Lời mở . 1
Quan niệm về kinh tế nhà nước. 2
1/ Quan niệm chun về kinh tế nhà nước. 2
2/ Đặc điểm kinh tế nhà nước. 3
3/ Quá trình hình thành kinh tế nhà nước. 4
Nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. 6
1/ Tính tất yếu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. 6
2/ Những biểu hiện của vai trò chủ đạo. 7
Thực trạng , đặc trưng và biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước . 11
1/ Thực trạng kinh tế . 11
2/ Đặc trưng của kinh tế thị trường Việt Nam . 15
3/ Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo . 19
Kết luận 24
Tài liệu tham khảo .
26 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 853 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
họn thì kinh tế nhà nước đứng ra đảm nhiệm.Nghiên cứu vai trò của kinh tế nhà nứớc chúng ta thấy vai trò chủ đạo của một hình thức thể hiện ở chỗ tính chất ,đặc điểm và phương thức tác đông của nó tới các thành phần kinh tế khác Điều kiện đó đảm bảo cho nền kinh tế vận động theo mục tiêu của Đảng và nhà nước .Đảng và nhà nước ta đã xá định mục tiêu : “xây dựng và phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo định hướng và chi phối các thành phần kinh tế khác.
Với tư cách là tổ chức kinh tế tầm cỡ quốc gia, kinh tế nhà nước có vai trò tích cực trong vấn đề thu hút nứơc ngoài và liên doanh với các hãng lớn ,tạo điệu kiện cho ta áp dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ cao, mở rộng thị trường trong nước và vươn ra ngoài khu vực.Mặt khác theo trên đã nêu thì kinh tế nhà nước đang lắm giữ nhiều ngành sản xuất quan trọng nhất như là : năng lượng ,nhiên liệu, xi măng, hóa chất, ngoại thương, và đặc biệt hệ thống ngân hàng tài chính ..do đó nó giữ vai trò chi phối toàn bộ nền kinh tế .Vậy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nứoc là một tất yếu khách quan phù hợp với thực tiễn khách quan và cần thiết.
2/ Những biểu hiện của vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
2.1. Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô
Nhà nước sử dụng chung các biện pháp có thể can thiệp vào kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trừong kinh doanh lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng rưởng kinh tế, phát triển hài hòa xã hội phù hợp với truyền thống và đất nước
Trong kinh tế mỗi đơn vị doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế,trực tiếp mặt với kinh tế thị trường giải quyết vấn đề cơ bản :sản xuất cái gi?sản xuất như thé nào ? cho ai?...theo mục tiêu đối đa lợi nhuận. Khi đó doanh nghiệp sẽ đổ xô vào một ai đó thì tùy thuộc vào tối đa hóa lơị nhuận làm tăng sản xuất các mặt hàng kinh doanh. Ngược lại khi mà kinh doanh không thu được lãi thì doanh nghiệp đó sẽ có hai cách để lựa chọn. Hoặc tìm ra phương pháp khắc phục tình trạng không lãi bằng cách có những chính sách tăng sản xuất thu lãi, hoặc doanh nghiệp phải tự rút khỏi thị trường hàng hóa đó.Việc rút khỏi thị trường sẽ gây ra sự mất cân bằng giữa cung và cầu, ảnh hưởng tới nền kinh tế. Nhà nước sử dụng công cụ điều tiết, mà thành phần kinh tế nhà nước, (cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước) được coi là mang lại nhiều hữu hiệu nhất để nhà nước thực hiện sự điều tiết cơ chế thị trừong . Kinh tế nhà nước không chỉ định hướng sản xuất ,mà còn chi phối các chính sách xã hội kiềm chế được khuynh hướng độc quyền và sự tự phát kinh tế thị trường.Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau vừa có những tích cực vừa có những hạn chế do đó cần có “bàn tay” can thiệp chỉ đạo và chi phối những tiêu cực này. Ở đây chúng ta nói tới thànhg phần kinh tế chủ đạo đảm nhận vai trò này – nó phải có sức mạnh vật chất đủ lớn mới có thể thực hiện tốt nhất. Với những đặc điểm nói trên xét thấy kinh tế nhà nước đủ khả năng hoàn thành vai trò này. Với sản lượng hàng hóa và dịch vụ công cộng tương đối lớn tạo ra đem lại khả năng chi phối giá cả thị trường , dẫn dắt và định hướng thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp.
Chức năng này thể hiện rõ nét khi các doanh nghiệp tác động đúng thời điểm ở các lĩnh vực của nền kinh tế. Khi mà các doanh nghiệp dân doanh đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trừong thì các doanh nghiệp nhà nước sẽ rút khỏi thị trường đó, nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh. Tùy từng vùng mà chức năng này thể hiện rõ ra ngoài đặc biệt quan trọng ở các vùng sâu vùng xa
2.2. Làm đòn bẩy nhanh tăng trửong kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội
Một nền kinh tế được coi là phát triển nhanh khi có sự tăng trưởng cao ( biểu hiện là tỷ lệ tăng trưởng). Muốn vậy cần có một lực lượng làm đòn bẩy thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước ở nước ta tuy không đủ khả năng chi phối nền kinh tế một cách tuyệt đối xong nó cũng là một thực lực lớn thể hiện được chức năng đòn bẩy. Bởi nó chiếm giữ các ngành nghề mũi nhọn ,then chốt của nền kinh tế , có đủ khả năng chi phối môi trường xã hội và bảo đảm tính ổn định của nền kinh tế .Trong giai đoạn 1990- 1991 kinh tế nhà nước đạt một số chỉ tiêu sau:
Tổng sản phẩm : 34.5%
Thu nhập quốc dân : 27%
Tổng sản phẩm công nghiệp quốc doanh : 57%
Xây dựng cơ bản :76%
Nông nghiệp :3%
Các ngành bưu chính viễn thông ,vận tải đường sắt , hàng không : 100%
Kinh tế nhà nước góp phần hết sức quan trọng vào việc tạo ra sản phẩm cho xã hội và thu ngân sách , tạo nguồn lực đáng kể trong tay nhà nước để điều tiết quá trình phát triển theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó kinh tế nhà nước còn bảo đảm sức sản xuất và hoạt động cho nền kinh tế , thực hiện các nhiệm vụ xuất nhập khẩu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế giải quyết các vấn đề xã hội : việc làm, các phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, giảm thiểu những tiêu cực trong đời sống .
Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả , nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh ,bền vững của nền kinh tế. Các ngành các doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất kinh doanh của kinh tế nhà nước không ngừng nâng cao năng suất. So với trước thời kỳ đổi mới thi kinh tế tăng trưởng nhanh hơn hẳn .Trong thập kỷ 90 (1990- 1999) tăng trưởng kinh tế liên tục đạt mức cao và ổn định và đạt 9.3% vào năm 1996. Đặc biệt chúng ta đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch 5năm (1991- 1995). Đại hội Tám của Đảng đã xhỉ ra : “ Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội nhưng một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho cặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền dề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành ,cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa ,hiện đại hóa”. Cho tới đầu thế kỷ 21 mà cụ thể qua 5 năm (2000-2004) chúng ta đã có những bước phát triển khá cao , GDP tăng liên tục trong các năm tương ứng là 6.7%, 6.8%, 7.0%, 7,3% , 7,7% .Đó là những tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế đất nước. Còn trong thành phần kinh tế nhà nước thì so với năm 1991 năm 1992 thu nhập quốc dân tăng 5.3%. Hơn 10 năm từ 1995 tới 2005 kinh tế nhà nước luôn đóng góp trên 60% vào GDP và khoảng 66% trong xuất khẩu
2.3. Mở đường hướng dẫn , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, tạo nền tảng cho nền kinh tế và xã hội mới
Với lợi thế về vốn , kỹ thuật và lao động ,kinh tế nhà nước là đơn vị tổ chức mạnh, sản xuất lớn, kinh doanh hiệu quả, từng bước dẫn dắt các thành phần kinh tế khác theo bứơc đi của mình. Bằng nhiều hình thức hỗ trợ ,giúp đỡ các thành phần khác cùng phát triển theo định hướng XHCN, tính chất này của kinh tế nhà nước xuất phát từ vị tí chiến lược và khả năng chi phối đến môi trường kinh tế-xã hội. Có những ngành có vai trò quan trọnh như là yếu tố đảm bảo , tác nhân kích thích cho sự phát triển cho các ngành khác như giao thông vận tải thông tin liên lạc ...song do tính chất của những ngành này mà các thàn phần khác hoặc là không đủ vốn hoặc gặp khó khăn về quản lý trong thu hồi vốn nên không đầu tư. Để khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, khu vực kinh tế nhà nước đứng ra tổ chức xây dựng những cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ,tạo môi trường hoạt động kinh doanh có hiệu quả . Ở đây vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện là yếu tố mở đường kích thich sự phát triển toàn bộ theo định hướng nhất định.
“ Trong điều kiện nền kinh tế chậm phát triển nhất là trong hoàn cảnh nước ta, để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa –hiện đại hóa thì việc cần chấn chỉnh ,đổi mới và phát huy có hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước , làm tốt vai trò chủ đạo thúc đẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển , tập trung cố gắng của doanh nghiệp nhà nước vào những khâu then chốt như kết cấu hạ tầng, những công trình đòi hỏi kỹ thuật cao ,vốn đầu tư lớn thời gian thu hồi vốn chậm cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và của toàn xã hội”.(Văn kiện hội nghị lần VII ban chấp hành trung ương khóa VII)
Kinh tế nhà nước tạo nền tảng kinh tế - xã hội cho đời sống. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta thu nhập của dân cư còn thấp kém ,tĩch lũy nhỏ nên việc đầu tư lớn chỉ có thể thực hiện được bằng vốn nhà nước .. Mặt khác kinh tế nhà nước thông qua việc cung cấp hàng hóa tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy lưu thông giữa các ngành nghề và các khu vực ,góp phần bảo đảm việc cho vay vốn để phát triển sản xuất góp phần khắc phục sự khác biệt giữa các vùng. Qua đó làm tăng tinh thần hòa hợp cộng đồng và ý thức đoàn kết dân tộc.
III. Thực trạng, những đặc trưng của kinh tế thị trường ở Việt Nam. Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo
1/ Thực trạng kinh tế
Sau hơn mười năm đổi mới,kinh tế nước ta có nhiều biến chuyển lớn và nhìn chung là đạt được những thành tựu đáng kể có ý nghĩa quan trọng. Trong suốt thời kỳ đổi mới từ năm 1986 kinh tế Việt Nam luôn có tăng trưởng dương và ổn định. Điều này được minh chứng từ năm 1991 tới nay tăng trưởng luôn đạt mức cao có năm đạt 9,3% (năm 1996) các năm 2002,2003, 2004 tốc độ tăng trên 7%. Cơ cấu kinh tế ngành , khu vực có nhiều biến chuyển tích cực theo hướng thị trường định hướng CNXH. Các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển đi kèm là sự ổn định của nông nghiệp. Thực tiễn trong nền kinh tế nước ta từ trước tới nay kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất là các ngành trong công nghiệp. xây dựng, giao thông vận tải, dường sắt, hàng khôngHàng năm kinh tế nhà nước đóng góp một tỷ trọng lớn vào GDP ( khoảng 40% ) làm lực lượng quan trọng cung cấp tài chính cho ngân sách nhà nước ( khởang 60%)
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, kinh tế nhà nước cũng không ngừng đổi mới. Cơ chế quản lý cũ được thay bằng những chính sách quản lý phù hợp hơn đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế thị trường. Vấn đề hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước được quan tâm hơn vì đã là doanh nghiệp thì phải kinh doanh có lãi thì mới tồn tại và phát triển. Việc xem xét đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp cần có quan điểm toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội. Lấy việc sinh lời từ vốn làm tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện chính sách xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.Từ năm 1989 chúng ta chủ trương có sự sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta đã mạnh dạn thực hiện cắt giảm một lượng lớn các doanh nghiệp họat động trong kinh tế nhà nước nhưng không đem lại hiệu quả kinh tế. Từ khoảng 12000 doanh nghiệp năm 1990 chúng ta đã giảm xuống còn hơn 5000 doanh nghiệp năm 2000 . Nhưng tỷ trọng kinh tế nhà nước trong GDP vẫn tăng từ 29.4% năm 1990 lên 39.0% năm 2000.Nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ được chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác. Nhà nước đã thành lập 92 tổng công ty lớn trên nhièu lĩnh vực then chốt. Tính đến cuối năm 2002 số lượng chuyển đổi này là 1035 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 907 doanh nghiệp, giao khoán 76 doanh nghiệp, bán 46 doanh nghiệp khoán cho thuê 6 doanh nghiệp. Nhờ vậy mà quy mô vốn tự có và vốn ngân sách cấp cho các doanh nghiệp tăng nên; các doanh nghiệp có thêm vốn đầu tư, hiện đại hóa máy móc thiết bị, giúp năng suất lao động tăng cao đem lại hiệi quả kinh tế. Đồng thời sau khi thay đổi cơ chế quản lý cơ cấu kinh tế cũng có những thay đổi đáng kể. Mặc dù tổng sản phẩm kinh tế nhà nước giảm từ 37% năm1990 xuống còn 34.5% năm 1998 nhưng một số mặt lại có sư tăng trưởng cao cụ thể : tổng sản phẩm công nghiệp tăng từ 56% nên 57%; khối lượng vận chuyển hàng hóa tăng từ 68% tới 72%. Trong việc thực hiện cơ chế mới, một số cơ sở kinh tế nhà nước đã chủ động xác định và thay đổi phương thức sản xuất và kinh doanh, tìm thị trường đầu ra, tạo thêm nguồn vốn bằng nhiều cách ( trong đó có đi vay và tự có), trình độ kỹ thuật đã được đổi mới, chủ động tiếp cận các thị trường xã hội và đã đứng vững. Nhờ vậy mà các cơ sở kinh tế nhà nước vẫn phát triển và kinh doanh có lãi. Chẳng hạn năm 1991 sản xuất nói chung của cả nước tuy gặp nhiều khó khăn nhưng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước vẫn tăng 15.6% so với năm 1990.Trong đó bộ công nghiệp nặng tăng 32.5% bộ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ tăng 26%, nhiều sản phẩm quan trọng tăng đáng kể như dầu thô tăng 4,5% ,thép tăng 42,5% xi măng là 26,7%.....
Có một thực tế khó phủ nhận đó là thành phần kinh tế nào cũng có những khuyêt tật của nó. Trong những năm qua thành phàn kinh tế nhà nước đã có vai trò lớn của nền kinh tế quốc dân nhưng cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm cần phải được xem xét và khắc phục:
Trước hết chúng ta quá chủ quan và nóng vội đi lên CNXH nên đã mở rộng kinh tế nhà nước quá tải và quá khả năng điều hành của các cấp quản lý, vượt qua yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Quy mô các doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ (vốn bình quân chỉ khoảng 1.2 tỷ đồng), cơ cấu có nhiều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu quản lý yếu kém chưa thật tự chủ. Đến tháng 5 năm 2001 mới chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp nhà nước được công gnhận đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả kinh doanh của các xí nghiệp cũng chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự giúp đỡ của nhà nước: Từ năm 1997 tới 2000 ngân sách nhà nứoc đã đầu tư thêm cho các doanh nghiệp nhà nước gần 82000 tỷ đồng ngoài ra còn giảm thuế 1351 tỷ, xóa nợ 10888 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ,giãn nợ 540 tỷ, đầu tư cho vay ưu đãi 9000 tỷ . Đến năm 2000 số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi mới chỉ là 40% bị lỗ là 29%
Hậu quả của việc thành lập tràn lan các xí nghiệp quốc doanh dãn đến một số bộ phận bị giải thể. Từ năm 1990 đến 2000 đã cắt giảm hơn một nửa bộ phận nghiệp,gần 6000 lao động bị thất nghiệp. Sự việc đó đã làm phát sinh những vấn đề trong xã hội :tệ nạn các tiêu cực khác Cơ cấu kinh tế vẫn còn mất cân đối về tỷ trọng ngành , khu vực, điều đó làm cho sự thiếu vắng những ngành sản xuất cần cho cuộc sống. Nhiều doanh nghiệp của kinh tế nhà nước gặp khó khăn khi chuyển sang cơ chế mới thì lại bị thiếu về vốn ,thị trường , kinh doanh lỗ kéo dài Tình trạng nợ lần làm mât khả năng phục hồi và thanh toán, theo thống kê thì trong số nợ 8000 tỷ có 60% là của thành phần kinh tế nhà nước
Một hạn chế quan trọng mà góp phần đáng kể cho sự kém hiệu quả đó là bộ phận đội ngũ cán bộ quản lý. Đại đa số các cán bộ đều từ chế độ cũ chuyển sang điều hành trong cơ chế mới do vậy từ tác phong tới trình độ năng lực và kinh nghiệm có nhiều hạn chế không phù hợp với cơ chế mới.Đó sẽ là khuyết điểm lớn nhất cần khắc phục thì mới có thể đem lại hiệu quả của nền kinh tế
Nguyên nhân của những hạn chế :
Nhà nước ít vốn, thực hiện đầu tư dàn trải và với phương trâm chỉ đủ tồn tại mà không có sự tăng trưởng đi nên không có sức cạnh tranh. Chế đọ phân phối trong doanh nghiệp nhà nước không phù hợp với kết quả kinh doanh, không có sự gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích vật chất với trách nhiệm vật chất và năng suất lao động nên không khuyến khích sản xuất. Cán bộ quản lý thiếu tiêu chuẩn lãnh đạo cũng như trách nhiệm trước cơ quan đoàn thể
Sự trì trệ do có ỷ lại vào nhà nước thực hiện vẫn theo cơ chế cũ theo kế hoạch không, đưa ra kế hoạch phát triển, thiếu sáng tạo năng động. Sự độc quyền của kinh tế nhà nước làm cho sự trì trệ càng tăng cùng với không đổi mới công nghệ. Rồi những chính sách đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật tay nghề cao trong các lĩnh vực còn kém hiệu quả
2/ Đặc trưng kinh tế thị trường ở Việt Nam
Chúng ta đã biết cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta nêu ra sáu đặc trưng lớn của xây dựng chế độ XHCN trong đó có đặc trưng về kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Chế độ công hữu bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Khi xây dựng xong XHCN thì chế độ công hữu sẽ hiếm ưu thế tuyệt đối. Đó là chuyện lâu dài, còn trước mắt chúng ta vẫn đang trong giai đoạn quá độ. Giai đoạn này cũng là một thử thách khó khăn và kéo dài nên việc phát triển kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan. Khi đó chúng ta sẽ tận dụng được nhiều điều kiện , tập trung mọi nguồn lực để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần nhân dân
Trước đây do chủ quan duy ý chi nóng vội xây dựng CNXH thông qua các biện pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa xóa bỏ các thành phần kinh tế được coi là phi chủ nghĩa xã hội. Thực tế thì sau gần 20 năm đổi mới chúng ta đi nên xây dựng từ một nước nghèo nàn lạc hậu chậm phát triển đã lấy việc phát triển lực lượng sản xuất làm ưu tiên, xây dựng các quan hệ sản xuât mới. Theo tinh thần đó trong báo cáo của bộ chính trị đã chỉ rõ : “ tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất và hội nhập để thu được nhiều thành quả nhất”
Một nền kinh tế thị trường vơi các quan hệ thị trường được xác lập có vai trò quyết định với sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế có nhiều thành phần cạnh tranh có trình độ xã hội cao thúc đaayr sự kết hợp hài hòa giữa sản xuất và tiêu dùng. Nhà nước dùng luật pháp các kế hoạch định hướng và chinh sách kkinh tế để dẫn dắt thị trương phát triển mạnh điều tiết phân phối đảm bảo phúc lợi cho toàn dân thực hiện công bằng xã hội
Đặc trưng của kinh tế thị trường ở Việt Nam được thể hiện ở các mặt sau:
2.1. Nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Kinh tế nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản :sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể , sở hữu tư nhân. Ba hình thức sở hữu đó hình thành nên sáu thành phần kinh tế cơ bản ( hiện tại) và nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế có sở hữu công cộng mà còn khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế khác để hình thành nên một thị rộng lớn bao gồm các đơn vị sản xuất khác nhauvà bình đẳng
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có nguyên tắc và là sự khác biệt giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường tư bản. Tính định hướng XHCN của kinh tế thị trường nước ta đã quy định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
2.2. Sự phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội
Đây là đặc trưng nổi bật nhất của kinh tế thị trường XHCN. Hai mặt kinh tế và xã hội được kết hợp với nhau thông luật pháp ,các chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Thực hiện phúc lợi xã hội thông qua ngân sách đề ra vừa khuyến khích mọi người làm giàu chính đảng và tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. Chúng ta gắn kinh tế xã hội và quốc phòng vừa đảm bảo ổn định chính trị vừa phát triển kinh tế từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nâng cao đời sống nhân dân
Sự thành của nền kinh té thị trường không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải nâng cao chất lượng cuộc sống ,tiền lương, thu nhập thực tế, y tế giáo dụ phát triểnTuy có sự phân hóa giàu nghèo nhưng không làm ảnh hưởng tới phúc lợi xã hội và vị trí của mỗi người. Cơ chế kinh tế thị trường không làm xuống cấp hay thoái hóa trong các lĩnh vực văn hóa xã hội, các quan hệ đạo dức nếu biết gắn kết kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội
2. 3. Tăng trưởng và phát triển bền vững
Thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững ở một nước chậm phát triển như nước ta là điều không hề đơn giản. Nhưng không tăng trưởng và phát triển bền vữgn thì không thể thực hiện được mục tiêu “ dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn minh”và theo XHCN được. tăng trưởng gắn với sự lớn mạnh của nhà nước, có tăng trưởng kinh tế mới có thu nhập cho nền kinh tế, nhà nước có điều kiện nâng cao vai trò của mình trong hoạt động xã hội. Suy cho cùng một nhà nước mạnh tức có tiềm lực kinh tế lớn phát triển bền vững. Thực tế nước ta sau gần hai mươi năm đổi mới đã có sự tăng trưởng cao ổn định
2. 4. Tốc độ phát triển kinh tế cao
Đây là yêu cầu rất quan trọng của định hướng XHCN nhưng cũng không phải là điều kiện đủ bởi lẽ nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng lại không có nền kinh tế XHCN. Trong nền kinh tế thị trường , hệ thống thị trường phải được phát huy đầy đủ mỗi thể thức kinh tế có lợi ích riêng và là cchủ thể cuả thị trường, tham gia hoạt động cạnh tranh với nhau và hình thành một thị trường, một mạng lưới sản xuất có trật tự. Do đặc trưng của cơ chế thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu cạnh tranh là môi trường cạnh tranh, vì vậy bắt buộc các thể chế kinh tế đều phải họat động với tốc độ cao để có thể đứng vững trên thị trường đầy tính cạnh tranh này
2.5 Vai trò lãnh đạo:
Dân chủ, công bằng xã hội bằng phân phối và mở rộng phúc lợi xã hội cho toàn dân, bằng hệ thống hàng hóa công cộng; đồng thời mở rộng và hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.Điều đó đòi hỏi kinh tế nhà nước phải đi đầu trong việc phát triển kinh tế và tiên phong trong lãnh đạo
2.6. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế mở hội nhập với thế giới và khu vực
Đây là xu hướng chung của các nền kinh tế trên thế giới và cũng là đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Nhưng sự khác biệt là so với nền kinh tế đóng trước kia, còn trong điều kiện hiện nay chỉ có hội nhập vào các thị trường xung quanh mới có thể thu hút được vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý cũng như khai thác tốt các tièm năng trong nước để phát triển kinh tế theo kiểu rút ngắn và đón đầu như nước ta.Trong văn kiện đại hội Đảng khẳng định: “ Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế hàng nhập khẩu bằng hàng sản xuất trong nước có hiệu quả cao”. Chúng ta thực hiện đa dạng quan hệ kinh tế quốc tế đẻ gắn kinh tế thị trường trong nước với các thị trường ngoài thế giới.Nhưng một chú ý là luôn phải bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, không vì kinh tế mà trở thành phụ thuộc.
Chúng ta dã hội nhập vào kinh tế khu vực mậu dịch tự do ASEAN và chuẩn bị tham gia vào tổ chức thương mại thế giói WTO( world trade organnization ), cần có sự chuẩn bị tíchcực ngay từ bây giờ không chỉ ở cấp trung ương mà còn ở các cơ sở, các doanh nghiệp Hội tụ đầy đủ các điều kiện hội nhập, từ đó có biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường mới và tồn tại phát triển cao hơn
2.7. Sự phát triển gắn với giữ gìn phát huy bản sắc dân tộc
Khi chuyển nền kinh tế nước ta sang nề kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường thì tronh thực tế cũng nảy sinh những vấn đề: thương mại hóa cả quan hệ xã hội, sống vụ lợi, sùng bái đồng tiền, coi thừong các giá trị nhân văn, sói mòn truyền thống văn hóa đạo đức dân tộc. Việc mở cửa hội nhập đồng thời sẽ du nhập những nếp sống văn hóa lai căng, mất gốc .Do đó chúng ta coi việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường là phương tiện con đường thực hiện mục tiêu XHCN chư không phải theo con đường tư bản chủ nghĩa.Vì vậy khi xây dựng nền kinh té thị trường và hội nhập cần quan tâm giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa các dân tộc trên thế giới để làm giàu thêm văn hóa đất nước. Như nguyên tổng bí thư Đỗ Mười đã nói : “ Trong điều kiện mở rộng các quan hệ đối ngoại càng phải coi trọng giũ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu văn hóa cảu tangăn chặn sư xâm nhập của văn hóa độc hại lai căng mất gốc
3/ Các biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo
Từ thực trạng nền kinh tế nói trên và những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chúng ta cần có những biện pháp nâng cao vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước nhằm đưa kinh tế đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Trong doanh nghiệp nhà nước bao gồm donh nghiệp 100% vốn nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa, do vậy cần không ngừng đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả của các hình thức doanh nghiệp này:
3.1 Định hướng sắp xếp phát triển các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và họat đông công ích
* Với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Với các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực độc quyền nhà nước : vật liệu nổ, hóa chất độc, hệ thống truyền tải quốc gia, mạng thông tin trong nước và quốc tế, sản xuất thuốc lá điếuthì nhà nước vẫn nên giữ 100% vốn nhằm quản lý dễ dàng hơn
Trong các ngành và lĩnh vực : buôn bán lương thực, bán xăng dầu, sản xuất điện, khai thác khoáng sản quan trọng, sản xuất một số sản phaamr cơ khí, điện tử công nghiệp hàng tiêu dùng, vận tải hàng không, thuốc chữa bệnh thì nhà nước nên cổ phần hóa một phần nhằm tác động tới các lợi ích cho các doanh nghiệp
Nhà nước chỉ nên giữ cỏ phần quan trọng trong một số trường hợp cần thiết còn nên chuyển một số doanh nghiệp giư 100% vốn sang cổ phần hóa
Chỉ nên thành lập cá doanh nghiệp vốn toàn của nhà nước trong các ngành mà nhà nước thấy cần độc quyền hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia cổ phần hóa
* Các doanh nghiệp hoạt động công ích:
Với các doanh nghiệp hoạt động công ích trong các lĩnh vực: in bạc và chững chỉ có giá, điều hành bay, bảo đảm hàng hải, sửa chữa vũ khí, các trang bị về quốc phòng doanh nghiệp được giao nhiệm vụ đặc biệtvà các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế và quốc phòng theo quyết định của chính phủ. Các doanh nghiệp của quân đội và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV291.doc