Đề tài Kinh nghiệm phát triển du lịch của Thái Lan và Singapore

Lời mở đầu 2

Nội dung 3

1. Tìm hiểu hoạt động du lịch 3

2. Khái quát về đất nước Thái Lan và Singapore 4

2.1 Đất nước Thái Lan 4

2.1.1 Vị trí, địa lý, thủ đô 4

2.1.2 Khí hậu, ngôn ngữ, tôn giáo 4

2.2 Đất nước Singapore 6

3. Thực trạng phát triển du lịch ở Thái Lan và Singapore 7

3.1 Vì sao Thái Lan hấp dẫn du khách 7

3.1.1 Đầu tiên họ dụ khách vào trước 9

3.1.2 Tiếp theo đó là họ “móc túi” sau 10

3.2 Vì sao Singapore hấp dẫn du khách 11

3.2.1 Một thiên nhiên không hề ưu đãi 12

3.2.2 Một xã hội phồn vinh 12

3.2.3 Một thị trường du lịch 12

3.2.4 Một trung tam mua sắm quốc tế 13

3.2.5 Một trung tâm giáo dục đẳng cấp cao 13

3.2.6 Một trung tâm điều trị có uy tín 14

4. Đất nước Việt Nam và thực trạng phát triển du lịch của nước ta 14

4.1 Đất nước Việt Nam 14

4.2 Thực trạng du lịch Việt Nam hiện nay 17

4.3 Thấy người mà ngẫm đến ta 19

4.3.1 Một vài ấn tượng 19

4.3.2 Nghĩ về du lịch Việt Nam 20

4.4 Bài học kinh nghiệm và giải pháp để phát triển du lịch 23

4.4.1 Bài học kinh nghiệm 23

4.4.2 Giải pháp để phát triển du lịch 25

Kết luận 28

Tài liệu tham khảo 30

 

 

doc30 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2548 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm phát triển du lịch của Thái Lan và Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
linh động trong kinh doanh, biết xây dựng nhiều chương trình, màn biểu diễn phong phú, hấp dẫn. Như tại vườn thú Safari, chủ nhân của điểm du lịch này cho du khách thưởng thức những động vật thả hoang trong khu vườn 600ha. Sư tử, hổ, gấu, hươu, nai thả tự do không nhốt chuồng. Thú nuôi phong phú. Thấy bầy hươu cao cổ mấy chục con, mà thương cho TPHCM mới gom góp chắt chiu mua cho Thảo Cầm viên Sài Gòn được hai con hươu cao cổ "thiếu nhi" cuối tháng vừa qua. Xem thú xong, du khách được sang một khu riêng biệt để xem biểu diễn cá heo và nhiều show khác tuỳ thích. 3.1.2. Tiếp theo đó là họ “móc túi” sau: Có tiền mới di du lịch. Đi du lịch là để xài tiền. Nắm chắc được yếu tố này nên cỗ máy du lịch Thái Lan vận hành theo kiểu thu hút du khách vào càng nhiều càng tốt, sau đó mới "móc túi" một cách hợp lý nhất. Mấy ngày lang thang ở Thái Lan, em thấy người Thái rất hiền, buôn bán đàng hoàng, thân thiện. Em không thấy cảnh chèo kéo bán hàng, làm tội làm tình du khách như ở VN. Những cô, những cậu săn ảnh du khách, sau đó bán lại, mua hay không mua cũng được. Nhưng nhiều người sẵn sàng trả tiền cho một tấm ảnh kỷ niệm của mình. Nhẩm tính nếu với tỉ lệ 3/10 người chịu mua (150 baht/tấm), thì mỗi ngày tại điểm du lịch Hoàng cung, tiền bán ảnh thu được 600.000 baht (khoảng 240 triệu đồng), chưa kể các điểm khác như sân bay, vườn bướm... Mua lại tấm ảnh mình bị chụp là một chuyện, chuyện khác là tự mình xin được chụp. Như sau mỗi show voi biểu diễn ở Vườn hoa Nong Nooch thuộc thành phố Pattaya, du khách không khỏi bị quyến rũ bởi những chú voi. Và ai xin đứng cạnh voi, lên ngồi trên vòi voi để chụp ảnh. Giá trả cho voi là 50 baht (khách tự chụp). Chưa kể là cưỡi voi, bỏ ra 200 baht. Ngoài vô vàn cách lấy tiền đáng yêu trên, ngành du lịch Thái Lan còn kết hợp với các cơ sở sản xuất để "móc túi" khách vô cùng nghệ thuật. Điển hình như du khách sẽ được đi tham quan viện nghiên cứu nọc độc rắn ở Bangkok. Sau khi xem màn biểu diễn "hôn" rắn rùng rợn của nghệ nhân Thái, du khách sẽ được đưa vào phòng nghe thuyết trình về các dược liệu sản xuất từ rắn. Khách nước nào sẽ có người thuyết trình bằng tiếng nước đó, dược sĩ mà giới thiệu sản phẩm cực kỳ chuyên nghiệp. Nghe xong, khó lòng từ chối mua những lọ thuốc quý hiếm mặc dù nó rất đắt tiền (trung bình 100USD/lọ 80 viên). Có một đoàn khoảng 20 người, mua tổng cộng khoảng 2.500USD. Chỉ mới một đoàn thôi mà bán được như vậy thì viện này khỏi cần phải đi tiếp thị và mở đại lý ở đâu cho xa. Rồi tại cơ sở sản xuất da cũng ở Bangkok, điểm mà các Cty du lịch Thái Lan thường đưa du khách tới. Sản phẩm được sản xuất từ các loại da thú, rất đắt tiền, một túi xách phụ nữ giá khoảng 200 - 300USD, một chiếc móc khoá nhỏ xíu cũng 60.000 đồng. Bà Siwapom, quản lý bán hàng tại đây cho biết, mỗi ngày có chừng 100 đoàn (khoảng 3.000) đến tham quan cơ sở sản xuất. Chỉ cần bán móc khóa thôi cơ sở này cũng có doanh thu hàng trăm triệu đồng mỗi ngày. Một trong những nơi du khách đổ tiền ra khá nhiều là Vườn bướm, nơi bán các loại dược phẩm như cao hổ cốt, sữa ong chúa, mật ong ở vùng Tam giác vàng, tổ yến ở đảo Phu Ket. Sau khi xem bướm, xem hoa, sự lãng mạn đang còn phơi phới trong tâm hồn, du khách sẽ được nghe giới thiệu về các loại thuốc giúp sống lâu, giữ tuổi xuân, đàn ông thì cường tráng, đàn bà thì trẻ đẹp. Mỗi một gói "trẻ đẹp" đó, có giá 50 - 150USD... Nhưng người ta vẫn mua ầm ầm. Anh Quốc Hiền, người Thái gốc Việt bán thuốc ở đây cho biết mỗi ngày có 60 - 90 đoàn đến tham quan, trong đó có chừng 6 đoàn VN. Du khách các nước đều rất thích mua cao hổ cốt và tổ yến ở đây vì rất có chất lượng và uy tín. Quan sát các điểm du lịch kiêm bán hàng, tôi chợt hiểu ngành du lịch và ngành thương mại của Thái Lan kết hợp với nhau rất nhuyễn, một bên chuyền bóng, một bên làm bàn rất đẹp. 3.2. Vì sao Singapore hấp dẫn du khách: Quốc đảo nhỏ bé Singapore chỉ có vẻn vẹn 682,7 km2 và với dân số chỉ có hơn 4,4 triệu người. Vậy mà năm 2005 vừa qua đã đón tiếp tới 8,3 triệu du khách. Nhiều người trong số này đã đến nhiều lần. Khách Việt Nam đi theo tuyến hàng không giá rẻ ( lấy vé sớm chỉ có 99 USD vé khứ hồi !) hôm nào cũng kín máy bay. Đội quân dịch vụ du lịch của nước này chỉ có 150 000 người nhưng đã đem về cho đất nước 9,6 tỷ USD ( 2005 ). 3.2.1. Một thiên nhiên không ưu đãi Tôi đã đến đây nhiều lần và lúc nào cũng nặng lòng suy nghĩ thiên nhiên đâu có ban tặng cho Singapore nhiều ưu đãi như nước ta, nhưng vì sao lại hấp dẫn được nhiều du khách đến thê? Riêng chuyện không đủ nước ngọt mà phải mua thường xuyên từ Malaysia đã thấy khó khăn biết ngần nào. Một đất nước mới giành được độc lập từ năm 1965 và đâu có một nền văn hóa gì riêng biệt. Cả nước có 76% là người Hoa, 13,7% là người Mã Lai , 8,4% là người Ấn Độ, và 1,8% là các dân tộc khác. Nói với nhau phải bằng...tiếng Anh (!), học hành từ Tiểu học đến Đại học cũng đều bằng tiếng Anh. Một bờ biển dài tới 193 km nhưng làm gì có bãi tắm ( trừ một bãi tắm nhân tạo ở đảo du lịch Sentosa ). Cả nước không có một ngọn núi nhỏ nào, nơi cao nhất (Bukit Timah) chỉ cao hơn mặt biển có 166m (!). Không có nông nghiệp nên lương thực, thực phẩm đều phải nhập hết từ nước ngoài. Chi phí nhập khẩu hàng năm cho lĩnh vực này lên đến trên 5,7 tỷ USD, cho dầu và mỡ là 529 triệu USD, cho rượu và thuốc lá là 1,85 tỷ USD (!). Chi phí về nhập khẩu các nguồn năng lượng năm 2004 lên đến 41,45 tỷ USD ... 3.2.2. Một xã hội phồn vinh Bình quân thu nhập đầu người ở Singapore cao tới 29700 USD / năm , hơn cả Nhật Bản ( 29400USD / năm ), mặc dầu mật độ dân số đứng hàng thứ hai trên thế giới ( chỉ sau có Monaco!). Tuổi thọ của người dân Singapore được coi là cao thứ nhì thế giới ( bình quân 81,6 tuổi ), chỉ sau có Andora ( 83,5 tuổi) , cao hơn cả Nhật Bản ( 81,2 tuổi ). Kim ngạch xuất khẩu từ Singapore năm 2005 cao tới 212,4 tỷ USD trong khi kim ngạch nhập khẩu chỉ là 187,5 USD (!). Tổng thu nhập quốc nội năm 2005 lên tới 131,3 tỷ USD. Singapore chỉ là một dấu chấm nhỏ xíu trên bản đồ thế giới nhưng là một thành phố hiện đại. Nhà cửa phần lớn được xây dựng theo quy hoạch từ sau ngày độc lập và gồm nhiều nhà cao tầng rất đẹp. Đường phố đầy những hàng cây xanh nhập nội với tán lá xòe rộng như được uốn từ nhỏ. Dòng sông Singapore thơ mộng và những bờ biển được trang điểm bằng các hàng ăn hải sản chạy dài. Không thấy ai nghèo khổ. Tất cả các khuôn mặt đều rạng rỡ và thân thiện. Ai cũng tự giác chấp hành pháp luật nên không có bất kỳ ai vứt ra đường dù một chiếc giấy gói kẹo hay một mẩu thuốc lá. 3.2.3. Một thị trường du lịch Du khách cảm thấy ở Singapore một tuần vẫn không thiếu chỗ tham quan. Đó là đảo du lịch Sentosa với các khu nghỉ ngơi đẳng cấp cao (Sijori Resort, The Sentosa Resort & Spa, Shangri-La’s, Rasa Sentosa Resort...Trên đảo có biết bao nhiêu chỗ để chơi và để xem. Đó là Thủy cung (Underwater World), là Tháp Carlsberg (cao 110m), là Khu âm nhạc nước ( Musical Fountain ), là Khu trượt xe cảm giác mạnh (Sentosa Luge), là Sân gôn (Sentosa Golf Club), là Khu biểu diễn Cá heo (Dolphin Lagoon), là Vườn Bướm và Côn trùng, là Triển lãm Hình ảnh Singapore, là Tháp Sư tử biển mà du khách có thể leo lên bên trong đến tận miệng sư tử...Năm 2004 riêng hòn đảo nhỏ bé này đã đón tiếp tới 5 triệu lượt du khách. Làm gì cũng phải chi tiền: đi cáp, đi thăm Thủy cung, nghe nhạc nước, trượt xe... Riêng khách Việt Nam đông nghịt trên đảo và thi nhau móc túi để mua vé (!). Ngoài hòn đảo Sentosa còn biết bao chỗ thú vị khác để tham quan: Công viên chim Jurong ( 20,2 ha với 9000 chim thuộc 600 loài khác nhau), Vườn Thú (với 300 loài khác nhau, trong đó có tới 30 loài khỉ -vượn), Bảo tàng Mỹ thuật Singapore (Hiện đang có cả các phòng bày tranh của Cao Hành Kiện, tranh của các họa sĩ Việt Nam), Phố chợ Trung Hoa, Trung tâm Di sản Mã Lai... Nhìn chung có thể thấy rõ sự đầu tư hoành tráng nhằm thu hút du khách trên khắp thế giới. Du lịch đích thực trở thành một ngành Công nghiệp không khói (!) 3.2.4. Một trung tâm mua sắm quốc tế Tại Singapore tất cả các nhà cao tầng đều có vài tầng dưới là Siêu thị. Chỗ nào cũng gặp Siêu thị. Các khách sạn cũng có Siêu thị xen vào. Bên dưới các Khu Hội thảo quốc tế hết sức khang trang cũng gắn liền với Siêu thị. Có cả các chợ nhỏ bán hàng giá hạ. Có thể nói không sai là đến Singapore có thể mua hàng hiệu của toàn thế giới, có thể mua thượng vàng hạ cám, từ hàng rẻ nhất đến hàng đắt giá nhất. Có cả một Thư thành gồm vài chục hiệu sách bán phong phú sách và đĩa nhạc, đĩa hình của rất nhiều nước. Người bán hàng chỗ nào cũng vồn vã, lịch sự. Khắp nơi có chỗ đổi tiền cho nên dù không đâu nhận bán bằng ngoại tệ nhưng du khách không thấy có gì trở ngại. Du khách đi lại rất thuận tiện nhờ hệ thống tàu điện ngầm hiện đại và an toàn. Xe buýt, xe con và xe taxi thay thế hoàn toàn cho các phương tiện cá nhân như xe maý, xe đạp. Xe đi với tốc độ rất nhanh mà không thấy có tai nạn giao thông nhờ tính tự giác cao và hệ thống đèn đường hiện số khắp mọi nơi. 3.2.5. Một trung tâm giáo dục đẳng cấp cao Học sinh Singapore học tiếng Anh từ bậc tiểu học, sách giáo khoa các cấp đều dựa vào giáo trình của các nước tiên tiến cho nên có thể nói kiến thức được giảng dậy là khá cập nhật . Hệ thống giáo dục phổ thông ở Singapore bao gồm 172 trường Tiểu học, 158 trường Trung học cơ sở, 16 trường Trung học Phổ thông. Vì học toàn bằng tiếng Anh cho nên nhiều gia đình ngoại quốc gửi con em đến học ngay từ bậc phổ thông. Đại học Quốc gia Singapore (NUS) là một Đại học đẳng cấp cao với 13 Khoa khác nhau, hiện đang có mặt 22 000 sinh viên và tới 8000 nghiên cứu sinh (trong đó có khá nhiều sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam. Đại học Bách khoa Nanyang (NTU) là Đại học danh tiếng nhất trong số 5 Đại học Bách khoa ở Singapore. Hiện có 5 377 sinh viên và 2 180 nghiên cứu sinh đang theo học ở NTU. Tổng số sinh viên đang theo học tại các trường Đại học ở Singapore hiện là 97 676 sinh viên (45 người dân 1 sinh viên !). Singapore còn tổ chức liên kết đào tạo với nhiều trường Đại học danh giá ở nước ngoài (như Đại học Quốc gia Australia, Đại học Illinois (Hoa Kỳ), Đại học Basel (Thụy Sĩ), Đại học Phúc Đán (Trung Quốc)... Giáo dục Cao đẳng Kỹ thuật (ITE) cũng rất phát triển ở Singapore. Hiện có 19.207 sinh viên đang theo học tại 11 trường loại này. 3.2.6. Một trung tâm điều trị y tế có uy tín Trong những năm gần đây Singapore còn nổi lên như một trung tâm khám chữa bệnh thu hút rất đông người nước ngoài. Nổi bật lên là việc khám và điều trị ung thư, bệnh thận, bệnh thần kinh. Mỗi năm trung bình có tới 150 000 bệnh nhân đến từ nước ngoài, mặc dầu chi phí không phải là thấp. Các bác sĩ Singapore cũng nổi tiếng về việc ghép nội tạng . Từ năm 1987 đã ra đời Tổ chức ghép phủ tạng ( HOTA- The Human Organ Transplant Act ) và từ đó đến nay hàng năm đã cứu sống được rất nhiều người nhờ ghép thận, ghép gan, ghép tim và ghép giác mạc. Luật pháp Singapore cho phép sử dụng nội tạng của những người đột tử do tai nạn giao thông để cứu sống người khác. 4. Đất nước Việt Nam và thực trạng phát triển du lịch của nước ta: 4.1. Đất nước Việt Nam: Diện tích: 329.241 km² Dân số: 80.902.400 người (năm 2003) Thủ đô: Hà Nội Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dải đất hình chữ  S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km (Quảng Bình). Kinh tuyến: 102º 08' - 109º 28' đông Vĩ tuyến:  8º 02' - 23º 23' bắc Việt Nam là đầu mối giao thông từ  Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Khí hậu: Việt Nam là nước nhiệt đới gió mùa Địa hình: Lãnh thổ Việt Nam bao gồm 3 phần 4 là đồi núi Tài nguyên: Việt Nam có nguồn tài nguyên vô cùng phong phú như: tài nguyên rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên du lịch và nhiều loại khoáng sản đa dạng. Vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có một nền nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22ºC đến 27ºC. Hàng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1.500 - 2.000 giờ, nhiệt bức xạ trung bình năm 100kcal/cm².  Chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, ít mưa. Trên nền nhiệt độ chung đó, khí hậu của các tỉnh phía bắc (từ đèo Hải Vân trở ra Bắc) thay đổi theo bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Việt Nam chịu sự tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình thấp hơn nhiệt độ trung bình nhiều nước khác cùng vĩ độ ở Châu Á. So với các nước này, Việt Nam nhiệt độ về mùa đông lạnh hơn và mùa hạ ít nóng hơn. Do ảnh hưởng gió mùa, hơn nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu của Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm, từ giữa năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Tài nguyên rừng Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, gụ, trắc, pơ mu... Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, nấm linh chi, mộc nhĩ, mật ong... Về động vật, ước tính ở Việt Nam có 1.000 loài chim, 300 loài thú, 300 loài bò sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài những loài động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ... còn có những loài quý hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ... Rừng của Việt Nam hiện đang bị thu hẹp diện tích, nhất là rừng nguyên sinh. Nhiều loài thực vật, động vật quý hiếm đang bị khai thác, săn bắn lén nên gỗ và chim thú ngày càng cạn kiệt, nhiều loài thú quý đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Tài nguyên thuỷ hải sản Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài nguyên phong phú về tôm, cá... trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua, 300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển... Nhiều loài cá thịt ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực... Có những loài thân mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc...  Biển Việt Nam cũng là tiềm năng khai thác muối phục vụ sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu.  Tài nguyên nước Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm, kênh rạch, biển... chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện; cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống... Hệ thống suối nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú và phân bố khá đều trong cả nước.  Tài nguyên khoáng sản Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: than (trữ lượng dự báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3-4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối); U-ra-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200-300 nghìn tấn, hàm lượng U3O8 trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng gan, titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì...); khoáng sản phi kim loại (apatit, pyrit...). Tài nguyên du lịch Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao nguyên. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh)...; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), Di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình)...; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình - Sơn La), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Tây Nguyên), hồ Thác Bà (Yên Bái), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh, đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản của thế giới), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), đảo Phú Quốc (Kiên Giang)... Với 3.260 km bờ biển có 125 bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu).. Với hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam có trên bảy nghìn di tích (trong đó khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử, văn hoá, dấu ấn của quá trình dựng nước và giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu... Đặc biệt quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng nghìn đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá khác nằm rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn. Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam. Nguồn suối nước khoáng cũng rất phong phú như: suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh), suối khoáng Hội Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo (Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình)... 4.2. Thực trạng du lịch Việt Nam hiện nay: Mặc dù chịu nhiều bất lợi: thiên tai xảy ra liên tiếp, giá xăng-dầu thế giới tăng dẫn tới giá tiêu dùng, dịch vụ trong nước cũng tăng cao, dịch cúm gia cầm tiếp tục diễn biến phức tạp, nhìn chung, du lịch Việt Nam vẫn phát triển mạnh mẽ cùng nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế đất nước trong một môi trường an ninh, chính trị ổn định, đời sống xã hội được cải thiện và nâng cao. Báo chí nước ngoài đều đánh giá cao về du lịch Việt Nam với nhận xét chung: Việt Nam là điểm đến mang nhiều nét Á Ðông hấp dẫn, gợi mở những khám phá, nhưng điều quan trọng nhất, đây còn là điểm đến thân thiện, an ninh được bảo đảm trong một thế giới đầy biến động. So với các nước khu vực, từ chỗ nằm trong nhóm cuối của ASEAN, trong mười năm, Việt Nam đã vươn lên vị trí trung bình về lượng khách du lịch nhưng lại là nền du lịch đầy tiềm năng. Một điểm nhấn quan trọng của du lịch Việt Nam là việc hoàn thiện và thể chế hóa các văn bản pháp luật với sự ra đời của Luật Du lịch sau một quá trình dài soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp và chỉnh lý nội dung. Luật Du lịch được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ bảy, ngày 14-6-2005, vượt trước kế hoạch năm tháng. Luật có nhiều điểm quy định mới và phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với Pháp lệnh Du lịch năm 1999, là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và hoạt động du lịch trong giai đoạn mới, thể hiện  quan điểm, chính sách của Ðảng, Nhà nước phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, kích thích đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần xóa đói, giảm nghèo; đồng thời cho thấy tính liên vùng, liên ngành, xã hội hóa của du lịch và nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, khắc phục các vi phạm trong kinh doanh, bảo vệ tài nguyên, môi trường; bảo vệ quyền và lợi ích của du khách, nâng cao được hình ảnh của du lịch Việt Nam. Ngành du lịch đang khẩn trương xây dựng các dự thảo văn bản hướng dẫn dưới luật nhằm lấy ý kiến đóng góp để trình Chính phủ ban hành kịp thời trước khi Luật Du lịch chính thức có hiệu lực từ tháng 1-2006. Trong hợp tác và hội nhập quốc tế, Việt Nam tham gia tích cực các diễn đàn hợp tác du lịch song phương, đa phương của khu vực và thế giới, đồng thời tranh thủ được sự hỗ trợ, tư vấn cùng các nguồn vốn phát triển  của các nước và tổ chức quốc tế. Phương án mở cửa thị trường dịch vụ du lịch, phù hợp lộ trình, mục tiêu Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và đàm phán mở cửa dịch vụ hướng tới xây dựng khu vực tự do ASEAN vào năm 2010 cũng đang được ngành du lịch nghiên cứu chuẩn bị. Nhìn lại năm 2006, có thể thấy du lịch Việt Nam đã có bước phát triển ngoạn mục. Hoạt động quản lý nhà nước được tăng cường, công tác quảng bá, kinh doanh đúng hướng, duy trì được tính ổn  định  và  ngày  càng  chuyên  nghiệp. Thành tựu nêu trên đã và đang tạo đà phát triển cho du lịch trong năm 2007. Nhiều vận hội mới đang mở ra trước du lịch Việt Nam cùng những thách thức, trở ngại vẫn còn tồn đọng từ nhiều năm nay. Tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể có những biến động đòi hỏi ngành du lịch phải có sự chuẩn bị với những phương án, biện pháp phòng ngừa để chủ động đối phó, điều chỉnh, nhằm giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển. Mặt khác, du lịch Việt Nam vẫn còn có một khoảng cách khá xa với các nước du lịch phát triển trong khu vực, bộc lộ rõ rệt ở các hạn chế về chất lượng dịch vụ; sản phẩm du lịch nghèo nàn, đơn điệu, sức cạnh tranh chưa được cải thiện; còn thiếu sự phối hợp trong điều hành, quản lý, kinh doanh lữ hành; quy hoạch; đầu tư cơ sở hạ tầng; đào tạo nhân lực và xúc tiến, quảng bá du lịch. Với Thái Lan và Singapore thì ta thấy được rằng nếu so sánh về tài nguyên thì Singapore không được thiên nhiên ưu đãi như chúng ta. Họ chỉ là một đất nước có cảng nước sâu và chất xám mà trở nên giàu có - phải chăng có không ít bài học đáng để chúng ta suy nghĩ về hoạt động du lịch của mình? 4.3. Thấy người mà ngẫm đến ta 4.3.1. Một vài ấn tượng. Có lẽ ấn tượng nhất qua chuyến đi du lịch Thái Lan là người Thái đã biến những vùng đất tương tự như miền Tây của VN thành những khu du lịch nổi tiếng thế giới. Người Thái đã cho chúng ta thấy thế nào là “biến không thành có”. Còn chúng ta tự hào về “rừng vàng, biển bạc” thiên nhiên ưu đãi với nhiều kỳ quan được thế giới công nhận, nhưng chúng chưa được khai thác một cách hiệu quả như Thái Lan. Thật khó tưởng tượng nổi tại sao ngành Du lịch là ngành “Công nghiệp không khói” nếu chưa đi du lịch Thái Lan. Chỉ nói về nhà ăn của một điểm du lịch cũng không thể nói hết được và không biết đến bao giờ Việt Nam mới làm được như vậy. Đơn cử như, điểm nào cũng có nhà ăn sạch sẽ, đẹp mắt phục vụ các đoàn khách tham quan liên tục, cả ngàn người ăn một lúc vẫn không hết chỗ, ai vào ăn cũng có cảm giác là người ta chỉ có chờ mình đến để phục vụ. Một ấn tượng nữa là ô tô chở khách du lịch, dù là khách trong nước hay nước ngoài đều dùng cùng một loại cùng một hãng VOLVO (Thụy Điển) chế tạo. Nhiều người đến Pattaya chỉ thấy sự cuốn hút đến kinh ngạc, nhưng không thể hiểu trước năm 1975 hình hài của Pattaya như thế nào? Pattaya trước đây chỉ là một làng chài nhỏ và sau đó là căn cứ quân sự của Mỹ. Sau những năm 1968 thì nó trở nên trung tâm dịch vụ giải trí. Dân số khoảng 200 nghìn người nhưng có tới khoảng 80 nghìn khách du lịch. Mỗi năm, Pattaya đón khoảng 11 triệu khách du lịch, quả là con số đáng nể (Chúng ta đang phấn đấu năm 2007, đạt 4,5 triệu du khách nước ngoài đến Việt Nam). 4.3.2. Nghĩ về du lịch VN. Mục tiêu ngành Du lịch nước ta đặt ra trong năm 2007, là thu hút được 4,2 triệu lượt khách quốc tế, tốc độ tăng trưởng 16%, thu nhập từ du lịch đạt 2,5 tỷ USD. Có một tờ báo điện tử đã mở một diễn đàn về “Du lịch Việt Nam mãi mãi chỉ là tiềm năng?”. Và những người trong và ngoài nước đã nói gì về ngành Du lịch VN? Ông John Kodsowski, Giám đốc điều hành Hiệp hội Du lịch châu á - Thái Bình Dương (PATA) nói: “Du lịch phát triển chững lại, bởi Việt Nam không có hình ảnh thương hiệu rõ ràng. Sản phẩm du lịch, những dịch vụ ăn theo vẫn còn nghèo nàn. Nhiều người nước ngoài đã nói, những điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam không có gì mới. So với các nước trong khu vực, ngành Du lịch Việt Nam chưa có những chiến lược, mục tiêu cụ thể để phát triển toàn Ngành; Trong khi Thái Lan có thể dễ dàng đón những đoàn khách lên đến cả ngàn người, thì với các công ty du lịch Việt Nam đón đoàn khách hơn 300 người là cả một vấn đề, vì khó tìm khách sạn, đặt chỗ trên các chuyến bay nội địa, lực lượng phục vụ... Càng khó hơn, khi những năm gần đây, số phòng nghỉ ở các khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế gần như không phát triển, trong khi lượng khách quốc tế đến ngày càng tăng. Những dịp như cuối năm, mùa cao điểm, tìm được một lượng phòng lớn ở các khách sạn này không phải là điều dễ dàng, chưa kể giá phòng vào cuối năm cứ nhích dần lên; Nói đến du lịch Việt Nam, thật tình còn nhiều điều để nói. Nói đến du lịch Việt Nam, không chỉ riêng Hà Nội mà tất cả điểm đến ở Việt Nam đều nghèo nàn, về hạ tầng, phương tiện, dịch vụ và các điểm giải trí... Tất cả những ý kiến trên đều không sai, nhưng chưa đủ. Chưa ai nói được đầy đủ nguyên nhân đã làm cho ngành Du lịch nước ta không phát triển như tiềm năng sẵn có. Tất cả đều đổ cho ngành Du lịch là không công bằng. Thử hỏi, các nước xung quanh Việt Nam đang chi rất nhiều tiền cho ngành Du lịch. Cụ thể, ngân sách để quảng bá du lịch ở Thái Lan là 150 triệu USD/năm, ở Malaysia là 120 triệu USD, ở Indonesia là 100 triệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docH0120.doc
Tài liệu liên quan