hạn Philippin hiện có gần 30 000 kiểm toán viên độc lập đang làm việc và có thu nhập cao tại Đông Nam á, Châu Âu, Trung Đông và Nam á… ). Đồng thời, các chuyên gia của nước ta cũng phải cạnh tranh gay gắt với chuyên gia kiểm toán khu vực và thế giới không những ở nước ngoài mà ngay cả tại thị trường trong nước. Nền kinh tế toàn cầu hoá đòi hỏi và chỉ chấp nhận các dịch vụ kiểm toán hoàn hảo, có chất lượng cao, được cung cấp bởi các chuyên gia có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, bản lĩnh và có đạo đức nghề nghiệp.
4.1.2. Thách thức về cạnh tranh
Kiểm toán là một loại hoạt động kinh tế. Những lợi ích do kiểm toán mang lại nhiều hơn chi phí phải bỏ ra. Dịch vụ kiểm toán của các công ty kiểm toán là loại hoạt động kinh doanh, hoạt động sinh lời. Khách hàng kiểm toán có quyền nhận được các dịch vụ tốt nhất với giá mua có tính cạnh tranh. Thách thức lớn nhất đối với các ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và kiểm toán nói riêng trong tiến trình hội nhập là xuất phát điểm và trình độ còn thấp, công nghệ, tổ chức, trình độ chuyên môn và quản lý còn non yếu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Với trình độ phát triển như hiện nay, nếu không tự đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh, các công ty kiểm toán sẽ phải đối đầu với khả năng mất thị phần và bị loại khỏi cuộc chơi trong tiến trình hội nhập. Chúng ta có thể thấy rõ hơn điều này thông qua việc phân tích cung - cầu của thị trường kiểm toán tại Việt Nam hiện nay:
Về phía cầu của thị trường: KTV – những người được đào tạo chuyên môn, có kinh nghiệm công tác, am hiểu về tài chính – kế toán và các quy định liên quan là một nghề hiện nay đang có nhu cầu lớn (lượng cầu), do đó đương nhiên được trả giá cao hơn so với các nghề khác vì trong thời điểm hiện nay nó còn tương đối khan hiếm và hữu dụng. Nhất là sau khi Nghị định 105/2004/NĐ-CP và Luật kiểm toán Nhà nước ra đời thì cơ sở pháp lý và sự cần thiết của hoạt động kiểm toán càng được khẳng định hơn. Trong bối cảnh hội nhập và đổi mới kinh tế hiện nay, các chính sách, chế độ tài chính – kế toán nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện, đặt ra yêu cầu cho các cá nhân, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp phải có sự hiểu biết pháp luật nhất định. Yêu cầu này đến lượt nó chuyển thành nhu cầu về lao động có kỹ năng – chuyên môn cao trong lĩnh vực tài chính – kế toán, để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của đơn vị được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Bên cạnh đó, các quy định hiện hành ngày càng hoàn thiện, yêu cầu về sự minh bạch, công khai tài chính và thông tin đòi hỏi các báo cáo tài chính và các thông tin phát hành phải được kiểm toán xác nhận về tính trung thực, điều này tạo nên cầu đối với dịch vụ kiểm toán, do đó cầu về kiểm toán viên đối với các công ty kiểm toán cũng vì thế mà gia tăng. Như vậy, có thể thấy rằng có hai nhóm chính hình thành nên cầu về lao động kiểm toán là các công ty kiểm toán, các doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.
Về phía cung thị trường: Chúng ta thấy rằng, thực hiện công việc có thu nhập cao là mong muốn của nhiều người, tuy nhiên không phải bất cứ ai cũng có thể trở thành KTV theo đúng nghĩa của nó vì chi phí đào tạo một KTV là rất lớn (xét trên cả góc độ thời gian và tiền bạc). Chẳng hạn, theo quy định của Bộ Tài chính, để thành KTV có thể hành nghề một cách độc lập thì tối thiểu phải mất 5 năm công tác với trình độ cử nhân chuyên ngành tài chính – kế toán, ngân hàng; cho nên dù phía cầu thị trường đối với nghề kiểm toán là rất lớn thì phía cung của thị trường lao động này cũng không thể đáp ứng ngay lập tức. Thêm vào đó kiểm toán là một nghề đòi hỏi rất lớn, không chỉ đơn thuần là trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, sự tập trung trong công việc, sự chấp nhận đi công tác xa và khả năng thích ứng nhanh với các điều kiện công tác thay đổi. Những yếu tố này là khó khăn, trở ngại đối với những KTV Việt Nam nói chung vốn được đánh giá là giỏi lý thuyết hơn thực hành
4.1.3. Thách thức về đào tạo
Do đặc thù nghề kiểm toán đòi hỏi người KTV phải thường xuyên, liên tục đào tạo và tự đào tạo, cập nhật kiến thức, thông tin chuyên ngành, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Một khi khoa học, công nghệ càng phát triển, trình độ quản lý càng cao thì các gian lận và sai sót cũng vì thế mà càng trở nên tinh vi, phức tạp, khó phát hiện hơn đòi hỏi người KTV muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn phải được đào tạo, nâng cao trình độ một cách thường xuyên, liên tục. Trong quá trình sử dụng lao động kiểm toán, bản thân các công ty kiểm toán và những người sử dụng khác cũng như các kiểm toán viên phải bỏ ra những chi phí nhất định để đảm bảo chất lượng lao động kiểm toán đáp ứng nhu cầu công việc chuyên môn. Trau dồi kiến thức và hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ là yêu cầu và cũng là nhân tố quyết định đến việc tiếp tục tham gia vào thị trường lao động kiểm toán vốn được đánh giá là có tốc độ chu chuyển lao động vào – ra rất cao này.
Bên cạnh đó, ngoài kỹ năng máy tính hoàn hảo, các chuyên gia kiểm toán phải có kiến thức tổng hợp về kinh doanh, kinh tế và quản lý, kiến thức và kỹ năng thành thạo về chuyên môn. Khả năng diễn đạt và cạnh tranh nghề nghiệp của các chuyên gia kiểm toán sẽ được tăng lên nếu thông thạo tiếng Anh. Việt Nam sẽ có nguy cơ ngày càng tụt hậu trong lĩnh vực này nếu không nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chuẩn mực và có chiến lược nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành kiểm toán cũng như đào tạo CPA.
4.2. Cơ hội và thách thức của quá trình phát triển công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin đã và đang tiếp tục làm thay đổi một cách nhanh chóng tất cả các lĩnh vực kinh doanh. Tất nhiên, nó không chỉ làm thay đổi cách thức kinh doanh của các chủ thể mà còn làm thay đổi cách thức, phương pháp tiếp cận thông tin và sử dụng thông tin của các chủ thể.
Sự thay đổi về công nghệ thông tin tất yếu đặt ra thách thức lớn đối với các KTV. Để có thể vượt qua thách thức đó thì họ phải có khả năng thích ứng và làm chủ được sự thay đổi đó. Đồng thời họ cần phải có khả năng nhận thức rõ được các thách thức thực tại cũng như cơ hội tiềm năng để chớp thời cơ nhằm phát triển nghề nghiệp của mình.
Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sự phát triển của công nghệ phần mềm kế toán có thể ảnh hưởng đáng kể tới lĩnh vực kiểm toán. Một nguồn thông tin quan trọng, trong bất cứ doanh nghiệp nào cũng là thông tin tài chính kế toán - đó là thông tin cơ sở phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Vì thế, hệ thống thông tin kế toán luôn là mối quan tâm hàng đầu của các tổ chức kinh doanh trong việc ứng dụng công nghệ các phần mềm tin học. Hàng loạt công ty đã và đang tiếp tục tin học hóa công tác tài chính – kế toán của mình nhằm cung cấp nhanh, chính xác và kịp thời những thông tin cho các nhà quản lý. Để đáp ứng các nhu cầu này thì các công ty phần mềm tin học nói chung và phần mềm kế toán nói riêng đã phát triển rất nhanh, thậm chí bản thân các tổ chức kinh doanh cũng có thể tự xây dựng cho mình những phần mềm riêng, tuy nhiên cách này chi phí nghiên cứu khá cao. Mặt khác do sự thay đổi mạnh mẽ trong bản thân hệ thống tài chính hoặc do môi trường kinh doanh thay đổi nên khiến cho các phần mềm kế toán cũng phải thay đổi theo. Theo đó có những phần mềm chưa kịp hoàn thiện đã trở nên lạc hậu. Điều này đòi hỏi KTV không chỉ phải hiểu rõ những sự thay đổi trong bản thân hệ thống tài chính – kế toán của khách hàng mà cần phải nhận thức đầy đủ sự thay đổi công nghệ có thể có đối với các khách hàng để có thee tư vấn cũng như thực hiện tốt cuộc kiểm toán của mình.
Để có thể cung cấp đầy đủ và có chất lượng các dịch vụ kiểm toán và tư vấn cho các khách hàng thì KTV cần phải am hiểu về hoạt động kinh doanh của khách hàng để từ đó thấy được những ưu điểm cũng như nhược điểm của phần mềm kế toán đang sử dụng. Các vấn đề chủ yếu mà KTV cần quan tâm bao gồm: hoạt động kinh doanh của khách hàng trong quan hệ với phần mềm kế toán, các yêu cầu đối với phần mềm kế toán, khả năng kiểm toán đối với phần mềm kế toán và các hoạt động kiểm soát nội bộ đối với phần mềm kế toán kế toán đó.
4.2.1. Hoạt động kinh doanh của khách hàng trong quan hệ với phần mềm kế toán
Để lựa chọn một phần mềm kế toán thích hợp thì các đơn vị cần phải các định rõ những đặc thù kinh doanh của tổ chức mình. Đâu là hoạt động chính và cái gì là quan trọng đối với họ. Từ đó có thể xác định rõ các đặc điểm chính của một phần mềm cần lựa chọn. Cần chú ý rằng các vấn đề mà các công ty khác nhau quan tâm là khác nhau. Do đó, hiểu được các yêu cầu kinh doanh của khách hàng có thể giúp cho KTV nhận thức được phần mềm được khách hàng sử dụng có phù hợp hay không. Thông thường có KTV hay tư vấn cho các khách hàng của mình trong việc lựa chọn và thực hiện các phần mềm kế toán.
4.2.2. Các yêu cầu đối với phần mềm kế toán
Một khi phần mềm kế toán được lựa chọn thì nó phải đạt được những yêu cầu nhất định. Các nhà quản lý cần phải xây dựng hàng loạt các tiêu chí cấn đạt tới để sao cho sự ứng dụng của phần mềm phải hữu dụng cho nhiều bên liên quan. Các yếu tố cơ bản cần đạt tới đối với một phần mềm thông thường bao gồm:
- Báo cáo kế toán và báo cáo quản trị.
- Linh hoạt và dễ thích ứng.
- Khả năng kết hợp với các hệ thống khác.
- Dễ sử dụng.
- Yêu cầu về tính kịp thời.
- Truy cập dữ liệu: Dữ liệu có thể được kiểm soát và truy cập theo yêu cầu một cách đơn giản và thuận tiện.
- Khả năng cập nhật và mở rộng.
- Dữ liệu phải trung thực và đáng tin cậy.
- Giảm thiểu chi phí.
4.2.3. Khả năng kiểm toán đối với phần mềm kế toán
KTV cần phải cân nhắc xem phần mềm đó có cho phép KTV kiểm tra tính tin cậy của nó hay không. Cụ thể, KTV có khả năng kiểm tra một nghiệp vụ từ khi phát sinh cho tới khi lập báo cáo tài chính và ngược lại hay không. Phần mềm cho phép KTV đối chiếu các nghiệp vụ từ các Sổ cái, Sổ tổng hợp tới các Sổ chi tiết và các Nhật ký hoặc từ các Nhật ký tới các chứng từ gốc hay không…
4.2.4. Các hoạt động KSNB đối với phần mềm
KTV phải có hiểu biết về các hoạt động KSNB đối với phần mềm, chẳng hạn như việc sử dụng mật khẩu như thế nào. Mật khẩu riêng cho từng người sẽ tốt hơn so với mật khẩu chung. Hơn nữa, mật khẩu phải khó có thể đoán ra. Các hoạt động KSNB đối với dữ liệu đầu và hợp lý có thể phát hiện ra các sai sót của dữ liệu nhập. Ví dụ: có thể đặt ra việc kiểm soát mã số, kiểm soát số thập phân… Các hoạt động KSNB trong khi xử lý cũng có thể được thiết lập nhằm hướng dẫn người sử dụng trong việc ứng dụng đúng trình tự của hoạt động. Hay việc in ra c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35804.doc