MỤC LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo 3
Danh mục bảng biểu đồ thị 4
Danh mục các từ viết tắt 5
LỜI MỞ ĐẦU 6
1. Tính tất yếu của đề tài 6
2. Mục đích nghiên cứu 7
3. Đối tượng nghiên cứu 7
4. Phương pháp nghiên cứu 7
5. Kết cấu của đề tài 7
NỘI DUNG 8
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ PHÁ GIÁ TIỀN TỆ 8
1. Khái niệm và tác động của phá giá tiền tệ 8
2. Tác động của phá giá tiền tệ 11
3. Tại sao phải phá giá tiền tệ 16
4. Điều kiện áp dụng phá giá tiền tệ 17
CHƯƠNG II: KINH NGHIỆM, BÀI HỌC PHÁ GIÁ TIỀN TỆ CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG Ở VIỆT NAM. 19
1. Kinh nghiệm phá giá trong thương mại của một số nước 20
2. Bài học sử dụng chính sách phá giá nhằm cải thiện cán cân thương mại đối với Việt Nam 29
3. Thực trạng chính sách phá giá tiền tệ ở Việt Nam 30
CHƯƠNG III: NHỮNG THÁCH THỨC TRONG NĂM 2010 VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HIỆU QUẢ PHÁ GIÁ TIỀN TỆ NHẰM CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI. 39
1. Tổng quan cán cân thương mại năm 2009 và những thách thức trong năm 2010 39
2. Giải pháp phá giá tiền tệ và cải thiện cán cân thương mại 41
KẾT LUẬN 46
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2505 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm và tình huống phá giá đồng tiền trong thương mại và bài học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các đồng tiền khác. Theo nhận định của Trung Quốc thì về danh nghĩa trong giai đoạn 1994-2002, đồng CNY đã tăng 5,1% so với đồng USD, tăng 17,9% so với đồng Euro và tăng 17% so với đồng yên Nhật, nếu tính đến yếu tố lạm phát thì mức tăng thực tế của đồng CNY so với các đồng tiền này là 18,5%; 39,4%; 62,9%. Mặc dù có những quan điểm trái ngược nhau, thực tế đã cho thấy cho tới nay việc điều chỉnh tỷ giá và chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã tạo ra khả năng góp phần giảm tác động trước những cú sốc từ bên ngoài và đạt được thành tựu to lớn kể từ năm 1997. Trong năm 2002, tổng doanh số thương mại của Trung Quốc đạt 620,79 tỉ USD, trong đó xuất khẩu tăng 22,3%, đạt 325,57 tỉ USD; nhập khẩu tăng 21,2%, đạt 295,22 tỉ USD. Thặng dư thương mại đạt 30,33 tỉ so với 22,6 tỉ USD trong năm 2001. Dự trữ ngoại tệ đạt mức cao kỷ lục là 286,4 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế Trung Quốc là 8%/năm, và cao nhất trên thế giới. Mặt khác, đồng CNY hiện đang mạnh lên so với đồng USD. Tuy chưa phải là đồng tiền có thể chuyển đổi hoàn toàn, nhưng nó đang ngày càng được sử dụng nhiều ở bên ngoài biên giới Trung Quốc, đặc biệt là dọc biên giới Trung Quốc với các nước Đông Nam á. Theo tính toán hiện có khoảng 30 tỷ CNY đang lưu hành ở bên ngoài Trung Quốc, điều này chứng tỏ niềm tin của quốc tế vào kinh tế Trung Quốc. Và đồng CNY được dự đoán là sẽ đóng vai trò khu vực lớn hơn đồng Euro, có thể trở thành đồng tiền dự trữ thay thế các đồng tiền quốc tế khác ở Châu á. Bên cạnh những thành tựu đạt được một phần là nhờ vào chính sách tỷ giá hiện nay, thì vẫn còn những hạn chế. Khi mà đồng tiền giảm giá, nó làm cho các khoản vay bằng ngoại tệ của nước đó và rủi ro của đầu tư trong tương lai tăng lên khi các nhà đầu tư dự kiến tăng về tính không ổn định của tỷ giá hối đoái. Hiện nay, nợ quá hạn của Trung Quốc đã lên đến mức 1.800 tỷ nhân dân tệ, tương đương 140% GDP so với mức 88% trong năm 1996. Và những khoản nợ khó đòi tập trung ở bốn ngân hàng lớn của Trung Quốc: đó là những ngân hàng hiện nay mất khả năng thanh toán xét trên phương diện kỹ thuật. Kể từ 1998 đến nay, Trung Quốc đã bỏ ra 200 tỷ USD để tái cấp vốn và mua lại các khoản nợ khó đòi của các ngân hàng. Mặc dù hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt với tình hình tài chính bất ổn, nhưng chính phủ Trung Quốc vẫn hết sức thận trọng tránh làm tổn hại đến xuất khẩu. Theo cảnh báo của các nhà nghiên cứu kinh tế, rằng việc điều chỉnh giá trị của đồng nhân tệ có thể làm cho kinh tế Trung Quốc "mất ổn định" do khuyến khích các luồng vốn đầu tư, làm tăng sư phụ thuộc của nền kinh tế vào yếu tố bên ngoài nhất là khi hiện nay có tới 50% hàng xuất khẩu là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là sự mâu thuẫn mà việc lựa chọn chính sách tỷ giá phải đối mặt.
Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh nghiệp của Mỹ (NAM), so với giá trị thực của nó, CNY đang giảm đi mất 40% và chính điều này đã tạo ra một môi trường kinh doanh không công bằng, trong đó, hàng nhập khẩu từ Mỹ trở nên quá đắt và mất đi tính cạnh tranh trên thị trường. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho thấy đồng tiền CNY đang bị Chính phủ nước này “dìm giá” chính là sự tăng lên đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là khá thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm” thu hút lượng lớn ngoại tệ (Bảng 2). Các chuyên gia công nghiệp Mỹ nói rằng sở dĩ có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về đồng tiền, được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so với USD, như vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn. Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá vào năm 2005.
Bảng 3: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc 2002-2007
Năm
E (CNY/USD)
CCTM
(triệu USD)
Dự trữ ngoại tệ (triệu USD)
2002
8,2770
44.167
286.407
2003
8,2770
44.652
403.251
2004
8,2768
58.982
609.932
2005
8,1943
134.189
818.872
2006
7,9734
217.746
1.066.340
2007
7,6075
315.381
1.528.250
(Nguồn: Indicators/2008/pdf/Prc.pdf)
Chế độ tỷ giá của Trung Quốc từ 7/2005 đến nay: Năm 2005, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này. Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, NHTW Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của NHTW tại Thượng Hải, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều.
Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B - Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl).
Có thể thấy rằng, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl Regime) - là chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì). So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc.
Có nhiều áp lực phải đánh giá lại đồng nhân dân tệ, nhất là sự mất giá gần 40% của USD trong 8 năm qua thể hiện sự không tương xứng với những ngoại tệ chủ chốt, trong khi Trung Quốc và nhiều nền kinh tế mới nổi lại neo tỉ giá với USD vốn đang trượt giá để hỗ trợ xuất khẩu. Kể từ đợt điều chỉnh cuối cùng vào tháng 7/2005, đồng nhân dân tệ đã tăng khoảng 20% so với USD, nhưng mức tăng này vẫn thấp, nhất là sau đợt đổ vỡ tín dụng tại Mỹ vào cuối năm 2007 và dẫn đến khủng hoảng toàn cầu. Tại trong nước, việc duy trì đồng nhân dân tệ yếu tuy có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc, nhưng lại đã tạo sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với nhau, mà hậu quả là nhiều mặt hàng không đảm bảo chất lượng, nổi bật là máy tính và một số đồ điện dân dụng, đây là những mặt hàng cần đến nguồn nguyên liệu thô, nhất là kim loại và chất dẻo, trong khi nguồn nguyên liệu này ngày càng khan hiếm và đắt đỏ. Sản xuất tăng mạnh, hàng hóa bán được nhiều, thị trường chứng khoán tăng mạnh và có vẻ đang phát triển bong bóng, nhưng nguy hiểm hơn là lợi nhuận giảm mạnh và điều này làm tăng xác suất phá sản doanh nghiệp. Suy cho cùng, việc duy trì đồng nhân dân tệ yếu quá lâu hoàn toàn không có lợi cho chính nền kinh tế Trung Quốc, và điều này buộc Chính phủ Trung Quốc phải can thiệp để tăng giá bản tệ với mục tiêu chính là giảm bớt rủi ro đối với kinh tế trong nước. Do đồng nhân dân tệ được định giá thấp 20-30% so với USD, việc tăng giá đồng nhân dân tệ thêm 3,4% chẳng có nghĩa lý gì so với mức tăng giá đồng tiền này trong 12 tháng năm 2009.
Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, với giá trị xuất khẩu trong năm 2009 đạt 1.201,7 tỷ USD, nước này đã vượt qua Đức để trở thành quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Số liệu thống kê cũng cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng 21% trong tháng 1/2010. Lượng hàng hóa nhập khẩu thậm chí còn tăng gấp 4 lần con số này. So với cùng kỳ 2009, tổng giá trị nhập khẩu tháng 1 của Trung Quốc tăng tới 86%.
Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên vừa cho biết, nước này sẽ cẩn trọng trong việc đánh giá lại giá trị đồng Nhân dân tệ (CNY), trong bối cảnh sức tăng trưởng các nền kinh tế lớn trên thế giới vẫn còn chậm chạp sau khi trải qua khủng hoảng.
Ông Chu Tiểu Xuyên gọi hành động neo giá đồng nhân dân tệ so với đồng USD mà Bắc Kinh đã và đang thực hiện là "một cơ chế tỷ giá hối đoái đặc biệt" nhằm phản ứng với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đồng thời Ông khẳng định, cơ chế này sớm hay muộn cũng bị bãi bỏ, nhưng Trung Quốc sẽ rất cẩn trọng và khôn ngoan trong việc lựa chọn thời điểm thích hợp.
Mặc dù không đưa ra thời gian biểu cho việc duy trì tỷ giá hối đoái hiện nay, nhưng Trung Quốc khẳng định việc đánh giá lại đồng nhân dân tệ chỉ có thể được thực hiện sau 2 hoặc 3 năm nữa, khi thị trường xuất khẩu toàn cầu hồi phục hoàn toàn sau khủng hoảng.
Chính phủ Trung Quốc sẽ tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng vừa phải, song đồng thời theo sát các diễn biến lạm phát và những thay đổi của các chỉ số kinh tế khác. Ông lưu ý rằng việc kiểm soát lạm phát trong năm nay sẽ hết sức phức tạp. Theo lãnh đạo Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho biết, khó khăn hiện nay của các nhà hoạch định chính sách là dự đoán được mọi tình huống có thể xảy ra và những thay đổi về chỉ số.
Nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và đưa đất nước thoát khỏi suy thoái kinh tế, cuối năm 2008, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách tiền tệ từ "siết chặt" sang "nới lỏng vừa phải " và triển khai gói kích thích kinh tế trị giá 4 nghìn tỷ CNY (585 tỷ USD). Trong năm 2009, Chính phủ đã "bơm" tổng cộng 9,6 nghìn tỷ CNY cho nền kinh tế dưới dạng các khoản vay mới, tăng gần gấp đôi so với năm trước đó.
Theo các chuyên gia, mặc dù xuất khẩu Trung Quốc trong năm 2009 đã giảm 4% so với GDP cả nước, nhưng chính sự ổn định tỷ giá và gói kích thích kinh tế khổng lồ Chính phủ Trung Quốc tung ra đã giúp cho kinh tế nước này vẫn giữ được đà tăng trưởng. Theo số liệu mà Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc thông báo, tăng trưởng GDP của nước này trong quý IV/2009 đạt 10,7%, cao nhất từ năm 2007 trở lại đây. Tính chung trong cả năm 2009, GDP Trung Quốc tăng trưởng 8,7%, vượt xa mục tiêu đầu năm là 8% mà Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã đề ra.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động tới các nền kinh tế, cũng như những khó khăn trên thị trường nội địa, Chính phủ Trung Quốc đã lường trước tình hình, đưa ra các quyết sách quan trọng để tất cả đồng tâm, đồng lòng vượt qua khó khăn. Các biện pháp này đã chặn đứng đà suy giảm và Trung Quốc trở thành nước đầu tiên thoát khỏi suy thoái.
Các nhà kinh tế cho rằng, đồng NDT của Trung Quốc được định giá thấp hơn thực tế từ 20-40%, tạo cho Bắc Kinh lợi thế bất công trong hoạt động thương mại quốc tế. Rất nhiều chuyên gia kinh tế và các nhà lãnh đạo, trong đó có cả Tổng thống Mỹ Barack Obama đã lên tiếng kêu gọi Trung Quốc phải thực hiện việc đánh giá lại đồng CYN vì cho rằng việc quốc gia này neo tỷ giá đồng NDT với đồng USD đã tạo lợi thế về xuất khẩu, qua đó hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu của Trung Quốc khi giao dịch với các nền kinh tế khác trên thế giới. Thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng, việc Trung Quốc tiếp tục không chịu tăng giá đồng NDT đã gây phương hại tới nhiều nước đang phát triển vốn lấy xuất khẩu để phát triển kinh tế, chứ không chỉ có Mỹ.
Nhiều nhà kinh tế trên thế giới nhận định rằng trong năm 2010 Trung Quốc có thể sẽ để đồng nhân dân tệ tăng giá để kiềm chế lạm phát khi xuất khẩu tăng mạnh và áp lực từ phía quốc tế ngày một nhiều. Dự báo năm 2010, đồng nhân dân tệ có thể tăng giá thêm khoảng 5%.
1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp nghèo nhất thế giới. Cho đến năm 1962, khi bắt đầu bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 -1966), GDP bình quân đầu người là 87 USD đã phản ánh rằng Hàn Quốc vẫn chưa thể thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu sau gần thập kỷ nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề bởi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tiếp đó là cuộc chiến Nam - Bắc Triều Tiên.
Thế nhưng chỉ hơn 25 năm sau, vào cuối thập kỷ 80, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên sông Hàn”. Đó là một quá trình phi thường đã nhanh chóng giúp cải tạo nền kinh tế Hàn Quốc, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của đất nước. Để có được một Hàn Quốc như ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng hàng loạt các biện pháp nhằm quản lý, điều tiết nền kinh tế, trong đó đặt trọng tâm là hướng về xuất khẩu.
Chính sách hướng về xuất khẩu: Trong những năm 60, nền kinh tế Hàn Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn lớn; không có thị trường trong nước cho các loại hàng hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Để đối phó với vấn đề này, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu với 2 bước đi quan trọng đó là khuyến khích và tăng cường tiết kiệm thông qua việc tăng lãi suất, cải thiện thâm hụt thương mại bằng việc phá giá đồng nội tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu như giảm thuế nhập khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu một cách hợp lý, ưu đãi về tài chính cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt, mục tiêu xuất khẩu được cụ thể hóa bởi Chính phủ và khen thưởng, động viên từ Tổng thống Hàn Quốc.
Sau hàng loạt những chính sách của Chính phủ, kết quả đạt được là hết sức khả quan. Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 41 triệu USD năm 1960 lên 1.048 triệu USD vào năm 1970.
Năm 2009 khủng hoảng tài chính thế giới đe dọa không ít nền kinh tế, nhưng thị trường Hàn Quốc vẫn có tăng trưởng so chính sách tỷ giá phù hợp của chính phủ. Ngày 2/3, tỷ giá hối đoái của đồng won Hàn Quốc so với đồng USD đã lên tới 1.570,3 won/USD, giảm 36,3 won so với phiên giao dịch trước và là mức thấp nhất kể từ 11 năm qua. Tính từ đầu năm 2009 tới nay, đồng won đã mất 19,8% giá trị, mức giảm cao nhất trong số các đồng nội tệ trên thế giới. Nhiều chuyên gia cho rằng, nếu không giải quyết các khoản nợ ngắn hạn thì đồng won sẽ tiếp tục mất giá so với đồng USD. Trong năm 2008, đồng won đã giảm giá khoảng 26% và từ đầu năm 2009 đến nay tiếp tục giảm 20%, trở thành một trong những đồng tiền mất giá nhanh nhất thế giới. Còn ngày 13/03 năm 2008, tỷ giá hối đoái giữa KRWvà USD chỉ có 978,7 KRW/USD. Mất giá đồng won đã thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu của Hàn Quốc. Mặc dù chịu ảnh hưởng của cơn bão tài chính, tiêu dùng trên các thị trường chính như Mỹ và Trung Quốc bị thu hẹp, lượng giao dịch toàn cầu bị giảm mạnh, tuy nhiên hàng xuất khẩu chủ yếu của Hàn Quốc như ti vi, bán dẫn, điện thoại di dộng, màn hình tinh thể lỏng, xe hơi, đóng tàu vẫn chiếm ưu thế trên thị trường thế giới.
Thành công từ chính sách tỷ giá: Để có được những kết quả trên, Hàn Quốc đã khá thành công trong việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua chiến lược hướng vào xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Từ thực tiễn thành công của Hàn Quốc, một số kinh nghiệm được rút ra như sau:
Một là, Hàn Quốc là tấm gương kiên nhẫn theo đuổi chính sách phá giá tiền tệ để tăng trưởng xuất khẩu. Đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các mặt hàng máy móc, nguyên liệu, thiết bị và công nghệ cũng như vay nợ nước ngoài để đầu tư thì việc phá giá tiền tệ có thể làm giảm tăng trưởng do tác động làm cản trở đầu tư lớn hơn khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, sự khôn ngoan của Hàn Quốc chính là việc mở rộng xuất khẩu ở quy mô lớn kết hợp với các nhân tố khác làm giảm chi phí nhập khẩu và gánh nặng nợ. Thực tế cho thấy, sau khi phá giá mạnh đồng Won Hàn Quốc đã tăng cường năng lực sản xuất và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nên đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao.
Hai là, tỷ giá KRW/USD được điều chỉnh theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ trong một thời gian dài song song với quá trình Hàn Quốc chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang thả nổi. Nghệ thuật phá giá tiền tệ ở Hàn Quốc chính là nhờ sử dụng linh hoạt các yếu tố thị trường và chỉ điều chỉnh khi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã rất chủ động tạo ra các điều kiện thuận lợi để đảm bảo tỷ giá KRW/USD không cản trở tới hoạt động xuất khẩu: khi USD lên giá, chính phủ để thị trường tự điều tiết, còn khi USD giảm giá, Chính phủ đã tăng cung đồng KRW nhằm có lợi cho xuất khẩu.
Ba là, sau việc phá giá tiền tệ, Hàn Quốc đã có biện pháp thích hợp để loại bỏ khả năng giảm giá kéo dài của nội tệ và sau đó củng cố các nhân tố thị trường khác giúp cho tỷ giá duy trì ở mức độ ổn định. Sự ổn định của tỷ giá KRW/USD đạt được là do Chính phủ Hàn Quốc đã duy trì được một biên độ dao động ổn định suốt trong thời gian dài. Điều này thực sự có lợi cho nhà đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Vì vậy, Hàn Quốc là một trong số ít nước vực dậy sau khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á nhanh nhất và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, ứng dụng công nghệ hiện đại nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ mục tiêu hướng về xuất khẩu.
Bốn là, không nên neo giữ đồng bản tệ với một ngoại tệ mạnh. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra khủng hoảng trong giai đoạn đó là các nước trong khu vực neo giữ tỷ giá đồng bản tệ với ngoại tệ duy nhất là USD. Sự ổn định này chỉ mang tính nhất thời và có ảnh hưởng tích cực tới tâm lý nhà đầu tư. Nhà đầu tư tin tưởng vào sự ổn định tiền tệ và nền kinh tế khi đồng USD mất giá. Tuy nhiên, khi USD lên giá mạnh đã làm yếu đi khả năng cạnh tranh của các nước có đồng tiền gắn chặt với USD.
1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trước khủng hoảng tài chính năm 1997, nền kinh tế Thái Lan đã trải qua nhiều năm tăng trưởng kinh tế nhanh do có ngành công nghiệp chế tạo phát triển giúp kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ 9,4% từ năm 1985 đến năm 1996. Có được những thành tựu đó là nhờ Thái Lan đã tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động dồi dào và rẻ, thực hiện chính sách mở cửa kinh tế và phát triển mạnh theo hướng phục vụ xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan trong những năm gần đây chủ yếu tăng được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: Tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan từ năm 1996-2007
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
E (THB/USD
25,61
47,25
36,59
37,47
43,27
44,22
43,15
39,59
39,06
41,03
36,05
33,72
CCTM
-16.148
-4.624
12.235
9.272
5.466
2.494
2.739
3.759
1.460
-8.254
994
11.973
(Nguồn: Indicators/2008/pdf/tha.pdf)
Có được những thành quả trên, Chính phủ Thái Lan đã có những nỗ lực cải thiện cán cân thương mại như: cải thiện môi trường kinh tế, cải thiện cơ cấu chính sách thương mại và phá giá mạnh đồng Baht và tác động đến cán cân thanh toán quốc tế của Thái Lan. Do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên trong giai đoạn trước khủng hoảng, các nước Đông á neo giữ tỷ giá cố định so với USD. Với Thái Lan, việc thi hành chính sách tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD đồng nghĩa với việc đánh giá quá cao giá trị của đồng Baht trong khi giá trị của USD với JPY và các đồng tiền khác tăng rất mạnh. Tuy tỷ giá chính thức giữa Baht với USD có tăng lên, nhưng nếu theo học thuyết ngang giá sức mua thì đồng Baht đã giảm giá khoảng 20% so với USD nhưng chỉ được điều chỉnh rất ít (khoảng 6%). Do đó, việc đồng Baht bị thả nổi là hiện tượng cần thiết để trả lại giá trị đích thực của nó.
Từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cũng giảm tương đối. Có nhiều nguyên nhân làm giảm xuất khẩu của Thái Lan trong giai đoạn này bao gồm: tăng trưởng thương mại toàn cầu suy giảm, tỷ giá hối đoái thực của các nước Đông á lên giá, lượng cầu và giá của các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng điện tử bị suy giảm. Thâm hụt tài khoản vãng lai của Thái Lan năm 1996 lên đến 7,9%GDP. Mức thâm hụt này tiếp tục được tài trợ bởi dòng vốn ngắn hạn nước ngoài chảy vào.
Do tài khoản vốn được tự do và những yếu kém trong việc kiểm soát các khoản nợ vay đã khiến ngày càng nhiều hơn các luồng vốn ồ ạt chảy vào Thái Lan. Chỉ trong 10 năm từ 1987-1996, đã có đến 100 tỷ USD đổ vào Thái Lan, trong đó,vốn vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn do các tổ chức tài chính trong nước vay để đầu tư dài hạn và bất động sản. Bên cạnh đó, tỷ giá được giữ gần như cố định ở mức 25 Baht/USD trong thời gian dài cộng với thâm hụt thương mại kéo dài đã khiến áp lực giảm giá đồng Baht ngày càng tăng.
Dưới áp lực của những khoản nợ đến hạn và thâm hụt thương mại kéo dài, mặc dù đã bán ra gần 15 tỷ USD trong gần 40 tỷ USD dự trữ ngoại hối, nhưng Thái Lan đã không thể duy trì được mức tỷ giá hiện thời. Thái Lan đứng trước việc đồng Baht bị phá giá và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng với những tổn thương nghiêm trọng đến nền kinh tế. Chỉ trong 1 ngày sau khi Chính phủ tuyên bố phá giá, đồng Baht mất hơn 20% giá trị rồi tiếp tục giảm xuống sau đó. Tỷ giá Baht/USD tăng lên từ 25,61 đến 47,25. Tỷ giá này làm tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Thái Lan nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết quả là Thái Lan giảm nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD năm 1997 và thặng dư là 11,973 tỷ USD năm 2007.
Ngày 2/7/1997, Thái Lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối trong nỗ lực bảo vệ đồng Baht tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn và buộc phải thả nổi đồng Baht. Đồng tiền này ngay lập tức giảm giá mạnh. Phản ứng dây chuyền đã lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các nước có những triệu chứng kinh tế tương tự như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc.
Từ cuối năm 1998 - 2004, tỷ giá Baht/USD đôi lúc giảm và sau đó tăng nhẹ nhưng nói chung duy trì ở mức ổn định. Tỷ giá tăng nhẹ từ 39,06 năm 2004 lên 41,03 năm 2005 nhưng cho tới nay, tỷ giá giảm do USD giảm giá. Mặc dù luôn chú trọng tới xuất khẩu, nhưng Thái Lan đã phải chấp nhận để tỷ giá của nội tệ tăng hơn 20% so với USD và duy trì ở mức lạm phát trung bình là 3% từ năm 2006 tới nay do Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, nội tệ tăng giá so với USD là chính sách có lợi hơn.
2. Bài học sử dụng chính sách phá giá nhằm cải thiện cán cân thương mại đối với Việt Nam
Dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và Thái Lan, một số bài học kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam như sau:
- Cần có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trong cải cách. Việc tiến hành phá giá tiền tệ có ảnh hưởng đến giá cả trong nước và quốc tế, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết trong thay đổi chính sách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa. Tuy nhiên, không có thay đổi trong chính sách thương mại thì việc thay đổi tỷ giá sẽ vận hành không có hiệu quả. Trong sự phối hợp với các lĩnh vực khác của nền kinh tế, việc điều chỉnh theo hướng thay đổi tỷ giá không mang tính chất cứng nhắc mà được xem như là phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế.
- Phải duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia trong từng giai đoạn. Một chính sách tỷ giá hối đoái được coi là phù hợp bao gồm:
+ Lựa chọn thời điểm phá giá đồng nội tệ phù hợp. Thành công trong việc phá giá tiền tệ thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nhờ sự nhạy bén của các công cụ trong chính sách tỷ giá mà Trung Quốc đã đạt được sự ổn định giá cả trong nước và cân bằng tài chính tiền tệ với bên ngoài. Trong khi các chính sách kinh tế khác như chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa để giảm lạm phát thì chính sách tỷ giá vẫn đạt được mục tiêu là đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Duy trì tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy việc duy trì tỷ giá trong thời gian dài cùng với sự phá giá hợp lý CNY đã tạo ra sự phát triển tối ưu cho nền kinh tế và áp dụng những biện pháp hỗ trợ khôn khéo để giảm bớt tác động ngược chiều. Đảm bảo cung ứng ngoại tệ được duy trì thường xuyên, liên tục đảm bảo cho sự thành công trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái phải luôn hướng tới mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
+ Không nên neo giữ quá lâu đồng bản tệ với một đồng ngoại tệ mạnh. Tỷ giá cần được xác lập trên cơ sở thiết lập một rổ ngoại tệ để tránh được cú sốc trong nền kinh tế. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy một trong những nguyên nhân chính gây ra khủng hoảng là trong giai đoạn đó, các nước trong khu vực về cơ bản thực hiện chủ trương ổn định tỷ giá so với USD. Ngoài ra, cần thận trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trước những tác động bên ngoài. Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 cho thấy chính sự hoang mang của các nhà đầu tư đã dẫn đến sự rút vốn ồ ạt, gây nên sự sụp đổ trong hệ thống tài chính ở các nước này.
3. Thực trạng chính sách phá giá tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Các giai đoạn phát triển của chính sách tỷ giá hối đoái
a) Giai đoạn thả nổi tỷ giá: 1989-1993
Bảng số liệu dưới đây cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25788.doc