Contents
Mở đầu 1
Phần I. Tổng quan về Singapore 2
1.1. Giới thiệu chung 2
1.2. Tình hình phát triển kinh tế 2
1.3. Các ngành kinh tế trọng điểm 3
Phần II. Kinh nghiệm phát triển của Singapore 7
2.1. Phát triển Ngoại thương 7
2.1.1. Kinh nghiệm của Chính phủ 7
2.1.1.1. Bộ máy quản lý thương mại Singapore 7
2.1.1.2. Chính sách ngoại thương của Singapore 8
2.1.2. Kinh nghiệm của doanh nhân 12
2.1.2. 1. Kinh nghiệm “ra biển lớn” của doanh nhân Singapore 12
2.1.2.2. Xác định rõ những rào cản khi mở rộng thị trường 12
2.1.2.3. Thành công và tăng trưởng nhờ trung thành với những gì mình biết 12
2.1.2.4. Kiểm soát sự lớn mạnh 13
2.2. Phát triển tài chính 13
2.2.1. Xây dựng hệ thống ngân hàng, trở thành trung tâm tài chính của châu Á 13
2.2.2. Hệ thống tiết kiệm bắt buộc 16
2.2.3. Bài học từ khủng hoảng tài chính châu Á 16
2.2.4. Mô hình công ty tài chính của nhà nước 17
Phần 3. Bài học cho Việt Nam 19
3.1. Một số điểm tương đồng cơ bản giữa Việt Nam và Singapore 19
3.2. Bài học cho Việt Nam 21
3.2.1. Phát triển tài chính 21
3.2.1.1. Hoạt động ngân hàng 21
3.2.1.2. Chính sách tài chính công 22
3.2.1.3. Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính khu vực 24
3.2.2. Chính sách phát triển ngoại thương. 24
3.2.2.1 Xây dựng chiến lược xuất khẩu hợp lý 24
3.2.2.2 Đầu tư cho xuất khẩu 25
3.2.2.3 Chính sách về tỷ giá hối đoái 27
3.2.2.4.Vấn đề mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại 28
Kết luận 30
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8392 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩm công nghiệp có hàm lượng lao động lớn.
Những đồng ngoại tệ kiếm được từ việc xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng lao động lớn lại phải được tiếp tục sử dụng cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, quy trình công nghệ cao cho những ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ hay thâm dụng vốn (technology intensive hay capital intensive) để những ngành này, trong một tương lai không xa có thể xuất khẩu những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
Khoảng cách thời gian của những nỗ lực đầu tư nói trên thông thường đều gây ra một chu kỳ lạm phát. Những chu kỳ này được khắc phục bằng nỗ lực tiết kiệm của toàn thể cộng đồng dân tộc (cả nhà nước lẫn nhân dân), cải cách thủ tục hành chính, quyết tâm xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất tốt (đường sá, điện nước, trường học, bệnh viện, hệ thống an sinh xã hội). Thời gian đầu tư sẽ được rút ngắn, hệ số ICOR sẽ giảm, hiệu quả của đầu tư sẽ tăng cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ tiến rất nhanh và lạm phát sẽ được kiểm soát.
Bằng những nỗ lực vì lợi ích lâu dài của nền kinh tế đất nước, những biện pháp điều chỉnh ngắn hạn và chiến lược phát triển dài hạn mới có thể được kết hợp một cách đồng bộ và hài hòa để đạt được cả hai mục tiêu mà tất cả chúng ta đều mong muốn, đó là tăng trưởng và ổn định.
* Hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tại hội thảo “Chiến lược cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua khủng hoảng” tổ chức ngày 4/5/2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Reza Ali, Giám đốc phát triển kinh doanh ACCA khu vực Châu Á Thái Bình Dương, chia sẻ bài học kinh nghiệm vượt qua khủng hoảng kinh tế của Singapore.
Theo ông, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) cần chủ động, sáng tạo trong việc tiếp thu khoa học, công nghệ. Quan trọng nhất, SMEs phải có “tầm nhìn quốc tế”, vượt qua giới hạn địa lý để mang sản phẩm và dịch vụ của mình ra trường quốc tế. Để làm được như vậy, các công ty phải linh hoạt chuyển đổi và liên tục đem lại giá trị mới cho khách hàng.
Ông Reza Ali nhắc lại báo cáo “Loại bỏ rào cản để SMEs tiếp cận với sự quốc tế hóa” về ba khó khăn chính mà SMEs phải đối mặt ở thị trường nước ngoài. Một, khả năng xác định cơ hội kinh doanh. Hai, hạn chế tiếp cận thông tin thị trường. Ba, thiếu khả năng vươn đến khách hàng tiềm năng ở nước ngoài.
Đương đầu với những khó khăn trên, chính phủ và doanh nghiệp Singapore đã có các động thái hỗ trợ SMEs về nhiều mặt. Tiêu biểu nhất là việc bảo đảm các SMEs tiếp cận vốn vay thông qua hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp địa phương, chế độ bảo hiểm tiền vay, và chương trình cho vay quy mô nhỏ. Với các SMEs gặp khó khăn trong việc vay vốn ở khu vực thị trường thương mại, chính phủ cũng làm việc với ngân hàng để cấp vốn và bảo toàn nguồn vốn thông qua chương trình cho vay vốn bắc cầu và hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp địa phương. Bên cạnh đó, chính phủ còn có chương trình cho vay quy mô nhỏ để cấp vốn hoạt động cho các doanh nghiệp vi mô.
Hơn thế nữa, SPRING Singapore phối hợp với IE Singapore để xúc tiến phát triển các SMEs của Singapore đặt tại hải ngoại, từ tiếp cận nguồn vốn, phát triển nội lực đến mở rộng kinh doanh. Singapore có kế hoạch huy động 1,5 tỷ USD nguồn vốn phát triển bằng cách cho vay vốn trong 10 năm và chính phủ đóng góp ½ số lượng này.
SPRING Singapore và IE Singapore giúp SMEs tăng cường năng lực thiết yếu cho phát triển dài hạn như phục vụ định hướng khách hàng, sáng kiến lãnh đạo kinh doanh, cải thiện công nghệ và hạ tầng… IE Singapore còn hỗ trợ từng doanh nghiệp với kế hoạch quốc tế hóa bằng mạng lưới văn phòng ở 37 thành phố trên 21 quốc gia.
2.1.2. Kinh nghiệm của doanh nhân
2.1.2. 1. Kinh nghiệm “ra biển lớn” của doanh nhân Singapore
Thương mại luôn là ngành trụ cột thúc đẩy kinh tế phát triển của đảo quốc Sư tử. Tuy thị trường tiêu thụ nội địa nhỏ bé và hầu như không phong phú về tài nguyên thiên nhiên, nhưng Singapore đã thiết lập một nền kinh tế mở từ rất sớm và thịnh vượng từ ngành công nghiệp xuất khẩu của riêng mình.
Khoảng 60% doanh nghiệp Sigapore lấy xuất khẩu làm hoạt động chủ yếu, trong khi tỷ lệ trung bình của thế giới là 30%. Chính vì vậy, các doanh nhân Singapore sớm tích lũy và sở hữu được nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển thị trường toàn cầu.
2.1.2.2. Xác định rõ những rào cản khi mở rộng thị trường
Các thế hệ doanh nhân Singapore luôn truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm quý báu khi phát triển thị trường toàn cầu. Theo họ, các yếu tố như tệ quan liêu, những quy định và ràng buộc khắt khe của các khu vực hay quốc gia, sự thiếu kiến thức tổng thể về thị trường, sự bất ổn về chính trị và xã hội là những rào cản cần được khắc phục ngay từ đầu.
Trong kinh doanh, người Singapore luôn để tâm đến yếu tố chính trị và môi trường xã hội ở nơi họ phát triển hoạt động kinh doanh. Do đó, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của doanh nhân Singapore là những thị trường truyền thống hay thị trường tìm được thông qua các đối tác tin cậy. Một khi các doanh nhân Singapore quyết định hoạt động kinh doanh tại một thị trường nào đó, họ luôn tuân thủ các luật lệ và tập quán thương mại tại thị trường đó.
2.1.2.3. Thành công và tăng trưởng nhờ trung thành với những gì mình biết
Một trong những thành công mà các doanh nhân Singapore học được và vận dụng thành công từ những tập đoàn, công ty lớn trên thế giới là việc phát triển thị trường dựa trên những điều kiện và năng lưc thực tế của mình. Thông thường, các doanh nghiệp Singapore phát triển thị trường mới bằng cách đem những sản phẩm thành công và có lợi thế cạnh tranh nhất của mình đem bán ra nước ngoài. Cách thức này nhằm hạn chế rủi ro so với việc cho ra đời sản phẩm mới, tạo dựng thương hiệu, xây dựng các chính sách phát triển sản phẩm mới vốn rất tốn kém.
Theo một cuộc điều tra về ý kiến các nhà lãnh đạo doanh nghiệp vừa và nhỏ Singapore trong việc phát triển kinh doanh ra toàn cầu, có khoảng 60% doanh nghiệp đã áp dụng chiêu thức này và họ cũng gặt hái được sự thành công trong việc hạn chế những mạo hiểm. Chỉ có 9% doanh nghiệp vừa và nhỏ chấp nhận thử sức với việc cho ra đời sản phẩm mới đem đi bán ở những thị trường mới, trong khi tỷ lệ trung bình của giới là 15%. Ngay cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ, Canada và Úc cũng thích ứng dụng các chiến lược truyền thống là sử dụng sản phẩm đã có thế mạnh khi phát triển ra thị trường tòan cầu và chỉ có khỏang 20% doanh nghiệp vừa và nhỏ các nước này dám thử sức với sản phẩm mới ở thị trường hòan tòan mới.
2.1.2.4. Kiểm soát sự lớn mạnh
Song song với việc đẩy mạnh phát triển thị trường toàn cầu, các doanh nhân Singapore nổi tiếng là những người cẩn trọng trong việc kiểm soát chặt chẽ sự lớn mạnh của doanh nghiệp mình. Theo các chuyên gia phân tích thị trường, hai yếu tố thường được các doanh nhân Singapore kiểm soát chặt chẽ là:
Kiểm soát rủi ro: Có ba rào cản lớn nhất trong việc bước ra thị trường toàn cầu, các doanh nhân Singapore phải luôn đối mặt và đúc kết thành kinh nghiệm là môi trường cạnh tranh, sự khác biệt về các luật lệ và khả năng làm việc của đội ngũ lao động tại địa phương. Yếu tố môi trường cạnh tranh luôn được nhấn mạnh hàng đầu.
Kiểm soát chi phí: Hai yếu tố luôn được lưu tâm là chi phí đầu tư và phí ngoại giao với các quan chức địa phương. Trong đó các doanh nhân Singapore luôn tính toán kỹ các khoản chi phí liên quan đến việc quay vòng vốn lưu động và những khỏan đầu tư dài hạn. Theo họ, kiểm soát tài chính tồi đồng nghĩa với việc kinh doanh kém hiệu quả nên họ thường sử dụng các khoản vay ngắn hạn trong các hoạt động của mình để canh chừng mức độ chi tiêu.
Hiện tại, Singapore có trên 130 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng hơn một nữa nguồn nhân lực quốc gia và đóng góp 43% vào tổng thu nhập quốc nội (GDP) hàng năm. Chính phủ Singapore luôn coi trọng việc thúc đẩy sự phát triển của khối các doanh nghiệp này vì đó là yếu tố cực kỳ quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Sắp tới, Singapore sẽ nỗ lực hỗ trợ để đưa ngày càng nhiều hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ “ra biển rộng”, hòa nhập vào sân chơi quốc tế.
2.2. Phát triển tài chính
2.2.1. Xây dựng hệ thống ngân hàng, trở thành trung tâm tài chính của châu Á
Thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Singapore chọn con đường phát triển khác hẳn với nhiều nước Đông Nam Á láng giềng, bằng cách triển khai chiến lược phát triển tài chính hướng ngoại, với mục tiêu biến Singapore trở thành trung tâm tài chính khu vực.
Trong hơn 30 năm sau, chính phủ Singapore đã triển khai các cải cách và mở cửa thị trường tài chính đồng thời thực thi nhiều biện pháp khuyến khích để thu hút các định chế tài chính nước ngoài vào Singapore. Chiến lược này đã thành công. Số định chế tài chính nước ngoài triển khai vào thị trường Singapore tăng mạnh trong giai đoạn này: từ dưới 100 tổ chức những năm 1970, con số này tăng lên gần 450 những năm 1990. Chính nhờ sức cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài này, các ngân hàng nội địa của Singapore phải nâng cấp, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ và kỹ năng quản lý. Tính đến tháng 3/2001, Singapore đã có 133 ngân hàng thương mại (8 nội địa và 125 nước ngoài), 11 công ty tài chính, 58 ngân hàng đầu tư, 151 công ty bảo hiểm, 88 công ty môi giới bảo hiểm, 63 văn phòng đại diện, 81 công ty môi giới chứng khoán, 168 công ty tư vấn đầu tư và 8 công ty môi giới ngoại hối quốc tế.
Các định chế tài chính của Singapore bao gồm Ủy ban tiền tệ Singapore, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại dịch vụ, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, công ty tài chính…Trong đó Ủy ban tiền tệ Singapore do Bộ tài chính Singapore thành lập từ năm 1971 để giám sát các tổ chức tài chính và thực thi chính sách tiền tệ. Ủy ban tiền tệ Singapore chịu trách nhiệm đối với tất cả các chức năng ngân hàng trung ương.
Hệ thống ngân hàng của Singapore có một điều rất đặc biệt là bao gồm 2 loại hình: ngân hàng thương mại, hay còn gọi là các ngân hàng quốc nội (DBUs_ standing for Domestic Banking Units), và ngân hàng tiền tệ châu Á(ACUs). Chỉ có các ngân hàng thương mại (DBUs) mới được thực hiện các giao dịch bằng đồng đô la Singapore, còn các ngân hàng ngoại lại thực hiện các giao dịch liên quan đến giao dịch tài chính quốc tế với bất cứ đồng tiền nào trừ đồng đô la Singapore. Hai mô hình ngân hàng này được xây dựng vào năm 1970 nhằm tách riêng 2 hoạt động tài chính trong nước và hoạt động tài chính quốc tế.Đây thật sự là một chiến lược rất tài tình của các nhà hoạch định Sing khi nhanh chóng thiết lập các quan hệ tài chính quốc tế, phát triển tài chính quốc tế đồng thời với việc phát triển ngân hàng trong nước, đồng thời bảo hộ nó bởi sự cạch tranh của các tổ chức tài chính nước ngoài vốn rất khôn ngoan.
Không chỉ khác biết về chức năng, các chính sách mà chính phủ Sing áp dụng cho 2 loại hình này có sự khác biệt. DBUs giải quyết các công việc chính liên quan đến các khoản tiển gửi và các khoản cho vay bằng đồng nội tệ, chịu sự quản lí chặt chẽ, đồng thời chịu mức dự trữ bắt buốc và thuế cao hơn các ACU(3% of liability of cash balance with MAS , 18% of liability in liquid asset). Trong khi đó thì các ngân hàng ACUs được hưởng nhiều ưu đãi hơn. Các ngân hàng ACUs được cho phép giao dịch với thị trường đô la châu Á, nơi mà bản chất là thị trường tiền tệ và vốn quốc tế với rất nhiều ngoại tệ khác nhau. Chính sách thuận lợi của Singapore cho các ACUs là động lực để ngành tài chính quốc tế tại nước này phát triển với tốc độ vượt bậc.
Như vậy, Singapore là nền kinh tế đầu tiên trong khu vực cho phép các ngân hàng nước ngoài điều hành các đơn vị tại nước mình (ACUs), và sự thành công của thị trường tiền tệ châu Á đã đưa Sing trở thành một quốc gia giàu có và là trung tâm tài chính thế giới.
So với các nước trong khối ASEAN thì Singapore có thị trường tài chính phát triển nhất, năm 1975 ở Singapore lãi suất tiền vay và tiền gửi trong nước đã được tự do hóa. Năm 1978, việc kiểm soát hối đoái cũng đã được nới lỏng, đem lại việc tự do hóa tài chính đầy đủ…. nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng Singapore huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ đã huy động được, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Ông Hoàng Đạo Hải, Giám đốc Indochina Infracstructure Management Vietnam, phát biểu trong hội thảo về chương trình phát triển thị trường tài chính trên địa bàn Tp.HCM, liệt kê những đột phá mà đảo quốc này đã làm được, như ưu đãi thuế cho trái phiếu; luật bảo mật thông tin ngân hàng; luật ủy thác cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn người thừa hưởng tài sản sau khi họ qua đời (nhằm thu hút khách hàng Trung Đông); người nước ngoài có thể định cư mãi mãi ở Singapore miễn là họ có tài sản 13 triệu Đô la Mỹ, với ít nhất 3,1 triệu Đô la nằm tại một định chế tài chính ở đây.
Ở những lĩnh vực cụ thể là những quy định hết sức thông thoáng: nới lỏng quy định liên quan đến các quỹ mạo hiểm (hedge funds), cho phép họ có thể thành lập trong vòng một tuần; bỏ các chướng ngại vật đối với sự chuyển dịch vốn; chuyển từ bảo hộ ngành ngân hàng trong nước sang tập trung vào việc gia tăng mực độ minh bạch. Kiểm soát rủi ro toàn bộ hệ thống tài chính được xem trọng hơn bảo vệ từng tổ chức, doanh nghiệp riêng lẻ.
Bên cạnh đó, Singapore khuyến khích sự hợp nhất các ngân hàng trong nước và chỉ có một cơ quan quản lý nhà nước duy nhất giám sát toàn bộ lĩnh vực tài chính (Monetary Authority).
2.2.2. Hệ thống tiết kiệm bắt buộc
Cơ quan phát triển nhà ở của Singapore (HDB) đã thực hiện chương trình phát triển nhà ở mang tên "Nhà ở cho dân" (triển khai từ 1964) song song với 1 quá trình "Thắt lưng buộc bụng" mang tính toàn dân đó là chính sách gửi tiền tiết kiệm bắt buộc vào quỹ dự phòng trung ương (CPF).
CPF được khởi đầu từ năm 1955 có mục đích tạo nguồn vốn cho người lao động khi nghỉ hưu và việc tiết kiệm là tự nguyện. Từ năm 1965 trở đi, Chính phủ thực hiện chính sách tiết kiệm bắt buộc, mọi người lao động có nhu cầu thu nhập bằng lương đều phải gửi tiết kiệm vào quỹ khoảng 20-25% thu nhập của mình. Trên thực tế, tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm đã tăng dần từ 10% năm 1955 lên tới 50% vào năm 1984, tiền gửi được Nhà nước bảo hiểm. Số tiền gửi được lĩnh khi rút ra 1 phần. Chính sách tiết kiệm bắt buộc đã góp phần làm giàu nền kinh tế Singapore.
2.2.3. Bài học từ khủng hoảng tài chính châu Á
Đầu tiên, nền tảng vững chắc đã hỗ trợ cho Singapore vượt qua "cơn bão" đổ bộ lên khu vực châu Á. Với tỉ lệ tiết kiệm cao, nguồn vốn dự trữ lớn, lưu lượng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cao, tỉ lệ nợ gần như không tồn tại, Singapore đã có khả năng "chịu đòn" cũng như đề ra các biện pháp kịp thời và quyết đoán để chống lại những ảnh hưởng tiêu cực đến từ đợt khủng hoảng.
Thứ hai, khả năng linh hoạt trong việc điều khiển tỉ lệ hối đoái và tiền lương đã giúp Singapore hồi phục tốt hơn phần lớn các nước trong khu vực. Nỗ lực sự dụng nhiều chiến lược cùng một lúc (kết hợp với chính sách tài chính và tiền tệ), Singapore không những tránh được tình huống xấu nhất của khủng hoảng, mà còn "rải" gánh nặng cải biến lên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Thứ ba, các nhà chức trách Singapore từ lâu đã được người ta biết tới về phẩm chất kiên định và có uy tín cao. Chính vì thế, những thay đổi trong kế hoạch ngắn hạn không làm thị trường nghi ngờ việc "chung thủy" của Singapore với những mục tiêu dài hạn.
Cuối cùng, Singapore đã cho thấy thành công trong việc tự do hóa tài chính, và chính điều này đã giữ vững vị trí trung tâm của Singapore trong ngành tài chính, ngay cả vào những giờ phút khó khăn. Đây cũng là thế mạnh của nền kinh tế Singapore, đưa đất nước này vượt qua mọi đợt tấn công tiền tệ.
2.2.4. Mô hình công ty tài chính của nhà nước
Tập đoàn Temasek Holdings Limited được thành lập từ năm 1974 ở Singapore. Về hoàn cảnh ra đời và cách thức hoạt động của công ty nhà nước chuyên kinh doanh vốn nhà nước này, Simon Claude Israel - quốc tịch New Zealand, thường trú tại Singapore, giám đốc điều hành kiêm thành viên hội đồng quản trị tập đoàn này - trong chuyến sang Mỹ để lobby cho các dự án đầu tư của tập đoàn này đã giới thiệu trước Quốc hội Mỹ hôm 5/3 vừa qua như sau:
“... Trong những năm ngay sau tuyên cáo độc lập vào năm 1965, Chính phủ Singapore đã liên doanh đầu tư vào một số xí nghiệp mới trong nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm. Là một nước nhỏ mới độc lập, lại sống trên một hòn đảo nhỏ không có tài nguyên thiên nhiên, Singapore không có chọn lựa nào khác ngoài việc đảm bảo rằng những vụ đầu tư đó, về mặt kinh doanh, sẽ tồn tại được và bền vững.”
Yêu cầu này được giao cho tiến sĩ Goh Keng Swee - phó thủ tướng, “kiến trúc sư” của công cuộc phát triển kinh tế và kỹ nghệ của Singapore. Nỗ lực tập trung vào các vụ đầu tư “ăn chắc mặc bền” của ông còn được tăng cường vào năm 1974 khi Chính phủ Singapore thành lập Tập đoàn Temasek, giao tập đoàn này trách nhiệm làm chủ sở hữu và quản lý khoảng 30 vụ đầu tư khởi nghiệp. Việc thành lập Temasek nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai trò điều hòa và đề ra chính sách của chính phủ khỏi vai trò kinh doanh...”.
Để thuyết phục Quốc hội Mỹ, Simon Claude Israel nhấn mạnh: Temasek lúc đó và ngày nay, sau 36 năm thành lập, luôn được quản lý bởi “kỷ luật thương trường” với mục tiêu “ăn chắc mặc bền” (tạm dịch: commercially viable and sustainable).
Và chìa khóa thành công của Temasek, hiện đang làm chủ một tích sản lên đến 110 tỉ USD, chính là do có sự lãnh đạo tốt với sự tiếp sức của một ban cố vấn quốc tế tên tuổi, trong đó có một phó chủ tịch của tập đoàn dịch vụ tài chính Merrill Lynch và một chủ tịch sáng lập của một tập đoàn tài chính Mỹ.
Việc thành lập Temasek nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai trò điều hòa và đề ra chính sách của chính phủ khỏi vai trò kinh doanh...”. Nguồn vốn của Temasek được hình thành chủ yếu từ khoản tiết kiệm bắt buộc của người dân cùng với nguồn ngân sách nhà nước thu được từ thuế. Với số vốn đó, cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia kinh tế hàng đầu quốc gia và thế giới, Temasek tập trung đầu tư và kinh doanh vào một số lĩnh vực nhất định nhằm thu lại lợi nhuận cho quốc gia. Lợi nhuận đó sẽ được chia đều cho những người góp vốn, chính là những người dân đã phải trích ra một phần thu nhập của họ. Chính bởi lý do này mà ở Singapore, khoản trợ cấp khi về hưu của người dân là rất lớn. Khác với ở Việt Nam, với số lương hưu như vậy, người dân hoàn toàn có thể sống thoải mái với chính đồng lương của mình.
Phần 3. Bài học cho Việt Nam
3.1. Một số điểm tương đồng cơ bản giữa Việt Nam và Singapore
Cả hai quốc gia trên đều phải chịu một quãng thời gian đô hộ tương đối dài của các nước thực dân và trải qua rất nhiều những cuộc chiến trong suốt giai đoạn thế chiến thứ hai. Với Singapore, thực dân Anh và sau đó là phát xít Nhật đã làm chủ đất nước này về kinh tế, chính trị, xã hội cho tới tận năm 1959 mới giành được độc lập. Còn ở Việt Nam, đó là quãng thời gian nắm chính quyền của thực dân Pháp, phát xít Nhật rồi sau đó là cuộc chiến tranh 2 miền Nam Bắc mãi cho tới năm 1975 mới có được sự thống nhất chung.
Chế độ chính trị do một đảng cầm quyền: Cả Việt Nam và Singapore hiện nay gần như đều đang tồn tại một hình thái chính trị chung đó là do một đảng lãnh đạo. Kể từ sau khi giành độc lập dân tộc năm 1975, dù đã có rất nhiều những ý kiến trái chiều, Việt Nam vẫn trung thành với chế độ một đảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Còn đối với Singapore, tuy có tồn tại chế độ đa đảng nhưng ngay từ những ngày đầu sau khi giải phóng dân tộc, Đảng Nhân dân Hành động (People’s Action Party – PAP) đã nắm toàn bộ chính quyền với 3 đời thủ tướng liên tiếp.
Tiềm năng phát triển kinh tế biển: Việt Nam và Singapore là 2 trong số các quốc gia có nhiều lợi thế về kinh tế biển nhất trên thế giới. Cảng biển tại Singapore là một cảng biển vô cùng nhộn nhịp (vượt xa so với nhiều cảng biển còn lại trên thế giới). Chính vì lợi thế đó, quốc gia này đã thu về không ít lợi nhuận từ nguồn tài nguyên đặc biệt về địa hình này. Về phía Việt Nam, Hoàng Sa và Trường Sa cũng là 2 vùng biển có tiềm năng kinh tế không ở nhỏ. Nếu biết bảo vệ quyền lãnh thổ quốc gia kết hợp với việc phát triển một cách hợp lý khu vực đặc quyền kinh tế biển của mình, Việt Nam hoàn toàn có thể coi đây là một nguồn quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế và ngoại thương của quốc gia.
Vị trí địa lý cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam và Singapore chắc chắn sẽ có những chính sách tương đồng trong việc phát triển chiến lược ngoại thương trong khu vực. Thật vậy, hai quốc gia trên đều đã rất tích cực tham gia vào các vấn đề chung của ASEAN, là những thành viên vô cùng năng động trong việc đóng góp vào thành công của khối thương mại tự do AFTA.
Đi theo nền kinh tế thị trường: Cả Việt Nam và Singapore đều nhìn ra những điểm mạnh mà nền kinh tế thị trường đem lại. Đó là lợi thế về ngoại thương, phát triển năng lực sản xuất bắt nguồn từ gia tăng cạnh tranh, tự do chu chuyển vốn và lao động, kích thích đầu tư nước ngoài…
Cùng tham gia nhiều tổ chức kinh tế: Cả Việt Nam và Singapore đều tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Đây là những tổ chức kinh tế quan trọng của khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh quan hệ kinh tế quốc tế của cả Việt Nam lẫn Singapore.
Công ty kinh doanh vốn nhà nước: Việt Nam và Singapore là một trong số ít quốc gia trên thế giới đang duy trì công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC của Việt Nam, được thành lập năm 2005, còn tập đoàn Temasek của Singapore thành lập năm 1974). Về cơ bản, hai tập đoàn trên đều sử dụng hình thức kinh doanh là sử dụng vốn nhà nước để đầu tư vào các hoạt động kinh tế, xã hội nhằm thu lại lợi nhuận cho quốc gia. Với 1 nguồn vốn tương đối lớn thu về từ thuế và các khoản tiết kiệm quốc dân, các công ty này sẽ chính là điểm tựa vững chắc cho việc nâng cao mức sống người dân trong dài hạn ở cả 2 quốc gia
Gắn sự phát triển quốc gia vào chính sách thương mại: cả Việt Nam và Singapore đều là các quốc gia có tỷ trọng thương mại trong tổng sản phẩm quốc nội tương đối lớn. GDP của hai nước đều phụ thuộc khá nhiều vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch thương mại Việt Nam năm 2009 lớn hơn 1,5 lần, trong khi con số đó ở Singapore lên tới 3,63 lần.
Tỷ lệ đầu tư cao: Ở Việt Nam, tỷ lệ đầu tư năm 2009 ước tính khoảng 35 tỉ USD (chiếm xấp xỉ 40% tổng thu nhập quốc dân). Còn Singapore vẫn luôn là mảnh đất thu hút đầu tư rất lớn, đặc biệt là đầu tư từ nước ngoài. Gói kích cầu đầu tư gần 20 tỉ USD vừa rồi chính là minh chứng rõ ràng cho luận điểm trên
Tỷ lệ tiết kiệm cao. Singapore có thể nói là quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm cao nhất thế giới. Tỷ lệ tiết kiệm bắt buộc ở đảo quốc sư tử này lên tới 20-25% thu nhập mỗi người dân. Từ năm 1955 tới 1984, tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm đã tăng từ 10% lên đến 50%, tiền gửi được Nhà Nước bảo hiểm. Còn người dân Việt Nam từ lâu đời đã có ý thức tiết kiệm nhằm mục tiêu tiêu dùng trong tương lai.
3.2. Bài học cho Việt Nam
3.2.1. Phát triển tài chính
3.2.1.1. Hoạt động ngân hàng
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối vốn, trước hết để thực hiện thành công công nghiệp hoá- hiện đại hóa, Chính phủ nên sớm có một khung pháp lý lành mạnh cho hệ thống tài chính, một khuôn khổ pháp lý và cơ chế giám sát hữu hiệu hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng nội địa như Singapore. Đồng thời, việc sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô cũng như những hạn chế mục tiêu thời kỳ đầu là cần thiết để kìm chế sự bùng nổ cho vay, cho vay quá nhiều mà ngân hàng khó kiểm soát được chất lượng tín dụng, hoặc đẩy mạnh tín dụng phát triển kinh tế theo “kiểu bong bóng” là nguy cơ tổn thương của hệ thống ngân hàng.
Xây dựng hệ thống ngân hàng có tiềm lực vững mạnh, nhanh chóng đa dạng các hình thức huy động vốn, cùng với đẩy mạnh phát triển thị trường tài chính nhằm khai thông vốn trong nước, đồng thời thu hút tư bản nước ngoài để đáp ứng vốn và kỹ thuật cho quá trình công nghiệp hóa. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có biện pháp mở cửa đồng bộ cắt giảm thuế quan, chính sách ưu đãi tín dụng… để nâng cao chất lượng tín dụng.
Khi định chế tài chính trong nước còn yếu kém, nhất là khi hệ thống ngân hàng chưa đủ khả năng phân phối tín dụng một cách hữu hiệu, việc tự do hóa thị trường vốn ngắn hạn là rất nguy hiểm. Dòng vốn tư bản ngắn hạn ồ ạt gây hiện tượng “thừa vốn”, dẫn đến tình trạng lãng phí, hâm nóng thị trường bất động sản, và sự đảo ngược dòng vốn này gây ra bất ổn trong thị trường tài chính.
Cần có sự can thiệp kịp thời của Chính phủ đối với hệ thống ngân hàng, mở rộng tín dụng và thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất đối với những mặt hàng, ngành công nghiệp ưu tiên hướng đến xuất khẩu, nhằm tạo động lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vấn đề hỗ trợ lãi suất cho tín dụng cần phải có chương trình hành động bước đi thích hợp với những chỉ tiêu cụ thể, với kinh nghiệm của các nước cần phải có chế độ kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng để tránh nguy cơ thất thoát vốn. Tuy nhiên nếu sự can thiệp quá mức mang tính áp đặt của Chính phủ vào hoạt động ngân hàng sẽ trở nên bị gò bó, thiếu tính linh động, gây khó khăn cho ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Kết hợp đồng bộ, việc sửa đổi hệ thống pháp luật điều chỉnh hàng loạt về chính sách môi trường kinh tế, cải c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_so_7_kinh_nghiem_singapore_bai_hoc_vietnam_7492.doc