Đề tài Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU - 1 -

NỘI DUNG - 2 -

PHẦN I: TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC MỞ RỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI. - 2 -

I. KHÁI NIỆM. - 2 -

II. VAI TRÒ - 2 -

III. CƠ SỞ KHÁCH QUAN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI. - 2 -

1. Phân công lao động quốc tế. - 2 -

2. Lý thuyết về lợi thế - cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế. - 3 -

3.Xu thế thị trường. - 3 -

PHẦN II: NHỮNG HÌNH THỨC CHỦ YẾU CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI. - 4 -

I.NGOẠI THƯƠNG. - 4 -

1.Xuất khẩu - 4 -

a, Tình hình xuất khẩu - 4 -

b, Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam - 5 -

C, THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM: - 6 -

d, Cơ cấu xuất khẩu theo thành phần kinh tế: - 7 -

2.Nhập khẩu: - 9 -

II.ĐẦU TƯ QUỐC TẾ. - 11 -

1. Đầu tư trực tiếp: - 12 -

a.Tình đình đầu thư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) vào Việt Nam - 12 -

b, Các đối tác đầu tư vào nước ta - 14 -

c, Tác động của ĐTNN vào Việt Nam: - 14 -

d, Giải pháp - 16 -

2.Đầu tư gián tiếp: - 17 -

III. CÁC HÌNH THỨC DỊCH VỤ THU NGOẠI TỆ, DU LỊCH QUỐC TẾ. - 17 -

1. Du lịch quốc tế: - 17 -

2.Vận tải quốc tế: - 18 -

3. Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ. - 18 -

4. Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác. - 19 -

PHẦN III: MỞ RỘNG VÀ PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI - 20 -

KẾT LUẬN - 21 -

TÀI LIỆU THAM KHẢO - 22 -

MỤC LỤC - 23 -

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
03 32.442 39.605 Tốc độ tăng trưởng (%) 25,3 4,0 11,2 20,8 31,5 22,4 22,1 DN 100% vốn trong nước 7.646 8.228 8.834 10.015 12.017 13.889 16.740 - Tỷ trọng 52,9 54,8 52,9 49,6 45,0 43,0 42,0 - Tăng trưởng (%) 11,5 7,6 7,4 13,4 20,3 15,6 20,5 DN có vốn ĐTNN 6.809 6.799 7.872 10.161 14.486 18.553 22.865 - Tỷ trọng 47,1 45.2 47,1 50,4 55,0 57,0 58,0 - Tăng trưởng (%) 45,4 -0,2 15,8 29,1 42,6 28,1 23,2 Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Thương mại * Hạn chế: - Tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn cao. Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu xuất khẩu nói riêng còn chưa vững chắc. Vấn đề cơ cấu kinh tế sẽ còn chứa đựng nhiều nguy cơ làm chậm quá trình tăng trưởng. Trong những năm qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trường ở nước ta diễn ra tương đối tốt. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này chưa được định hướng trên một tầm nhìn dài hạn nên đã bộc lộ những điểm yếu. - Việc tập trung quá lớn vào một số thị trường đã làm suy giảm khả năng thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự chúng ta đánh mất thị trường, khó có thể phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn. - Với tỷ trọng nhóm hàng xuất khẩu chế biến hạn chế và chậm thay đổi như hiện nay, việc tăng trưởng xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại trong ngắn hạn là rất hạn chế. Bởi vì không thể tăng trưởng dựa vào các mặt hàng hạn chế về năng suất, khả năng khai thác, đánh bắt và phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. - Với giá trị gia tăng thấp như hiện nay, nếu không cải thiện năng lực cạnh tranh, chủ động nguồn nguyên liệu, trình độ công nghệ, chất lượng lao động, giảm chi phí trung gian thì rất khó có thể tạo ra được những đột phá nâng cao chất lượng xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại. - Việc gia tăng xuất khẩu nhóm hàng công nghệ cao và sử dụng nhiều vốn, trước mắt có thể còn rất khó khăn nên phải nhanh chóng có chiến lược thực thi ngay từ bây giờ thì mới có thể xuất khẩu một cách bền vững và cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn. - Thủ tục hành chính trong vận hành xuất khẩu và xuất khẩu tuy đã được cải tiến nhiều, nhưng đâu đó vẫn còn phiền hà, phải "làm luật" mỗi khi vận tải trên đường, ở bến bãi và qua cửa khẩu. - Trong thương mại vẫn còn bị méo mó do can thiệp của các nước lớn. Từ tháng 2-2007, mặt hàng tôm Việt Nam, khi nhập khẩu vào Nhật, ngoài chất Chloramphenicol sẽ bị kiểm tra bổ sung 100% đối với chất AOZ. Chè Việt Nam có nhiều khả năng mất thị trường EU sau khi Anh và nhiều nước châu Âu (tháng 5- 2007) thông báo về dư lượng thuốc bảo về thực vật vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Cơ chế giám sát hàng dệt may Việt Nam mà Hoa Kỳ đang áp dụng đã và sẽ gây nên những thiệt hại khôn lường. Như vậy rào cản kỹ thuật, rào cản môi trường được xem như “binh pháp” trong thương mại sẽ là những lá chắn mà thương nhân Việt Nam phải tính đến mỗi khi xuất ngoại. Trong đó, rào cản chống bán phá giá cũng sẽ là một lực cản không dễ gì vượt qua trong một sớm một chiều. *Giải pháp: - Với mỗi thị trường, mỗi mặt hàng xuất khẩu phải có những nghiên cứu và giải pháp thật cụ thể, rõ ràng. - Công tác thị trường ngoài nước và hoạt động của thương vụ Việt Nam tại nước ngoài cần có những chuyển biến mạnh mẽ nhằm cung cấp kịp thời tình hình chính trị, thị trường, chính sách, biện pháp quản lý xuất nhập khẩu, rào cản.... - Xóa bỏ những biện pháp mang tính trợ cấp, cần tìm ra các biện pháp hỗ trợ mới. Theo đó, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm đối tác, thị trường mới, mặt hàng mới, thâm nhập các kênh phân phối, tham dự hội chợ, triển lãm... được xem là những việc cần làm ngay. - Khả năng bị kiện hay trả đũa có thể sẽ gia tăng trong thời gian tới, vì vậy việc chuẩn bị và minh bạch hoá sổ sách, kế toán, theo dõi thông tin, phối hợp công bố thông tin, nhân lực am hiểu luật lệ, vận động hành lang, ngoại giao... sẽ là những vấn đề doanh nghiệp phải chuẩn bị. - Rà soát các thủ tục hành chính có ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của từng ngành hàng, từng doanh nghiệp... để có biện pháp xử lý kịp thời. - Xây dựng quy hoạch, chính sách và giải pháp để xây dựng các vùng sản xuất và cung ứng nguyên liệu tập trung, các vùng sản xuất lớn cho các ngành, doanh nghiệp sản xuất mặt hàng xuất khẩu. - Triển khai, phát triển nhanh công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. - Xây dựng quy trình và thực thi các biện pháp quyết liệt để kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu nhằm nâng cao uy tín và chất lượng hàng xuất khẩu Việt Nam. - Đổi mới nhanh công nghệ, thiết bị, ứng dụng công nghệ sinh học, áp dụng quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt để sản xuất sản phẩm xuất khẩu phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế. - Đẩy mạnh việc xây dựng và quảng bá, đăng ký, bảo vệ thương hiệu nhằm duy trì vị thế của sản phẩm “Made in Vietnam“ trên trường quốc tế. - Phát huy vai trò của các sàn giao dịch điện tử để tiết kiệm chi phí, thời gian giao dịch, đẩy nhanh quá trình lưu thông. - Phát huy vai trò của Việt kiều trong việc quảng bá cho thương hiệu quốc gia và để hàng Việt Nam có thể lách chân vào các thị trường khác. 2.Nhập khẩu: Nhập khẩu trong những năm qua tuy có tăng, nhưng tốc độ chậm dần. Chúng ta tập trung chủ yếu vào nhập nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, trong khi đã cố gắng giảm dần tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng. Một số mặt hàng trước đây vẫn phải nhập khẩu nay đã được thay thế bằng sản xuất trong nước, nhờ vậy giảm tương đối thâm hụt cán cân thương mại. Kim ngạch nhập khẩu trong những năm qua cũng đã có thay đổi về cơ cấu. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, trong khi tỷ trọng nhóm nguyên nhiên vật liệu tăng lên nhanh. Thay đổi này phản ảnh chính sách khuyến khích sản xuất trong nước và giảm nhập khẩu những mặt hàng đã sản xuất trong nước có thể thay thế nhập khẩu được. Trong giai đoạn 2001-2005, nhập khẩu cũng là nhân tố quan trọng, góp phần đảm bảo cung cấp công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt 36,98 tỷ USD. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu so với năm 2004 là 15,7%, là năm có tốc độ tăng kim ngạch thấp nhất trong 4 năm qua (năm 2002 so với năm 2001 là 21,8%, tương tự năm 2003 là 27,9%, năm 2004 là 26,5). Nhập khẩu dịch vụ cả năm ước đạt 5,3 tỷ USD. Bộ Thương mại cho biết, nhập siêu trong giai đoạn 2001-2005 đạt 19,54 tỷ USD, trong đó năm 2005 nhập siêu khoảng 4,75 tỷ USD, giảm mạnh so với 5,11 tỷ USD năm 2003 và 5,45 năm 2004. Cũng trong giai đoạn 2001-2005, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội đạt 1.648.277 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân hàng năm là 14,8%, vượt mục tiêu kế hoạch đặt ra cho giai đoạn này là 11-12%/năm. Kim ngạch nhập khẩu năm tháng đầu năm 2006 ước đạt 16,0 tỉ đô la Mỹ, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2005 và bằng 37,7% kế hoạch cả năm. Cũng giống như xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh hơn nhập khẩu chung của cả nước. Tính chung trị giá nhập siêu về hàng hóa trong năm tháng đầu năm 2006 ở mức 930 triệu đô la Mỹ, giảm 67% so với cùng kỳ năm 2005 và chỉ bằng 6,2% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.(Nguồn Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 06/2006) Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007ước đạt 60,83 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trước tới nay, tăng tới 35,5% so với năm trước. Đã có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên: Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD. *Hạn chế Nhập siêu cao là vấn đề nổi cộm của nền kinh tế nước ta. Chỉ tính riêng quý I/2008, tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá của cả nước đã lên hơn 20 tỉ USD, trong khi xuất khẩu chỉ khoảng 13 tỉ USD, khiến lượng nhập siêu lên trên 7 tỉ USD, gấp 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2007.Nguyên nhân của tình trạng này là: - Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Năm 2006 thu hút đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục với nhiều nhà đầu tư lớn, tới năm 2007 con số đó còn tăng gấp rưỡi. Một số ngành xuất khẩu mũi nhọn như dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, và mới đây là thuỷ sản và ngành điều, muốn tăng xuất khẩu buộc phải tăng nhập khẩu nguyên liêu. Trong số các nguyên, phụ liệu phải nhập khẩu có khá nhiều chủng loại chúng ta có thể sản xuất được, nhưng vì nền công nghiệp phụ trợ trong nước còn kém phát triển, nên buộc phải nhập khẩu. Điều này đúng với cả nhiều ngành sản xuất hàng tiêu thụ nội địa. - Giá và nhu cầu một số nguyên, vật liệu nhập khẩu “nóng lên”: giá thép thành phẩm tăng thêm 93 USD/tấn; phôi thép tăng 105 USD/tấn; phân bón tăng 21 USD/tấn; chất dẻo tăng 144 USD/tấn; sợi tăng 151 USD/tấn, kim loại thường khác tăng 469 USD /tấn, kết hợp với nhu cầu xăng dầu, thép thành phẩm, phân bón, sợi các loại đều tăng mạnh đã đẩy trị giá nhập khẩu tăng thêm khoảng trên 7 tỉ USD. Trong khi đó, chúng ta không có mặt hàng nào tận dụng cơ hội này xuất khẩu đối ứng để “hạ nhiệt” nhập khẩu và nhập siêu. - Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Nhập siêu là hiệu số của kim ngạch nhập khẩu trừ (-) kim ngạch xuất khẩu và tỷ lệ nhập siêu là thương số của trị giá nhập siêu với kim ngạch xuất khẩu. Mấy năm trước đây, xuất khẩu thường tăng nhanh hơn nhập khẩu, nhưng năm nay chẳng những không cùng tăng ở thế đồng hành, mà lại đổi ngôi nên kết cục trên là không tránh khỏi. - Ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế nhập khẩu và nhu cầu tiêu dùng cao, nhất là tâm lý “sính” tiêu xài hàng ngoại khiến cho dòng hàng nhập khẩu càng có điều kiện đổ vào Việt Nam. Tuy vậy, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng mới chỉ chiếm khoảng 3% tổng kim ngạch xuất khẩu, nghĩa là kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên, phụ liệu chiếm tuyệt đại bộ phận trong cấu thành nhập khẩu, nên chúng ta có thể yên tâm rằng, tuy nhập khẩu tăng (điều tất yếu trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển dịch cơ cấu sản suất hướng tới xuất khẩu), nhưng là sự tăng lành mạnh. Về lâu dài, khi trình độ sản xuất trong nước khá lên, xu hướng trên vẫn tiếp diễn, chỉ có thay đổi cơ cấu nhập khẩu theo hướng hàm lượng nhập khẩu công nghệ cao tăng lên, nhằm theo kịp trình độ của thế giới. *Giải pháp Trước tình hình này, Bộ Công thương đã đề ra sáu giải pháp cơ bản để kiềm chế nhập siêu trong năm 2008. - Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tăng sản xuất chế biến, chế tạo các mặt hàng có lượng công nghệ và chất xám cao… - Phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, nghành công nghiệp phụ trợ thay thế hàng nhập khẩu. Bộ Công thương đề nghị các tập đoàn, các Tổng Công ty Nhà nước, các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm đưa các dự án đầu tư về điện, phân bón, thép, cơ khí, dệt may... vào sản xuất nhằm thay thế các mặt hàng nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu. Bộ đang tập hợp kiến nghị của các doan nghiệp đề nghị Chính phủ xem xét, có cơ chế khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước được tham gia với tỷ lệ ngày càng cao hơn trong xây lắp và cung cấp thiết bị đối với các công trình, dự án lớn (ví dụ cơ chế lựa chọn nhà thầu, phương thức mua sắm...) - Nghiên cứu xây dựng các biện pháp và tiêu chuẩn kỹ thuật đối với thương mại, nhằm bảo vệ sản phẩm trong nước khỏi sự cạnh tranh không công bằng trên thị trường trong nước, phù hợp với các quy định của WTO và Hiệp định quốc tế mà VN ký kết. - Kiến nghị Chính phủ các giải pháp về tiền tệ, tài chính để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo đủ vật tư nguyên liệu, thiết bị cho sản xuất. - Chống lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong tiêu dùng và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên trong nước. Giải pháp cuối cùng là tiếp tục thực hiện các biện pháp bình ổn thị trường, cân đối cung cầu hàng hóa. Bộ Công thương đang chỉ đạo các đơn vị có liên quan kế hoạch thực hiện đề án đẩy mạnh tuyên truyền, vận động rộng rãi trong xã hội việc sử dụng hàng Việt Nam. Đây cũng là biện pháp hữu hiệu góp phần giảm nhập siêu.(Theo VnMedia) Việc Việt Nam gia nhập WTO là một chủ trương đúng đắn. Các doanh nghiệp có điều kiện chủ động nắm bắt thời cơ, mở rộng thị trường xuất khẩu, được hưởng mức thuế thấp, được đối xử bình đẳng và có nhiều sự lựa chọn khi nhập khẩu; vốn đầu tư nước ngoài thu hút được nhiều hơn, phát huy các lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, nhân công, tài nguyên, vị trí địa lý, nâng cao năng lực của nền kinh tế, đặc biệt đối với sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó tác động tích cực đến xuất khẩu, vị thế, hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc tế. Dưới sức ép của toàn cầu hoá kinh tế, cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngày càng xuất hiện nhiều hình thức rào cản thương mại mới, tinh vi như áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm hay các biện pháp chống bán phá giá, do đó, một mặt, chúng ta phải nâng cao năng lực của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp, đồng thời cần nâng cao khả năng nhận biết sớm các rào cản đó để kịp thời ứng phó nhằm đạt được sự công bằng trong quan hệ thương mại quốc tế. Theo xu thế chung, thể chế kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng sẽ tiếp tục được minh bạch trong môi trường chính trị - xã hội ổn định. Do đó sự chỉ đạo sát sao cùng với điều hành nhất quán của các bộ, ngành, với sự tham gia của các hiệp hội ngành hàng; trong đó khuyến khích khả năng sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp. Cải cách hành chính cần được tiếp tục đẩy mạnh để giúp các doanh nghiệp giảm phí, thời gian, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, khả năng cạnh tranh, tạo ra nhiều tích luỹ ban đầu, chuẩn bị cho những bước tiến mới. II.Đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế nhằm mục đích sinh lợi.Có hai loại hình đầu tư quốc tế là: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. 1. Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu là quyền sử dụng vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Các hình thức đầu tư trực tiếp: Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT; Đầu tư phát triển kinh doanh; Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư; Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp; Các hình thức đầu tư trực tiếp khác. a.Tình đình đầu thư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) vào Việt Nam Trước đổi mới Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Để khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới trong chặng đường vừa qua.Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm. Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%. Diễn đàn Liên hiệp quốc tế về thương mại và phát triển (UNCTAD) vừa công bố báo cáo về đầu tư thế giới (WIR) 2007 đã đưa ra một dự báo lạc quan: Việt Nam được xếp thứ 6 trong top 10 nền kinh tế hấp dẫn nhất về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đánh giá của UNCTAD hoàn toàn phù hợp với tình hình diễn biến đầu tư FDI tại Việt Nam năm 2007. Riêng 9 tháng đầu năm nay, cả nước đã thu hút được 13 tỷ USD, vượt qua con số 10,2 tỷ USD của năm 2006. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. - Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303 2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314 3 CNnặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865 4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260 5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027 Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769 - Trong lĩnh vực dịch vụ: Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng). TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) Đầu tư đã thực hiện (triệu USD) 1 Giao thông vận tải-Bưu điện (bao gồm cả dịch vụ logicstics) 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê 153 9.262 1.892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8 Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) 954 2.145 445 Tổng cộng 1.912 28.609 7.399 Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v... - Trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước. STT Nông,lâm,ngư nghiệp Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 Nông-Lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 b, Các đối tác đầu tư vào nước ta Qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ USD. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam (xem Phụ lục). Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD. . c, Tác động của ĐTNN vào Việt Nam: Về mặt kinh tế: - ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế: Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%. Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Nhờ vậy, đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước tăng gấp hơn 2 lần năm 1990. 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5%.Năm 2006 đạt 8,17% và Năm 2007 đạt 8,48%. - ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp: Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may - ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ: ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy...Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các cây, con giống mới. - Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế: ĐTNN có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. - ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô: Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. - ĐTN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11965.doc
Tài liệu liên quan