Để hiểu rõ vai trò của kinh tế nhà nước cần phải có quan điểm toàn diện. Đó là phải thấy được cả các mặt tích cực, các mặt tiêu cực, các mặt đã đạt được và các mặt chưa đạt được, các mặt quan trọng và các mặt thứ yếu để từ đó có biện pháp khắc phục những mặt còn tồn tại, phát huy hơn nữa các mặt đã đạt được.
Mặt khác, trong đánh giá, không chỉ chú ý đến mặt hiệu quả kinh tế mà phải xem xét cả hiệu quả xã hội. Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng ta là: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đó chính là định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng và phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, đòi hỏi nhà nước cần phải xem xét kĩ tác động qua lại giữa các thành phần kinh tế một cách toàn diện để từ đó mới xác định được cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo tiền đề thuận lợi cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1767 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư trực tiếp của nhà nước lẫn chính sách khuyến khích để tập thể và tư nhân tập trung vào các ngành mũi nhọn, tạo đà tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế. Tiếp nữa là nỗ lực về tài chính và ngoại giao, chính trị để thực thi chiến lược chuyển giao công nghệ có hiệu quả với phương châm kế thừa tích cực tiến bộ kỹ thuật mà loài người đã đạt được. Đồng thời với các nỗ lực trên là chiến lược về đào tạo, chiến lược tranh thủ chất xám của thế giới, là nỗ lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tìm kiếm thị trường. Điểm mới ở đây là kinh tế nhà nước không tiến hành công nghiệp hoá một cách đơn độc như trước kia mà trở thành hạt nhân tổ chức, thu hút và định hướng để lôi kéo các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào quỹ đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư: kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế nhằm đảm bảo cân đối vĩ mô của nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu dài, bền vững và hiệu quả cho nền kinh tế. Đó là các khu vực như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng, các ngành công nghiệp mũi nhọn, kết cấu hạ tầng vật chất cho nên kinh tế(giao thông, bưu chính, năng lượng…). Các ngành có ảnh hưởng to lớn đến kinh tế đối ngoại như các liên doanh lớn, xuất nhập khẩu quy mô lớn, hoặc các lĩnh vực có liên quan đến an ninh quốc phòng và trật tự xã hội. Tuy nhiên quan điểm nắm giữ vị trí then chốt được hiểu theo một cách linh động, có nghĩa là nhà nước không độc quyền cứng nhắc trong các lĩnh vực ấy mà cần có hợp tác liên doanh hợp lý với các thành phần kinh tế khác, nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xuất nhập khẩu và công nghiệp. Hơn nữa, sự cần thiết để nhà nước kiểm soát từng lĩnh vực cụ thể cũng được xem xét theo từng thời kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp mũi nhọn. Khi mới thành lập thì đầu tư của nhà nước sẽ là chủ yếu, khi ngành sản xuất mới đã đi vào ổn định thì không nhất thiết cần đầu tư nhà nước mà có thể chuyển giao cho các thành phần kinh tế khác đảm nhiệm. Ngược lại cũng có những lĩnh vực lúc đầu không cần đầu tư nhưng đến lúc nào đó rất cần đầu tư trực tiếp của nhà nước thì có thể chuyển những cơ sở kinh tế đó sang hình thức sở hữu nhà nước bằng cách nhà nước đứng ra mua cổ phiếu hoặc quốc hữu hoá có đền bú cơ sở sản xuất tư nhân đó. Kinh tế nhà nước phải tạo ra lượng hàng hoá và dịch vụ khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chất lượng và giá cả sản phẩm dịch vụ do mình cung cấp. Mặt khác trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, để giữ vững độc lập dân tộc và sự ổn định về kinh tế xã hội, kinh tế nhà nước càng phải vững mạnh và giữ vững vị trí then chốt tong nền kinh tế.
Thứ năm: kinh tế nhà nước trực tiép tham gia khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, điều chỉnh các biến động trong quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ do cơ chế thị trường tạo ra. Trong các lĩnh vực hoạt động cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhưng khả năng sinh lời cấp thiết, không hấp dẫn tư nhân đầu tư vào như cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường… thường kinh tế nhà nước phải trực tiếp đảm nhiệm.
Thứ sáu: kinh tế nhà nước phải là hình mẫu về ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật, quan điểm hiện tại của Đảng ta, chế dộ xã hội mới chỉ có thể dựa trên nền tảng là công hữu(sở hữu nhà nước và tập thể), cũng có nghĩa là kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là yếu tố tiến bộ hơn chủ nghĩa tư bản về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đây thực chất là sự lựa chon chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế kinh tế nhà nước tiềm tàng các yếu tố cho phép nó ưu việt hơn như quy mô hữu lớn và khả năng tập trung cao cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, triển khai công nghệ mới…Tuy nhiên để tất cả các yếu tố tiềm tàng trở thành hiện thực cần phải có mô hình và cơ chể tổ chức quản lý phf hợp thì mới phát huy được thế mạnh.
Thứ bảy: thực hiện dự trữ quốc gia nhằm đảm bảo hành lang an toàn cho nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường chứa đựng trong nó rất nhiều biến động, đặc biệt là từ những thập kỷ 80 trở lại đây, kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng có chu kỳ. Trong khi nước ta là một nước đang phát triển, nếu không thực hiện dự trữ thì khó laòng có thể giải quyết được các hậu quả khi có biến động. Công việc này các thành phần kinh tế khác không đảm bảo được.
Thứ tám: Giải quyết các vấn đề xã hội. ở một nước kinh tế còn chưa phát triển, lại trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài như Việt Nam, giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là vấn đề đền ơn đáp nghĩa với người có công với nước là nhiệm vụ phức tạp khó khăn nhưng lại có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội rất quan trọng, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, việc giải quyết các vấn đề xã hội không thể một lực lượng tư nhân nào có thể đảm nhiệm được. Chính thực tế đó đòi hỏi nhà nước với trách nhiệm là người đảm bảo ổn định xã hội, tạo tiền đề để mỗi người có thể phát triển toàn diện, phải là lực lượng chính trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế nhà nước sẽ là lực lượng vật chất và công cụ để nhà nước thực hiện, hoàn thành nhiệm vụ nói trên.
Thứ chín: kinh tế nhà nước tạo nền tảng cho xã hội mới. Khu vực kinh tế nhà nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cơ bản nhất. Tuy nhiên, điều cần phải luận kỹ ở đây là vai trò cụ thể của doanh nghiệp nhà nước trong từng giai đoạn phát triển, để trên cơ sở đó có giải pháp tổ chức quản lý đúng, vừa đảm bảo vai trò của khu vực kinh tế quan trọng này, vừa đáp ứng mối quan hệ chung với các bộ phận cấu thành khác của hệ thống kinh tế-chính trị-xã hội.
Trong nền kinh tế bao gồm tổng hợp nhiều ngành nghề khác nhau, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành mà vai trò của các thành phần kinh tế đối với nó cũng khác nhau. Vậy vai trò của kinh tế nhà nước đối với các ngành cụ thể như thế nào. Chúng ta sẽ xem xét một số nội dung để làm rõ vấn đề này:
_Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như đường sắt, vận tải biển, hàng không sân bay, cảng biển, mạng lưới điện quốc gia, các khâu quan trọng của bưu chính viễn thông, hệ thống thuỷ lợi lớn tưới tiêu cho nông nghiệp và phòng chống thiên tai, cung cấp nước sạch…thì kinh tế nhà nước phải là nòng cốt, có vai trò quyết định, tạo điều kiện mở đường cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời phát huy sức mạnh cùng tham gia, nhất là ở những khâu có khả năng thu hồi vốn tương đối nhanh và có lãi. ở các đô thị và liên tỉnh, nhà nước cần đầu tư tổ chức một bộ phận vận tải hành khách hiện đại, văn minh và an toàn dưới hình thức công ty cổ phần có vốn nhà nước chi phối làm nòng cốt cho lực lượng vận tải hành khách của các thành phần kinh tế.
_Trong công nghiệp, kinh tế nhà nước phải đi đầu và làm nòng cốt cho một số ngành mà nền kinh tế nước ta nhất thiết phải có để tạo cơ sở cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như: luyện kim, cơ khí, chế tạo máy, hoá chất cơ bản, phân bón, hai thác khoáng sản có trữ lượng lớn, quý hiếm, sản xuất một số vật liệu xây dựng và linh kiện quan trọng, những ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử, công nghệ tin học(trước mắt là phát triển phần mềm), công nghệ sinh học. Đồng thời phải quan tâm đáp ứng có chọn lọc một số nhu cầu thiết yếu của nhân dân và cả cho xuất khẩu với chất lượng cao, mẫu mã và giá cả phù hợp với thị hiếu và sức mua của các tầng lớp dân cư.
_Kinh tế nhà nước trong nông lâm, ngư nghiệp phải hỗ trợ kinh tế hợp tác và kinh tế hộ sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, phải làm đòn bẩy trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đưa công nghệ mới vào sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến, phát huy vai trò là trung tâm công nghiệp dịch vụ, trung tâm chuyển giao công nghệ, trung tâm văn hoá trên địa bàn. Thương nghiệp nhà nước liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác, thu hút và hướng dẫn họ trong mạng lưới đại lý của hệ thống thương mại nông thôn, nắm đại bộ phận lực lượng buôn bán, chi phối bán lẻ những mặt hàng chủ lực, thiết yếu cho sản xuất và đời sống, điều tiết và bình ổn giá cả có lợi cho nông dân.
_Thương nghiệp nhà nước phải giữ vai trò nòng cốt, chi phối trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá đối với khâu xuất nhập khẩu những ngành hàng và địa bàn quan trọng, chi phối bán buôn và tổ chức dự trữ lưu thông những mặt hàng thiết yếu cho cả sản xuất và đời sống, cần phải thăm dò thị trường để nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách hàng.
_Kinh tế nhà nước giữ vai trò chi phối để đảm bảo sự tăng trưởng của đất nước trong các lĩnh vực tài chính, dịch vụ kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường.
Như vậy, xét một cách tổng thể kinh tế nhà nước có vai trò rất tích cực đối với nền kinh tế, sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế đã đạt được những thành tựu đáng kể, khắc phục được một cách thuyết phục các nhược điểm trong nền kinh tế cũ. Đặc biệt là vai trò của kinh tế nhà nước ngày càng được nhận thức rõ ràng hơn trong tiến trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước.
3.Vị trí then chốt của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù đã được thông qua các kỳ đại hội Đảng nhưng cho đến nay vẫn tồn tại không ít sự tranh cãi xung quanh vấn đề: “nên đặt vai trò chủ đạo cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước hay là cho kinh tế nhà nước”. Bây giờ chúng ta thử phân tích xem nên quan niệm như thế nào?. Tuy hệ thống doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu tạo ra tiềm lực vật chất nhà nước, là nơi trực tiếp hình thành và nuôi dưỡng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, là lực lượng kinh tế đồng thời cũng là một công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, nhưng bên cạnh nó còn nhiều bộ phận khác của kinh tế nhà nước như: ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà nước, ngân sách nhà nước…mà khả năng điều tiết kinh tế vĩ mô(định hướng, thúc đẩy…) của chúng rất to lớn.
Mặt khác, khi nói đến kinh tế nhà nước là nói tới tất cả các bộ phận của kinh tế nhà nước với các thuộc tính tiến bộ của thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất mới-phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Là thành phần kinh tế tiến bộ có sứ mệnh tự khẳng định bản chất ưu việt của mình, kinh tế nhà nước cùng các thành phần kinh tế khác cải biến các sai lệch không phù hợp trong phương thức sản xuất cũ để mở đường cho phương thức sản xuất mới phát triển. Như vậy qua phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rằng xét vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mang tầm bao quát đầy đủ hơn so với xét vai trò chủ đạo của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất then chốt trong nền kinh tế, nó vừa là chủ thể tham gia kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt để nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Như vậy, hệ thống các doanh nghiệp do nhà nước thành lập và làm chủ sở hữu vừa là các đơn vị kinh tế tự chủ, độc lập, vừa là lực lượng kinh tế vĩ mô của nhà nước. Là chủ thể kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiêu quả để đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước, đảm bảo và gia tăng nguồn lực kinh tế mà nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp này. Là lực lượng kinh tế vĩ mô các doanh nghiệp nhà nước phải góp phần tạo ra môi trường, tiền đề thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp khác, lôi cuốn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội. Vi phạm hai chức năng trên, hệ thống doanh nghiệp nhà nước chẳng những không góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước mà còn làm suy yếu lực lượng kinh tế và làm giảm vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước gắn liền với việc nó tham gia vào hoạt động kinh tế cuả nhà nước. Vai trò này thể hiện trên ba phía cạnh: kinh tế, chính trị và xã hội. Nội dung của vai trò này được thể hiện như sau:
Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền lâu của toàn bộ nền kinh tế.
Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động mang tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội, cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng( giao thông, thuỷ lợi, điện nước, thông tin liên lạc…), xã hội( giáo dục, y tế…) và an ninh quốc phòng.
Góp phần quan trọng khắc phục những khuyết điểm của cơ chế thị trường. Những lĩnh vực mới, các kết cấu hạ tầng, công trình lớn đòi hỏi vốn lớn, thu hồi chậm, rủi ro cao, lợi nhuận thấp và là những ngành cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất, các thành phần kinh tế khác không muôn đầu tư, hoặc chưa có khả năng, điều kiện làm thì các doanh nghiệp nhà nước cần phải đi đầu, mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Là lực lượng xung kích tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Là lực lượng đối trọng trong cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, chống sự lệ thuộc vào nước ngoài về kinh tế trong điều kiện mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới.
Thực hiện một số chính sách xã hội, như tạo việc làm cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, ở những khu vực khó khăn, kém phát triển như biên giới, hải đảo, miền núi…
Là lực lượng tạo nền tảng cho xã hội mới.
Tóm lại, thành phần kinh tế nhà nước và hệ thống doanh nghiệp nhà nước là những phạm trù kinh tế cùng bản chất, tuy có khác nhau về cấp độ, do đó vai trò và nhiệm vụ của chúng có nội dung cơ bản giống nhau, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau. Tách biệt rạch ròi vai trò của khu vực kinh tế nhà nước và vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước là một việc khó, nhưng rất cần thiết cả trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Vai trò của khu vực kinh tế nhà nước rộng hơn và bao hàm cả vai trò quan trọng của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Nói đến vai trò chủ đạo là nối đến vai trò của cả hệ thống kinh tế nhà nước, trong đó các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu, là phương tiện, công cụ, lực lượng đi đầu mở đường cho sự phát triển kinh tế. Việc xác định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước và vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo nội dung nêu trên sẽ giúp chúng ta định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế nhà nước hiện có, đề ra cơ chế, chính sách phù hợp, biện pháp quản lý hữu hiệu đối với thành phần kinh tế nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng, đồng thời thiết lập các chế định yểm trợ phát triển nõi chung.
III. Đánh giá vai trò của kinh tế nhà nước trong thực tiễn.
Quan điểm đánh giá.
a.Quan điểm lịch sử.
Sau khi giành độc lập, thông nhất đất nước(1975), nước ta bước vào thời kỳ xây dựng khôi phục đất nước sau chiến tranh. Để khắc phục những hậu quả của chiến tranh, thấm nhuần chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước ta đã đề ra cơ chế quản lý kinh tế bằng kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp; toàn bộ nền kinh tế do nhà nước quản lý, cấp phát theo chế độ tem phiếu. Cơ chế quản lý này đã tỏ ra phù hợp trong một thời gian sau đó khi mà nền kinh tế cần huy động tổng thể các nguồn lực. Nhưng đến đầu thập kỷ 80 với sự biến động có chu kỳ của nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế đóng của nước ta đã bộc lộ những yếu nhược điểm, nếu cứ tiếp diễn nền kinh tế sẽ đi vào tụt hậu.
Trước tình hình đó tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(1986) Đảng ta đã đề ra chr trương đổi mới toàn diện nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của năm thành phần kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể dần tạo nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế đa thành phần.
Tại các kỳ đại hội VII, VIII, IX Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, nhìn nhận ngày một rõ nét vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, mặc dù trong quá trình đổi mới kinh tế nhà nước phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức. Nhưng nhìn chung tỷ trọng của kinh tế nhà nước luôn chiếm một phần lớn trong cơ cấu GDP. Điều này được thể hiện thông qua bảng số liệu sau:
Năm
1986
1990
1995
2000
Kinh tế nhà nước.
39,7
31,8
40,2
39,0
Ngoài nhà nước
60,3
68,2
53,5
43,7
Đầu tư nước ngoài
0,0
0,0
6,3
13,3
Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế.
(% theo giá hiện hành)
NXB Thống Kê-Hà Nội 2001.
Do kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí then chốt quan trọng của nền kinh tế, đòi hỏi cấp nhà nước cần phải có chính sách hợp lý để giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế.
b. Quan điểm toàn diện.
Để hiểu rõ vai trò của kinh tế nhà nước cần phải có quan điểm toàn diện. Đó là phải thấy được cả các mặt tích cực, các mặt tiêu cực, các mặt đã đạt được và các mặt chưa đạt được, các mặt quan trọng và các mặt thứ yếu…để từ đó có biện pháp khắc phục những mặt còn tồn tại, phát huy hơn nữa các mặt đã đạt được.
Mặt khác, trong đánh giá, không chỉ chú ý đến mặt hiệu quả kinh tế mà phải xem xét cả hiệu quả xã hội. Quan điểm phát triển kinh tế của Đảng ta là: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đó chính là định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng và phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, đòi hỏi nhà nước cần phải xem xét kĩ tác động qua lại giữa các thành phần kinh tế một cách toàn diện để từ đó mới xác định được cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo tiền đề thuận lợi cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
2.Những mặt tích cực đã đạt được.
Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương khoá IX đã khẳng định: “Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đứng vứng và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: kinh tế nhà nước, cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và ssản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước.
Thứ hai: kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, trong tổng thu ngân sách, kin ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài. Đây là cố gắng to lớn của hệ thống các doanh nghiệp nhà nước và một số bộ phận khác. Năm 2000, các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp 39,9% tổng sản phẩm, 39,2% tổng thu ngân sách và hơn 50% kim ngạch xuất khẩu; các doanh nghiệp đã chiếm 98% các dự án liên doanh với nước ngoài. Từ năm 1991 đến 2000, các doanh nghiệp nhà nước đã nộp thuế thu nhập gần 64 nghìn tỷ đồng.
Thứ ba: kinh tế nhà nước đã khẳng định vai trò chủ đạo của mình thông qua việc thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm đưa nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thứ tư: mặc dù có sự thu gọn đầu mối đáng kể hệ thống doanh nghiệp nhưng tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế nhà nước vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực tư nhân và đạt bình quan trong 10 năm 11%/năm(1991-2000).
Thứ năm, kinh tế nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường, năng lực sản xuất tiếp tục tăng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên, đời sống người lao động từng bước được cải thiện. Vốn tư tích luỹ bố sung từ chỗ không đáng kể, đên snay chiếm 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh.
Thứ sáu: sự chiếm lĩnh của kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, đầu tư mới, công nghiệp lớn và liên doanh, hợp tác với nước ngoài đã đóng góp rất lớn vào thành công của Việt Nam trong kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, đối phó với ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới, cũng như ổn định và cải thiện đời sống cho người dân.
Thứ bảy: nhờ có đầu tư, tín dụng nhà nước nên nhiều vùng núi, vùng xa và đồng bào khó khăn nước ta đã được tạo điều kiện mở mang ngành nghề, tìm kiếm thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, hình thành các trung tâm văn hoá mới…. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn phát đạt, lợi nhuận cao, được phong tặng đơn vị anh hùng và là tấm gương cho các thành phần kinh tế khác.
Thứ tám: kinh tế nhà nước đã có sự đổi mới tích cực trong quá trình đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước theo hướng cổ phần hoá. Tính đến tháng 11-2001 cả nước đã cổ phần hoá được trên 700 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, bằng khoảng 13% tổng số doanh nghiệp hiện có. Theo báo cáo của các doanh nghiệp cổ phần hoá có thời gian hoạt động trên một năm, đại đa số sản xuất phát triển. Tính chung doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuân tăng 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công nhân viên tăng 5,1%.
Như vậy, nhìn chung kinh tế nhà nước được đánh giá cao ở giác độ làm nền tảng cho công cuộc chuyển đổi thành công ở Việt Nam. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới thành tựu trên? Tại nghị quyết trung ương ba Ban chấp hành trung ương khoá IX đã khẳng định: “Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của chính phủ và các cấp, các ngành; sự cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp nhà nước, của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới.
3.Những mặt yếu kém còn hạn chế.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, so với nhiệm vụ mà kinh tế nhà nước phải gánh vác thì hiện tại ở khu vực này vẫn còn nhiều yếu kém:
Thứ nhất: năng lực cạnh tranh, hiệu quả chung cua kinh tếnhà nước chưa cao và gần đây có xu hướng giảm mạnh. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ, tình trạng không hiệu quả của số lớn doanh nghiệp nhà nước đã làm thất thoát mất vốn nhà nước, mặt khác tạo ra ấn tượng không tốt về khu vực này.
Đến nay cả nước có 5.655 doanh nghiệp nhà nước với tổng số vốn trên 126.000 tỷ đồng, số doanh nghiệp có tổng vốn dưới 5 tỷ chiếm 59,8%(trong đó dưới 1 tỷ chiếm 18,2%), số doanh nghiệp có vốn từ 5 tỷ đến 10 tỷ chiếm 15,2%, số doanh ngiệp có vốn trên 10 tỷ chiếm 25%.
Năm 1998, khi phân loại hiệu quả doanh nghiệp, có 40% doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, 40% doanh nghiệp khi lỗ khi lãi, 20% lỗ liên tục không có hiệu quả.
Năm 2000,số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng chỉ trên 40%, số doanh nghiệp khi lỗ khi lãi còn 31%, số doanh nghiệp lỗ liên tục chiếm 29%.
Sức cạnh tranh của hàng hoá rất yếu, có những mặt hàng như phân bón, xi măng, sắt thép, kính xây dựng…giá sản xuất cao hơn giá nhập khẩu từ 10-20%, cá biệt có mặt hàng giá sản xuất cao hơn giá nhập khẩu 40%, đường thô giá sản xuất cao hơn giá nhập khẩu tới 70%.
Thứ hai: cơ cấu kinh tế nhà nước còn nhiều bất hợp lý, chưa thể hiện rõ là hạt nhân của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước và hệ thống doanh nghiệp nhà nước được giao đảm đương vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta, nhưng trên thực tế, cho đến nay cơ cấu kinh tế nhà nước, cơ chế vận hành nền kinh tế, vấn đề thể chế hoá sở hữu nhà nước như thế nào để nó đam lại hiệu quả hơn hẳn các thành phần kinh tế khác vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ, phạm vi hoạt động của kinh tế nhà nước thế nào vẫn còn gây tranh luận, việc xác định vai trò vĩ mô của kinh tế nhà nước chưa đủ thuyết phục, vẫn có sự đồng nhất giữa kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Chính điều đó đã làm cho doanh nghiệp nhà nước rất lúng túng, chậm chạp và chưa phát huy đầy đủ vai trò của nó với tư cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Do vẫn chưa xác định được cụ thể những ngành, lĩnh vực mũi nhọn mà các doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ và ở những lĩnh vực nào doanh nghiệp nhà nước cần phải đi trước, thực hiện trước những việc xã hội đang cần để sau đó chuyển giao cho khu vực tư nhân nên các doanh nghiệp nhà nước phân bố dàn trải, không chỉ ở các ngành công ích mà còn ở một số lĩnh vực kinh doanh khác.
Công nghệ trong khu vực kinh tế nhà nước đa phần lạc hậu, tốc độ đổi mới chậm, tình trạng thiếu vốn, trình độ tổ chức quản lý yếu kém, chưa quen với hoạt dộng kinh tế theo kiểu mới phổ biến trong các doanh nghiệp nhà nước.
Theo thông báo của bộ khoa học công nghệ và môi trường, qua khảo sát các thiết bị dây truyền sản xuất trong doanh nghiệp nhà nước đã đưa ra kết luận: “công nghệ của chúng ta lạc hậu so với các nước từ 10 đến 20 năm”, mà congnghệ là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh.
Cần lưu ý thê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50331.doc