MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
A. Lý luận chung về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. 2
Chương I Cơ sở hình thành nền kinh tế thị trường 2
I. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường 2
II. Thị trường - cơ chế thị trường. Đặc điểm của sự phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường. 7
Chương II Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. 11
I. Sự phát triển kinh tế phải gắn liền sản xuất với các vấn đề xã hội. 11
II. Phát triển kinh tế với tốc độ cao, luôn bền vững ổn định gắn liền với sự ổn định chính trị. 12
III. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 13
IV. Hoà nhập kinh tế nước ta vào hệ thống kinh tế thế giới về mọi mặt. 15
B. Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 16
I. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. 16
II. Các giai đoạn và biện pháp hình thành kinh tế thị trường theo hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. 20
C. Vai trò và đặc điểm quản lý kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 23
I. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước. 23
II. Đặc điểm quản lý kinh tế của Nhà nước. 25
III. Chức năng, công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 27
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đạt mức thu nhập cao và ngược lại. Sự biến động trong phân phối theo lao động và sự khác nhau về mức phân phối thu nhập của các thành viên của các cơ sở khách nhau cũng là điều không thể trách khỏi.
Do những tác động của quy luật phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường cho nên đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước nhằm xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích toàn dân, lợi ích của cơ sở sản xuất kinh doanh và lợi ích của cá nhân người lao động. Không thể chỉ chú trọng lợi ích này mà xem nhẹ lợi ích kia. Nhưng trong bất cứ tình huống nào, sự can thiệp của Nhà nước cũng không được triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh của các chủ thể là lợi ích kinh tế của cơ sở ngày càng nhiều. Do vậy, một mặt, Nhà nước cần khống chế mức lương tối thiểu phù hợp với từng thời điểm lịch sử; mặt khác, cần có sự điều tiết hợp lý, vừa khuyến khích cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh tế hơn nữa, vừa ngăn chặn sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập trong nội bộ các cơ sở thuộc chế độ công hữu, giữa tiền công và tiền lương của các đơn vị sản xuất kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp.
*
* *Chương II
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta.
Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là xác định nội dung của thể chế thị trường, định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đây là vấn đề vừa phức tạp vừa cấp bách, bởi lẽ nếu không có thể chưa đúng với các đặc trưng cơ bản nhất làm định hướng sẽ kéo dài tình trạng mò mẫm, không xác định được lộ trình tổng quát và mục tiêu cuối cùng của bước chuyển. Chúng ta đang có nhiều cách phân tích, lý giải, bình luận khác nhau khi nhằm vào sự vận động của nền kinh tế hiện nay. Để có một cái nhìn tương đối thống nhất về đặc điểm cơ chế vận hành của thị trường hiện nay, cũng như luận giải đặc trưng mô hình thị trường hướng tới cần có cách tiếp cận chung.
Để phân tích các đặc điểm và đặc trưng của cơ chế thị trường trên cơ sở nhìn lại thực tiễn những năm đổi mới, đồng thời có liên hệ đến bước đi, những quá trình có quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang tìm con đường tương tự.
Với cách tiếp cận trên, em xin được nên lên một vài đặc trưng lớn cảu cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta.
I. Sự phát triển kinh tế phải gắn liền sản xuất với các vấn đề xã hội.
Chúng ta từng bước thực hiện vì quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế tạp trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới một cơ chế thị trường đích thực.
Cơ chế đó phát huy vai trò điều tiết cảu thị trường hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả được ổn định dần, lạm phát được đẩy lùi và tiến tới ngăn chặn.
Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp cũng đã giải phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu của thị trường. Cơ chế này đã thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề sở hữu với thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của chính sách kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ thái đọ kỳ thị phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang chính sách đối xử bình đẳng, đồng thời cũng xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa không thể chỉ dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với nó phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập thực tế tăng trưởng mạnh y tế, giáo dục phát triển, sự phân hoá giàu nghèo không làm phương hại lớn tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số dân chúng. Cơ chế thị trường không thể dẫn đến sự xuống cấp, thậm chí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, các quan hệ về đạo đức truyền thống xã hội.
Trên khía cạnh này, thành tựu của mấy năm chuyển đổi chẳng những không nhiều thậm chí còn đánh mất đi một số giá trị dã đạt được trước đây. Nhận thấy được điều đó, Nhà nước đã từng bước can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế nhằm phát triển nó phải gắn liền sản xuất với các vấn đề xã hội.
II. Phát triển kinh tế với tốc độ cao, luôn bền vững ổn định gắn liền với sự ổn định chính trị.
Chúng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức nó phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường mà tiếp tục ổn định chính trị, đưa cải cách tiến lên bước phát triển mới.
Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng Xã hội Chủ nghĩa là không thay đỏi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Khẳng định, chủ nghĩa xã hội có thể sử dụng các công cụ phổ biến là chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ, quy luật giá trị vào mục tiêu định hướng của mình.
Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành và phát triển, còn những yếu tố mất ổn định. Từ chỗ nền kinh tế về thực chất đã từ lâu là nền kinh tế nhiều thành, nên đã không chủ chương tư nhân hoá tràn lan, mà trái lại chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt, để làm ổn định và định hướng thị trường.
Mặc dù còn rất nhiều thiếu sót và yếu kém, nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô và gần đây nhất là nạn tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý Nhà nước các cấp. Nhưng nhìn chung tính ổn định và theo hướng đổi mới tiến đến một Nhà nước pháp quyền là nhân tố quan trọng đảm bảo cho thành công của cuộc cải cách. Đảng ta đã khẳng định vai trò Nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lý hài hoà giữa tăng trưởng, phát triển và cân bằng ổn định giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội.
Phân tích sâu vào luận điểm này, ta lại thấy đêr tiếp tục thực hiện phương châm ổn định để phát triển thì bộ máy Nhà nước ta phải đổi mới nhiều hơn nữa. Nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện đổi mới, đặc biệt cần phải thay đổi chất lượng, tác phong của bộ máy, chuyển từ tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho thị trường phát triển, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng "cửa quan" và nạn tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng của Nhà nước trong hoạt động của thị trường nước ta.
III. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thể chế kinh tế của nước ta là thể chế của những chủ thể tự chủ do kinh tế thị trường theo pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt được trình độ xã hội hoá cao.
Tín hiệu thị trường ngày càng đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn sản xuất kinh doanh lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cũng như đối với việc phân phối tài nguyên, tài sản quốc gia dưới sự điều khiển vĩ mô của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh được củng cố, phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế cũng như an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực du lịch xã hội cần thiết mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lãi hoặc ít lãi.
Có thể nói, sự cần thiết của tư nhân hoá trong nền kinh tế hiện đại luôn luôn là một luận điểm được các nhà kinh tế học quan tam, nhấn mạnh nhưng ở hầu hết các nước đang phát triển Nhà nước vẫn đóng vai trò quyết định trong một số khâu then chốt. Chẳng hạn ở Nam Triều Tiên, các xí nghiệp Nhà nước chiếm 30,5% các ngành giao thông vận tải, viễn thông, 60% ngành điện, cung cấp nước và vệ sinh (tính theo giá trị gia tăng), song chỉ chiếm 15% các ngành công nghiệp. Brazin là một nước mà tỷ trọng sở hữu công cộng rất lớn, chiếm khoảng 3/4 các ngành khai thác, phân bón, sắt thép và viễn thông, 1/2 trong ngành hoá dầu.
Đặc biệt, trong ngành tài chính tiền tệ, một ngành mà tầm quan trọng của nó không thể do bằng tỷ lệ so với tổng sản phẩm quốc dân, sở hữu Nhà nước vẫn giữ tỷ trọng lớn. ở Singapo, Malaixia, Thái Lan... phần lớn các ngân hàng thương mại là của tư nhân, nhưng những thành phần chủ chốt nhất thuộc sở hữu công cộng và có những tài sản rất lớn. Còn ở nước ta, hầu hết các ngân hàng kho bạc ở trung ương cũng như địa phương, các cơ sở đều thuộc sở hữu Nhà nước. Điều đó chứng tỏ rằng, ở nước ta không chỉ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Nhà nước (xí nghiệp quốc doanh) là nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa mà các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành tài chính, tiền tệ vẫn giữ vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Như vậy, thành phần kinh tế Nhà nước ta có một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý. Tuy nhiên, mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế xã hội cần và đủ. Bởi lý do đó, để sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của nước ta, cần phải cấu trúc lại theo phương hướng đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Em cho rằng: việc giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta trong thời kỳ chuyển đổi này cần phải lấy hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế khan hiếm làm chuẩn mực lựa chọn các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất thích hợp. Theo luận điểm này, không có hình thức sở hữu nào có hiệu quả đối với tất cả các lĩnh vực, các đối tượng, các thời kỳ. Mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ đòi hỏi có một hình thức sở hữu thích hợp. Vì vậy không nên duy trì chế độ công hữu (dưới hình thức quốc doanh, tập thể) hay tư hữu hoá, cổ phần hoá một cách máy móc và cứng nhắc. Nơi nào công hữu có hiệu quả, nơi ấy để cho quốc doanh, nơi nào tư hữu có hiệu quả, nơi ấy để cho tư nhân, nơi nào cổ phần hoá có hiệu quả cho cổ phần hoá...
IV. Hoà nhập kinh tế nước ta vào hệ thống kinh tế thế giới về mọi mặt.
ở nước ta, nền kinh tế từ trạng thái khép kín, đã dần dần mở cửa, thị trường trong nước ngày càng được mở rộng, thông suốt và chặt chẽ với nền kinh tế của các nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực. Vì vấn đề này, dự thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2000 cũng đã khẳng định : "Khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước đi đôi với việc ra sức tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giành vị trí ngày càng có ý nghĩa trong phân công lao động quốc tế... phù hợp với điều kiện mở rộng kinh tế thị trường ở nước ta và nó góp phần làm nền tảng cho sự phát triển thể chế chính trị và xã hội ở nước ta".
Có chính sách kinh tế đối ngoại cởi mở, bảo đảm môi trường chính trị, xã hội ổn định và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước và quan hệ giao lưu hợp tác với bên ngoài.
Như vậy, Nhà nước ta đã có một hệ thống các chính sách về kinh tế đối ngoại, điều đó cho thấy các nhà kinh tế, chính trị nước ta đã có những chú ý, quan tâm đến việc mở cửa quan hệ, giao lưu, hợp tác với bên ngoài và sự thành công của các chính sách kinh tế đối ngoại này chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta những thuận lợi, đưa nền kinh tế đất nước vượt lên một tầm cao mới.
B. Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
ở Việt Nam
I. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước một thực trạng là : đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ 1 xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả dể lại còn nặng nề. Những tàn dự thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với những đặc điểm xuất phát như trên, có thể nhận xét rằng: nền kinh tế nước ta không còn là hoàn toàn kinh tế tự cấp tự túc, nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác, do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nên nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau đây:
1.1. Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc.
Sự yếu kém của kinh tế hàng hoá nước ta được thể hiện ở những dấu hiệu có tính điển hình dưới đây:
- Trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
- Cơ cấu còn mất cân đối và kén hiệu quả.
Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế của nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nong nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại - ngành nghề chưa phát triển. Từ đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả.
Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và có hiệu quả khi nó phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, khi nó cho phép khai thác mọi năng lực của đất nước và thực hiện được sự phân công, hợp tác quốc tế.
- Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và đang phát triển, vì vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Xem xét một cách khách quan về thị trường ở trình độ thấp. Tính chất của nó còn hoang sơ, dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn. Chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ. Trog khu vực kinh tế Nhà nước về cơ bản còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỷ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỷ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.
- Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầungươid còn thấp.
Phần này phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá cònkém phát triển. Do trình độ cơ sở kỹ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém; cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước chưa phát triển... cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn thấp.
1.2. ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa cho nên trong nhiều thập kỷ vừa qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm. Nó gần như đối lập với kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.
Việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử, cho nên sự hạn chế quan hệ hàng hoá tiền tệ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kỹ thuật, kìm hãm nhân tố mới, do đó làm cho Nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế khách quan mặc dù trong tay Nhà nước có lực lượng kinh tế to lớn. Vì vậy đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng định: "Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động...thực hiệ giao lưu kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới".
2. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
2.1. Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận: Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ). Những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính cự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cơ chế này đã được phân tích ở phần trên. Nó gần như đối lập với tính giá, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Thị trường được coi là trung tâm của sản xuất và toàn bộ quá tình tái sản xuất xã hội. Vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế tập trung có sự quản lý của Nhà nước.
2.2.Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Kinh tế mở là đặc điểm và xu thế thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện của nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta đã chuyển biến quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Trong khi hoạt động vào thị trường thế giới và thúc đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, cần áp dụng có hiệu quả nguyên tắc lợi thế so sánh. Từ đó cân nhắc và quyết định cụ thể xem nên sản xuất và cung ứng cho thị trường khu vực và thị trường thế giới những loại hàng hoá nào, với số lượng bao nhiêu. Từ đó xác định rõ quy mô sản xuất cho thích hợp.
Chúng ta tiếp tục coi trọng các thị trường thuyền thống, nhanh chóng thâm nhập vào những thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực, cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông, lâm, thuỷ sản... chú ý phát triển dịch vụ, vận tải hàng không, thông tin bưu điện quốc tế..vv.
Xuất phát từ lợi thế và khả năng thực tế trong nước, phương hướng mở rộng kinh tế quốc tế tập trung vào những vấn đề cơ bản:
- Nhà nước cần có chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý nhằm khuyến khích các ngành kinh tế phát triển, thu hút những sản phẩm quý hiếm và sản phẩm khoa học từ bên ngoài, ngăn chặn việc nhập khẩu những hàng hoá trong nước có khả năng sản xuất.
- Nhà nước cần duy trì sự ổn định về mặt chính trị, kinh tế và xã hội nhằm tạo ra môi trường và hành lang cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế hoạt động, qua đó thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển.
II. Các giai đoạn và biện pháp hình thành kinh tế thị trường theo hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta là một quan hệ phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm giản đơn và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Quá trình đó trải qua các giai đoạn sau đây:
1. Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Về mặt lịch sử giai đoạn này được bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sủ rất quan trọng là nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ VI (khóa IV) tháng 9/1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường.
Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ trao đổi có tính hàng hoá tiền tệ.
Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy không thể có được nền kinh tế hàng hóa nếu như không có những đơn vị sản xuất hàng hoá.
Hai là, đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường.
Ba là, chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hưu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất được coi là một điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá. ở nước ta để khắc phục tình trạng vô chủ, lãi giả, lỗ thật. trong các doanh nghiệp nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi thích ứng với cơ chế thị trường, tất yếu phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nó bắt nguồn từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và xu hướng chung của thế giới.
Bốn là, đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc, sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang.
Trong các chính sách kinh tế chúng ta đã đặc biệt quan tâm chính sách giá cả. Đã từng bước thực hiện tự do hoá giá cả. Thực chất của việc điều chỉnh giá cả ở nước ta trong những năm 80 là thay cơ chế hai giá bằng cơ chế 1 giá, cơ chế hai thực chất là 2 cơ chế xử lý giá cả, một là cơ chế xử lý giá cả trên cơ sở tập trung tính toán giá cả và điều chỉnh giá theo lệnh hành chính. Hai là, cơ chế xử lý giá cả trong quan hệ hạch toán theo nguyên tắc thoả thuận trên thị trường. Cả hai cơ chế đó đều đạt được mục tiêu làm chủ giá cả. Nhưng chúng khác nhau về cách thực hiện. Cơ chế thứ nhất dựa vào quyền lực hành chính là chủ yếu, còn cơ chế thứ hai lại dựa vào quan hệ thị trường là chủ yếu. Mục đích của việc điều chỉnh giá cả là nhằm từ bỏ cơ chế cũ chuyển sang cơ chế thị trường. Đây là khâu quan trọng tạo tiền đề cho đổi mới cơ chế trong giá cả đã làm cho sản xuất thích ứng nhạy cảm với nhu cầu thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất.
2. Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. Quan điểm này đã được khẳng định rõ hơn ở đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng ta.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta là: phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo điều kiện tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển.
Để thực hiện được nội dung nói trên, chúng ta đã và đang thực hiện những biện pháp chủ yếu dưới đây:
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH.
Hai là, chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Ba là, hoàn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân tạo lập sự ổn định về tiền tệ giá cả và tỷ giá hối đoái, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường.
Bốn là, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế thị trường. giải pháp này có liên quan đến nhân tố con người, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta đã kết hợp giữa việc mở rộng q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50499.doc