1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2
2.1.Kinh tế thị trường và sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2
2.2.Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 5
3.THỰC TIỂN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 9
4.GIẢI PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA 13
4.1.Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta 13
4.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ tạo điệu kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển thuận lợi 14
4.3.Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị trường cơ bản, theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh 14
4.4.Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo 16
4.5. Khẳng định và nâng cao vai trò của Nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước 16
5.Kết luận 18
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5294 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng đó là: hiệu quả kinh tế, dân chủ và công bằng.
Song song với việc phát triển hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa ở các nước phương Tây; mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ra đời nhằm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội phát triển hơn, công bằng hơn, tốt đẹp hơn; Và thực tế trong thời gian tồn tại khoảng gần 70 năm, nền kinh tế chủ nghĩa xã hội được phát triển theo mô hính kế hoạch hoá tập trung đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên do quá nóng vội trong cách thực hiện, quá nóng vội trong việc loại bỏ kinh tế hàng hoá và áp dụng vội vàng nền kinh tế phi thị trường, bình quân chủ nghĩa, không năng động, kịp thời thay đổi khi cần thiết đã làm cho mô hình với nhiều ý tường tốt đẹp đã không thành công.
Như vậy có nghĩa là nếu chúng ta áp dụng đơn thuần mô hình kinh tế thị trường như ở các nước tư bản chủ nghĩa hoặc xa rời thực tiễn khi áp dụng mô hình kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu thì có thể đất nước lại đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc lại đi theo vết xe đổ của mô hình kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông và Tây Âu đã gặp phải.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại hội VI (tháng 12/1986), Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan điểm mới về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong đó thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội;
Đến Đại hội VIII của Đảng đưa ra một kết luận mới hết sức quan trọng, đó là: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại; nó tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Nhưng lúc đó mới nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, chứ chưa dùng đến khái niệm “kinh tế thị trường”.
Phát huy những kết quả đổi mới đã đạt được, qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết lý luận và thực tiễn; Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối chiến lược nhất quán.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, cần có sự thống nhất về nhận thức, quan điểm, mục tiêu và các chủ trương giải pháp giữa các cấp các ngành, đặc biệt là phải làm cho nhân dân nhận thức được sự đúng đắn trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn như vậy cần đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và đưa các vấn đề lý luận gần gũi và phục tốt cho thực tiễn hơn.
Như vậy có thể thấy rằng, trong quá trình đổi mới kinh tế đất nước, có một xu hướng tổng quát nhất đó là chuyển sang cơ chế thị trường và phát triển kinh tế thị trường , và điều này được thực khẳng định trên cả lý luận và thực tiễn phát triển đất nước trong thời gian qua.
2.2.Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiận và đặc điểm cụ thể của Việt Nam; là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc bản chất của xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; động lực chung để phát triển đất nước là đại đoàn kết dân tộc; đồng thời coi trọng khuyến khích cả vật chất và tinh thần, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những yếu tố, phương tiện và công cụ của kinh tế thị trường được sử dụng, phát triển để xây dựng chủ nghĩa xã hội; tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế ngày càng được hình thành rõ nét hơn trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể khái quát lại như sau:
Thứ nhất, đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vai trò làm chủ xã hội của nhân dân và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, được nhân dân đồng tình và là chủ thể xây dựng; là sự nắm bắt và tự giác vận dụng sáng tạo xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của nền văn minh nhân loại, sử dụng và phát huy cao độ vai trò tích cực của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát trong kinh tế thị trường, nhằm thực hiện có kết quả mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để Việt Nam có thể hội nhập với thế giới, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất không ngừng được đổi mới và hoàn thiện, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm giải phóng triệt để và thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất, cải thiện nhanh đời sống của nhân dân, tạo ra sự đồng thuận ngày càng cao trong xã hội, tạo động lực thu hút mạnh mọi nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển, và giữ vững ổn định chính trị - xã hội; lấy phát triển lực lượng sản xuất làm động lực để không ngừng hoàn thiện và đổi mới quan hệ sản xuất.
Thực hiện xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, cùng phát triển lâu dài; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội; nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài được thu hút mạnh; kinh tế cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất và đầu tư.
Thứ ba, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội; thực hiện công bằng trong phân phối để tạo động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội; trong đó việc hình thành và phát triển một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, có sức cạnh tranh cao, có uy tín lớn là một nhiệm vụ chiến lược.
Mọi công dân có quyền tự do đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu hợp pháp; có quyền bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển, trong cung cấp và tiếp nhận thông tin.
Nhà nước định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự hình thành, phát triển của các thị trường hàng hoá và dịch vụ, tài chính (vốn và tiền tệ), bất động sản, sức lao động, khoa học và công nghệ…, Nhà nước tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi để phát huy các nguồn lực cho phát triển theo cơ chế thị trường, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương, các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường; hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội quan trọng; đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật; tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế, sử dụng một số biện pháp để hỗ trợ thị trường trong nước khi cần thiết, không trái với các cam kết khi hội nhập. Nhà nước thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển không phân biệt hình thức sở hữu, đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm, đối với một số mục tiêu (như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo, khắc phục những rủi ro), một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta. Nhà nước quan tâm bồi dưỡng, đào tạo và biểu dương các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt.
Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, hình thành một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên chế độ cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả; chủ yếu dưới hình thức công ty cổ phần nhiều chủ sở hữu; phát huy vai trò nòng cốt, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, một số lĩnh vực công ích; làm nòng cốt trong các tập đoàn kinh tế lớn có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Các loại hình kinh tế tập thể, nhất là các hợp tác xã được đổi mới và phát triển mạnh. Kinh tế tư nhân được khuyến khích và phát triển mạnh không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm. Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành nghề, các lĩnh vực kinh doanh quan trọng.
Thứ năm, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới thành nguồn lực tổng hợp để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước nhanh và bền vững; trong đó nội lực là nhân tố quyết định đối với sự phát triển, các nguồn lực bên ngoài có vai trò rất quan trọng giúp cho phát huy nội lực mạnh hơn.
Nền kinh tế độc lập tự chủ trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập và hợp tác quốc tế dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hoá dân tộc trong hội nhập kinh tế quốc tế, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm lợi ích cao nhất và là nguyên tắc chủ đạo, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tận dụng điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, đổi mới công nghệ và trình độ quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của sản phẩm và dịch vụ Việt Nam tại thị trường trong nước và trên thế giới.
3.THỰC TIỂN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tìm hiểu những vấn đề hiện đang cản trở sự phát triển của đất nước. Hầu hết tất cả các chính sách kinh tế, xã hội, chính trị đều đã được nghiên cứu kỹ càng để tìm ra những hướng giải quyết hiệu quả. Và kết quả là chúng ta đã đạt được những thành công ngoạn mục trong việc phát triển đất nước, kinh tế có tốc độ phát triển cao, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, tình hình chính trị khá ổn định.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều vấn đề thực hiện một cách dở dang, kém hiệu quả. Kết quả phát triển thu được nhiều nhưng tổn thất cũng rất lớn; chất lượng tăng trưởng và phát triển thấp, ví dụ như nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhưng đi liền với nó là lạm phát năm 2007 ở mức 12%. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế còn yếu kém và chậm được cải thiện;…
Có thể thấy đây là hậu quả của cách làm nửa vời, ra thật nhiều quyết định, muốn đồng thời đạt được thật nhiều mục tiêu, trong khi thiếu điều kiện thực thi bởi cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay còn yếu kém so với sự phát triển như vũ bão của thế giới, không tính kỹ đến điều kiện bảo đảm thực thi, nhất là điều kiện về chất lương bộ máy quản lý và con người khi ra quyết định và chọn mục tiêu. Vốn ít nhưng bày ra nhiều công trình, mỗi công trình lại rất tốn vốn. Kết cục là dở dang hầu như ở tất cả những việc đặt ra để làm và hậu quả để lại rất lớn. Không biết bao nhiêu công trình, các toà nhà, các dự án được xây dựng xong phần khung rồi lại để đó chờ vốn cấp xuống. Đầu tư nhiều nhưng dàn trải và không hiệu quả. Như vậy rõ ràng nền kinh tế thị trường không vận hành tốt, hiệu quả thấp nên định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một điều vô cùng khó thực hiện.
Nguyên nhân vì đâu dẫn đến tình trạng trên. Đó là do chưa hiểu được bản chất của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngay trong các cấp lãnh đạo, những người nắm quyền quản lý đất nước, những người đưa ra những quyết định mang tính định hướng cho sự phát triển của đất nước vẫn còn có những người chưa thực sự hiểu được bản chất mối quan hệ giữa nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế sau hơn 20 năm đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị trường, chúng ta vẫn chưa thể khẳng định nền kinh tế nước ta đã là nền kinh tế thị trường hoàn toàn, mà nó mới chỉ là giai đoạn đầu, giai đoạn sơ khai của kinh tế thị trường, ở đó các yếu tố để kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả còn yếu như cơ sở hạ tầng còn yếu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao…tất cả những điều đó là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của kinh tế đất nước.
Về vấn đề xây dựng hệ thống thể chế thị trường, Đại hội IX của Đảng đề ra mục tiêu hình thành và phát triển đồng bộ hệ thống thể chế thị trường với tư cách là sự đột phá chiến lược. Đây là một định hướng chiến lược đúng, đáp ứng đòi hỏi đang ngày càng gay gắt của thực tế.
Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá X, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nói: "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Chúng ta phải vừa làm, vừa đúc kết thực tiễn. Vấn đề đặt ra là phải tạo được sự thống nhất nhận thức, quan điểm, mục tiêu và các chủ trương, giải pháp để đi đến sự thống nhất trong hoạt động thực tiễn, từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay có thể nhận thấy rằng bước tiến theo hướng này thực sự còn chậm. Hệ thống thể chế thị trường hình thành và phát triển lệch pha và lệch nhịp nhau. Bằng chứng: thị trường bậc cao nhất (thị trường chứng khoán) ra đời trong khi thị trường các yếu tố đầu vào cơ bản nhất (thị trường đất đai, thị trường lao động) hãy còn chưa được thừa nhận chính thức;… Kết cục là thị trường vận hành chưa đạt được hiệu quả cao, thiếu ổn định. Nguyên nhân tạo nên sự phát triển chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ trong thể chế kinh tế thị trường tựu chung ở hai nguyên nhân lớn là: Chưa nhận thức đúng và đầy đủ bản chất, nguyên tắc và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, do vậy, chưa hiểu rõ thực chất và vai trò của tính đồng bộ hệ thống và trật tự bước đi của quá trình hình thành các thể chế kinh tế thị trường. Bên cạnh đó là thái độ hoài nghi thị trường vẫn còn nặng, cách tiếp cận đến kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn bị chi phối quá mạnh bởi thiên kiến tư tưởng. Không vượt qua được những điểm yếu căn bản đó trong tư duy, trong nhận thức thì quá trình chuyển sang thị trường và phát triển kinh tế thị trường chắc chắn còn gặp nhiều ách tắc.
Về vấn đề sở hữu, vấn đề mấu chốt của một chế độ kinh tế. Việc thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần rõ ràng là một bước tiến căn bản. Song không đủ và đang ngày càng trở nên rất không đủ để có thể giải thích đúng thực tiễn kinh tế Việt Nam hiện nay và tạo thành cơ sở lý luận cho sự phát triển của nền kinh tế hiện thực. Nếu chỉ thừa nhận thôi không đủ, vấn đề quan trọng là thực hiện sự bình đẳng, dân chủ đối với các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội. Sự kỳ thị thực tiễn đối với các thành phần còn rất nặng, thể hiện ở môi trường kinh doanh, ở điều kiện tiếp cận đến các nguồn lực và điều kiện phát triển. Mặc dù đã có những chính sách hết sức cởi mở để thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, khích lệ các cá nhân tham gia vào thị trường nhưng có thể rất dễ dàng nhận thấy vẫn còn tồn tại sự phân biệt giữa các doanh nghiệp có hình thức sở hữu khác nhau. Dành đặc ân, đặc quyền cho các tổng công ty, các tập đoàn của Nhà nước. Cơ chế cạnh tranh bình đẳng đó là nguyên lý tối cao của kinh tế thị trường, nhưng thực tế chưa thực sự được tôn trọng và phát triển trong nền kinh tế nước ta.
Mong muốn phát triển nền kinh tế thị trường - chế độ sở hữu tư nhân giữ vai trò then chốt - nhưng đề cao vai trò then chốt của kinh tế Nhà nước một cách quá mức. Mong muốn xây dựng một nền kinh tế thị trường phát triển nhưng cũng muốn có được hệ thống sở hữu chuẩn xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác là quá đề cao sự điều tiết kinh tế của Nhà nước dựa trên nền tảng sở hữu Nhà nước mà xem nhẹ vai trò cơ chế thị trường. Mâu thuẫn này vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Chừng nào vấn đề này chưa được giải quyết tốt, chừng đó việc phát huy được hết tiềm lực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước còn gặp khó khăn.
Thực tế hiện nay cho thấy, khu vực kinh tế chủ đạo – kinh tế nhà nước - chỉ đảm bảo việc làm cho 2 triệu trong tổng số 40 triệu người lao động. Tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp cũng không phải là lớn; bên cạnh đó xu hướng cổ phần hoá doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, liệu chăng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang ngày càng bị thu hẹp cả về phạm vi và mức độ ảnh hưởng, cần giải thích rõ được vấn đề này mới có thể tạo được niềm tin vào định hướng phát triển của đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đề ra và thực hiện trong những năm qua.
Về nguyên tắc, chức năng nhà nước - thị trường, Nhà nước - doanh nghiệp. Sự phân định đó đang diễn ra theo kiểu cái gì Nhà nước không làm được thì thị trường và doanh nghiệp mới được làm. Cũng không phải theo cách Nhà nước cố gắng làm mọi thứ tối đa có thể, phần còn lại mới là của thị trường, của doanh nghiệp.
Hiện nay Nhà nước ta đang tham gia quá sâu, quá rộng vào các chức năng của thị trường và doanh nghiệp trong khi nhiều lĩnh vực thuộc chức năng của mình lại chưa được hoàn thành tốt. Đó là tình trạng “nắm những cái không cần nắm; buông những cái không được buông”.
Nhìn chung cách xử lý vấn đề hiện nay chưa đặt trên lợi ích phát triển nền kinh tế thị trường như một tổng thể. Nó đang bị chi phối bởi tầm nhìn và lợi ích cục bộ của các bộ, ngành. Đó là cách làm phi thị trường nó sẽ có cản trở, thậm chí phá hoại định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
4.GIẢI PHÁP GÓP PHẦN THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA
4.1.Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, một trong những bài học lớn Đại hội X của Đảng đã rút ra là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn”.
4.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ tạo điệu kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển thuận lợi
Do nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật và quan hệ sản xuất chủ yếu còn nhiều yếu kém, vì thế nó kìm hãm sự phát triển của kinh tế thị trường và làm chậm quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chỉ có đầu tư mạnh mẽ cho khoa học công nghệ, giáo dục đảo tạo để nâng cao trình độ kỹ thuật, trình độ nguồn nhân lực và từ sự phát triển của lực lượng sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất, tạo nên một nền tảng vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiến hành thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, làm điểm tựa cho việc phát triển đất nước.
Khắc phục vấn đề làm việc thiếu định hướng, cần xác định rõ ràng các dự án trọng tâm cần đầu tư phát triển, tránh tình trạng đầu tư nhiều nhưng dàn trải và kém hiệu quả. Khi mà kinh tế đất nước đang còn nhiều khó khăn, cần có định hướng rõ ràng trong việc sử dụng vốn để làm sao đạt được hiệu quả cao nhất. Định hướng phát triển kinh tế phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng tỉnh, để có thể phát huy hết lợi thế của các vùng miền trên cả nước. Tránh tình trạng phát triển dạng phong trào, làm nửa chừng rồi bỏ; gây ra sự lãng phí trong đầu tư.
4.3.Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các thị trường cơ bản, theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế kiểm soát giá cả. Phát triển mạnh thương mại trong nước ở tất cả các vùng và tăng nhanh giá trị xuất khẩu.
Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ cao cấp, có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hóa các loại hình du lịch. Phát triển nhanh hơn các dịch vụ vận tải, viễn thông, dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ tư vấn...
Từng bước phát triển vững chắc thị trường tài chính, hoàn thiện thị trường tiền tệ; lành mạnh hóa các hoạt động giao dịch vốn ngắn hạn và mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường. Phát triển mạnh thị trường vốn, thúc đẩy mạnh hơn hoạt động của thị trường chứng khoán gắn với tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phát triển hình thức cổ phần và huy động các nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển. Củng cố ngân hàng nhà nước, lành mạnh hóa, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, công ty mua bán nợ, công ty đầu tư chứng khoán...
Phát triển thị trường bất động sản (bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất): bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hóa một cách thuận lợi; làm cho đất đai thật sự trở thành nguồn vốn cho phát triển; từng bước làm cho thị trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường tính pháp lý, kỷ luật, kỷ cương trong quản lý đất đai. Nhà nước điều tiết giá đất bằng quan hệ cung - cầu về đất đai và thông qua các chính sách về thuế có liên quan đến đất đai. Nhà nước vừa quản lý tốt thị trường bất động sản vừa là nhà đầu tư bất động sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh doanh bất động sản...
4.4.Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12685.doc