Đề tài Kinh tế thị trường và tác động của kinh tế thị trường đến đời sống xã hội

Đại hội IX của Đảng (4/2007) xác định nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CHXN.

Đại hội X của Đảng xác định, KTTT định hướng XHCN là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CHXN.

Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí sau:

• Về mục đích phát triển: nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo

• Về phương hướng phát triển: đa dạng hoá hình thức sở hữu; phát triển kinh tế nhiều thành phần; phát huy vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước: với tiềm năng đó để Nhà nước điều tiết, định hướng các ngành khác nhau cùng phát triển.

• Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện nhiều hình thức phân phối: chủ yếu phân phối theo lao động, theo hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội.

• Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; quản lý Nhà nước: Nhà nước XHCN hay Nhà nước thực hiện chức năng quản lý là XHCN; các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng.

 Phân biệt KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) với kinh tế XHCN.

 

docx20 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3920 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế thị trường và tác động của kinh tế thị trường đến đời sống xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: - Do nhân dân lao động làm chủ. - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới". Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là "xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh". Với những định hướng xây dựng CNXH ở nước ta, thì mục tiêu hàng đầu phát triển KTTT ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, có thể nói, phát triển KTTT ở nước ta là "đòn xeo"để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã hội hóa XHCN nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH. Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN là ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất và đời sống nhân dân như nước với thuyền, "nước đẩy thuyền lên", tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, động viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo. Ở nước ta, trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Bởi vấn đề bảo đảm xã hội, công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là "phương tiện" để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội XHCN. Quá trình đổi mới nhận thức về KTTT Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp Thứ nhất, Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu: Nhà nước thông qua mệnh lệnh để chỉ đạo hoạt động của doanh nghiệp, Nhà nước trực tiếp làm và ra lệnh. Thứ hai, cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp: Thời kỳ này doanh nghiệp giống như gia công sản xuất cho Nhà nước. Nhà nước giao chỉ tiêu: sản phẩm, số lượng, chất lượng cho doanh nghiệp với điều kiện máy móc, nhân công…định mức tiêu hao về nguyên vật liệu, về nhân công, rồi nộp lại sản phẩm cho Nhà nước. Lúc này, Nhà nước đảm nhiệm hai vai trò: quản lý và quản trị, còn doanh nghiệp thì không có vai trò gì. Thứ ba, quan hệ hàng hoá – tiền tệ bị hình thức hoá, thậm chí là thủ tiêu. Mặc dù vẫn dùng tiền để mua hàng hoá, thế nhưng có tiền vẫn không mua được hàng vì lúc đó vẫn mua theo hình thức tem phiếu. Thứ tư,b ộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian kém năng động và không hiệu quả: Nhà nước đảm nhiệm luôn hai thứ việc đó là quản trị và quản lý, làm một lúc hai thứ việc như vậy rất cồng kềnh, chồng chéo. Hiện nay, một số nước vẫn còn bao cấp: Đức…và nền kinh tế tư bản: một số nước vẫn còn chiến tranh. Sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT thời kỳ đổi mới Tư duy của Đảng về KTTT từ Đại hội VI đến Đại hội VIII Thứ nhất, khẳng định KTTT không phải riêng có của chủ nghĩa tư bản, là thành tựu chung của nhân loại. KTTT nói rộng ra là kinh tế hàng hoá. Sản xuất và trao đổi hàng hoá là tiền đề quant trọng cho sự ra đời và phát triển của KTTT. Các yếu tố thị trường như: cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá trình sản xuất hàng hoá, phân bổ nguồn lực kinh tế, và tài nguyên thiên nhiên: vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động… Phân biệt giữa KTTT và kinh tế hàng hoá: Đặc điểm KTTT Kinh tế hàng hoá Giống nhau Có cùng bản chất là đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hoá – tiền tệ. Đều dựa trên co sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất Khác nhau Phát triển ở trình độ cao Sản xuất hàng hoá chủ yếu với quy mô lớn Công nghệ, kỹ thuật hiện đại Năng suất cao Ra đời từ kinh tế tự nhiên, trình độ thấp Sản xuất hàng hoá với quy mô nhỏ Kỹ thuật thủ công Năng suất thấp Thứ hai, KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) Đại hội VII của Đảng (6/1991) xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thứ ba, có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH. KTTT tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. KTTT có những đặc điểm sau: Các chủ thể kinh tế có tính độc lập: có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu. Giá cả do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật của KTTT: quy luật giá trị, cung cầu và cạnh tranh. Hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vai trò của KTTT: Trước đổi mới, xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Còn thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Vào thời kỳ đổi mới, dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng hàng hoá, điều hoà quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém. Tư duy của Đảng về KTTT từ Đại hội IX đến Đại hội X. Đại hội IX của Đảng (4/2007) xác định nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CHXN. Đại hội X của Đảng xác định, KTTT định hướng XHCN là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CHXN. Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí sau: Về mục đích phát triển: nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo Về phương hướng phát triển: đa dạng hoá hình thức sở hữu; phát triển kinh tế nhiều thành phần; phát huy vai trò chủ đạo kinh tế Nhà nước: với tiềm năng đó để Nhà nước điều tiết, định hướng các ngành khác nhau cùng phát triển. Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; thực hiện nhiều hình thức phân phối: chủ yếu phân phối theo lao động, theo hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; quản lý Nhà nước: Nhà nước XHCN hay Nhà nước thực hiện chức năng quản lý là XHCN; các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng. Phân biệt KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) với kinh tế XHCN. KTTT tư bản chủ nghĩa và thị trường XHCN: Yếu tố chung là chúng đều sản xuất hàng hóa và cùng tuân theo quy luật giá trị, cùng lấy lợi ích và cạnh tranh làm động lực của sự phát triển... Song, lại có những yếu tố không chung. Thị trường TBCN chịu tác động tất yếu của chính trị tư sản và gắn với nó là kiểu quản lý kinh doanh TBCN. Thị trường XHCN chịu tác động tất yếu của nền chính trị cộng sản và gắn với nó là kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm phát triển sản xuất hướng tới công bằng và tiến bộ xã hội, từng bước phát triển con người toàn diện. Từ đó, thị trường XHCN căn bản khác với thị trường tư bản về cả điểm xuất phát đến mục tiêu của nền sản xuất. Trong xã hội tư bản, kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất khoa học - công nghệ phát triển, nhưng đi liền đó là bất công xã hội cũng phát triển. Sự giàu có tăng lên nhưng bất công không thu hẹp, giảm đi mà trái lại bất công càng tăng lên, mở rộng. KTTT TBCN giải phóng được năng lực làm giàu nhưng lại tạo ra hố sâu của sự phân hóa giàu nghèo.. Quá trình phát triển của KTTT tư bản là quá trình "cá lớn nuốt cá bé", người với người có lúc đã trở thành lang sói. Tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN Mục tiêu và quan điểm cơ bản Mục tiêu Tại Đại hội X của Đảng đã chia làm hai nhóm: Xây dựng KTTT định hướng XHCN nhằm thúc đẩy KTTT định hướng XHCN phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng XHCN, xây dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN – mục tiêu cơ bản đến năm 2020. Mục tiêu cụ thể: Năm 2010 Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước đi đối với phát triển các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của các tổ chức công: chủ yếu là các đơn vị hành chính sự nghiệp (tổ chức công, đơn vị quản lý công) Phát triển đồng bộ và đa dạng hoá thị trường: bao gồm (đầu vào: tài nguyên thiên nhiên, bất động sản, vốn, lao động; đầu ra: thị trường hàng hoá, dịch vụ) và hội nhập khu vực và thế giới. Giải quyết mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội Nâng cao hiệu quả điều tiết vi mô của Nhà nước, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm Tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT: quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ trong đó quy luật giá trị là cơ bản nhất. Đảm bảo tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành thể chế kinh tế (yếu tố mang tính khách quan: chủ yếu là các quan hệ kinh tế; yếu tố mang tính chủ quan: chủ yếu là sự vận dụng của con người); đảm bảo tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị - xã hội; đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội; đồng bộ giữa phát triển xã hội với bảo vệ môi trường. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển KTTT của nhân loại, lịch sử phát triển của KTTT được bắt đầu từ thế kỷ XV và phát triển rực rỡ trong tư bản chủ nghĩa. Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc: những vấn đề liên quan đến thị trường, liên quan rất nhiều trong đời sống xã hôi: trong chính trị, trong các vấn đề xã hội, vấn đề tự nhiên. Ví dụ: trong chính trị: Đảng chủ trương chính sách làm giàu…Trong các vấn đề xã hội: với sự phát triển của KTTT tất yếu sẽ phân hoá giai cấp: người giàu – người nghèo, người có thu nhập cao – người có thu nhập thấp… Chấp nhận KTTT thì phải chấp nhận sự phân hoá. Trong tự nhiên: ô nhiễm môi trường sinh thái… Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Xét khách quan, KTTT không phụ thuộc vào điều tiết của Nhà nước, nhưng ở nước ta thì sự điều tiết của Nhà nước là cần thiết và mang tính đặc thù, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước hoàn toàn thống nhất với nhau. Một số chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Thống nhất nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN Nhận thức về tính tất yếu của KTTT. Nhận thức về vai trò, tác dụng của KTTT. Nhận thức về những đặc điểm chung đến những quy luật kinh tế chung của KTTT, đồng thời cũng khẳng định tính đặc thù của KTTT định hướng XHCN – mục tiêu: phản ánh bản chất XHCN, phản ánh tính chất vận động cũng như đặc trưng của nền KTTT. Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện thể chế về sở hữu Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau Có nhiều thành phần kinh tế: tồn tại trong một môi trường vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước có vai trò chiếm lĩnh, tài chỉ huy kinh tế, kinh tế Nhà nước không phát huy vai trò chủ đạo của mình bằng cách kìm hãm, triệt tiêu các thành phần kinh tế khác nhau mà hợp tác cùng phát triển. Thừa nhận phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước) và đa dạng hoá các hình thức tổ chức, sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng các tập đoàn kinh tế để nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn thiện thể chế về phân phối Để đảm bảo sự đồng bộ, đòi hỏi phải thống nhất giữa ba mặt: Nhà nước, người lao động, doanh nghiệp: Đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế. Thu hẹp các lĩnh vực độc quyền nhà nước. Đổi mới, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác theo cơ chế thị trường, theo nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi và phát triển cộng đồng. Đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả. Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường: Thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sở hữu, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh Đẩy mạnh sự phân công hợp tác giữa các vùng, các ngành, các thành phần kinh tế cũng như là hợp tác quốc tế hoặc hợp tác kinh tế quốc tế: ngành kinh tế, vùng kinh tế, thành phần kinh tế, kinh tế quốc tế dẫn đến hình thành hợp tác liên kết giữa các ngành, các vùng kinh tế. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách, tự do cạnh tranh và kiểm soát độc quyền: hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế, cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia, vấn đề độc quyền: chống độc quyền và chống hình thức cạnh tranh thiếu lành mạnh. Phát triển đồng bộ các loại thị trường. Thị trường hàng hoá – dịch vụ Thị trường tài chính tiền tệ Thị trường lao động Thị trường bất động sản Các loại thị trường khác Hoàn thiện thể chế gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường. Làm giàu đi đôi với giảm nghèo, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về bảo vệ môi trường, phải có chế tài đủ mạnh và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức quần chúng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đối với sự lãnh đạo của Đảng Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình KTTT định hướng XHCN Đổi mới, nâng cao hiệu lực điều tiết, quản lý của Nhà nước Phát huy mặt tích cực và hạn chế, ngăn ngừa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để nền KTTT phát triển có hiệu quả. Các tổ chức chính trị - xã hội Để phát huy vai trò của của các tổ chức đó, Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo điều kịên để các tổ chức và nhân dân tham gia tích cực và có hiệu quả vào quá trình hoạch định, thực thi, giám sát thực hiện luật pháp, các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội. Phần II. Thực tiễn Sự tác động của KTTT đến đời sống xã hội ở nước ta hiện nay: KTTT ở Việt Nam là KTTT theo định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN một mặt giải phóng năng lực làm giàu, mặt khác lo xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa. Mỗi bước phát triển kinh tế, lại chăm lo phát triển văn hóa tinh thần, phát triển quan hệ người - người, giữ đạo lý làm người, bảo vệ môi trường sinh thái. Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN sẽ tạo ra mỗi bước phát triển kinh tế, con người sẽ sống xứng đáng với con người hơn. Tác động tích cực: KTTT thu hút được nhiều nguồn vốn cho sự phát triển. Để phát triển sản xuất, cần phải có vốn không chỉ từ nhà nước mà còn từ các cá nhân. Xoá bỏ KTTT có nghĩa là không cho phép cá nhân bỏ vốn để sản xuất, kinh doanh và thu lợi nhuận từ sự góp vốn. Lúc đó, ai làm nhiều thì hưởng nhiều; ai làm ít thì hưởng ít; ai không làm thì không hưởng; không có chuyện không làm mà vẫn được hưởng thu nhập từ sự góp vốn. KTTT xoá bỏ bệnh lười biếng, bệnh cha chung không ai khóc. Kinh tế có tăng trưởng nhanh hay không, điều đó phụ thuộc vào tính tích cực của người lao động (đặc biệt là người lao động quản lý, lao động trí óc) có được phát huy hay không. Có một hiện tượng phổ biến trên thế giới mà chúng ta không khó nhận thấy, đó là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế phi thị trường và các doanh nghiệp nhà nước trong nền KTTT nhìn chung đều không phát huy được tính tích cực của người lao động (đặc biệt là người lao động quản lý, lao động trí óc) tốt hơn so với các doanh nghiệp của tư nhân. Nhiều người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước mắc bệnh lười biếng, bệnh cha chung không ai khóc. Trong khi đó, những người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân hầu như không mắc bệnh này. Vì thế, các doanh nghiệp của tư nhân kinh doanh thường có hiệu quả cao hơn so với so với các doanh nghiệp của nhà nước. Trong nền KTTT, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng, khuyến khích người sản suất tắng lượng cung, tư đó thúc đẩy nền sản suất phát triển, thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ, kỹ thuật mới vào sản suất để nâng cao năng suất lao động. Trong nền KTTT thì các doanh nghiệp tự do cạnh tranh, do đó để tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải không ngừng sáng tạo, tìm tòi ra cái mới để thỏa mãn nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của người tiêu dùng, KTTT tạo cơ hội cho những người sáng tạo, luôn tìm cách để đổi mới cách làm việc và rút ra những bài học về thành công hay thất bại để phát triển không ngừng KTTT tạo cơ chế đào tạo, tuyển chọn, sử dụng người quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà quản lý kém hiệu quả Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. KTTT tạo môi trường kinh doanh tự do, dân chủ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Người tiêu dùng có quyền lựa chọn những gì tốt nhất cho họ, về giá cả và chất lượng do đó các doanh nghiệp muốn kinh doanh tốt thì sẽ phải đảm bảo cả về giá cả của sản phẩm và chất lượng vì vậy người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi. KTTT đã tác động tích cực đến khuynh hướng phát triển đa dạng, phong phú trong hoạt động của văn hóa. Các chính sách kinh tế mới sẽ tạo ra cơ sở kinh tế-xã hội mới cho các hoạt động văn hóa. Nhờ những chính sách mới, phù hợp mà những năng lực văn hóa vốn tiềm ẩn sẽ được bộc lộ phát triển với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Nhiều thành phần xã hội sẽ cùng tham gia vào quá trình phát triển văn hóa. KTTT chấp nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các thành phần kinh tế tác động và bình đẳng với nhau trong thực hiện các quyền kinh tế của mình. Trong văn hóa có sự chấp nhận, khơi nguồn cho sự phát triển đa dạng, đáp ứng nhiều loại nhu cầu văn hóa chính đáng, hợp lý của xã hội. Ở đây đã có sự phát triển cùng chiều giữa KTTT và văn hóa. KTTT thúc đẩy hoạt động văn hóa theo hướng xã hội hóa. Ý thức dân chủ, vai trò cá nhân, sự tự ý thức về bản thân sẽ có điều kiện và cơ hội để phát triển. Quá trình sáng tạo, phổ biến các giá trị văn hóa sẽ thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân. KTTT đã đề cao trách nhiệm cá nhân, gắn liền động cơ và hiệu quả như là một chuẩn mực giá trị trong hoạt động của con người, trong nhân cách mỗi người. Nó buộc người ta phải khắc phục lối tư duy cảm tính, phương thức tư duy kiểu “ngoại suy", chủ quan và phải rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy lý tính, lành mạnh. Mục đích, động cơ phải trên cơ sở hiện thực và phải đi đôi với những biện pháp, những phương tiện hữu hiệu để hiện thực hóa trong thực tế. KTTT là điều kiện kích thích tăng năng suất lao động không ngừng. Sự tìm tòi, sáng tạo của cá nhân luôn được khuyến khích. Chính điều này đòi hỏi mỗi người phải học tập, rèn luyện tay nghề, rèn luyện bản thân. KTTT cũng rất nghiêm khắc đào thải những trì trệ, sự lạc hậu, lỗi thời của con người và các sản phẩm yếu kém về nội dung cũng như hình thức. Về phương diện đạo đức, lối sống, sự ảnh hưởng tích cực của kinh tế thị trường là từng bước hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi và sáng tạo. Đây là những phẩm chất đạo đức về ý chí, lòng dũng cảm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc và tự trọng ở mỗi con người cũng như cả cộng đồng. Tác động tiêu cực: Trong KTTT phải đề phòng khuynh hướng, lối sống chạy theo đồng tiền. KTTT có khuynh hướng mở rộng các nguyên tắc trao đổi thị trường ra tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống cá nhân, đời sống cộng đồng, có khuynh hướng làm cho người ta coi giá trị thị trường là giá trị chân thực duy nhất dùng để đo các giá trị khác. Họ định giá trị của con người căn cứ vào của cải của người đó, từ đó tìm các quan hệ trong sự đem lại lợi ích gì cho mình, cho cá nhân mình. Từ đây mà các quan hệ tình cảm cao đẹp, ấm áp tình người có nguy cơ bị băng giá trong sự tính toán vị kỷ. Trong nền KTTT có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt: giàu ít, nghèo nhiều, bất công xã hội KTTT cũng cần đề phòng khuynh hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, dẫn đến nguy cơ "thương mại hóa" (cái gì có tiền mới làm, cái gì không có tiền, dù cần cũng không làm). Hơn thế nữa, khi chạy theo đồng tiền có thể sẽ bất chấp đạo lý, những hủ tục mê tín có thể tăng nhanh, các sản phẩm phản văn hóa, làm băng hoại con người có thể tràn lan, các bậc giá trị có thể bị nhận thức sai lệch... KTTT chú trọng đến những nhu cầu có khả năng thanh toán, không chú ý đến những nhu cầu cơ bản của xã hội. KTTT cũng đã kéo theo lối sống "tiền trao cháo múc", lạnh lùng, tàn nhẫn làm băng hoại đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục, tấn công vào từng gia đình, từng người. Đã có không ít hiện tượng: từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị, xã hội sang tuyệt đối hóa các giá trị vật chất kinh tế. Từ chỗ lấy con người tập thể, con người xã hội làm mẫu mực (hy sinh vì tập thể, vì cộng đồng) là đạo đức cao nhất, sang tuyệt đối hóa con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Từ chỗ lấy lý tưởng, đạo đức làm mẫu mực chuyển sang coi thường đạo đức, phẩm giá; tuyệt đối giá trị thực dụng, tôn sùng tiện nghi vật chất, tôn sùng đồng tiền, coi tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá trị của con người. Tiền xâm nhập vào nhiều mối quan hệ đạo đức xã hội, thậm chí thành nguyên tắc xử thế và tiêu chuẩn hành vi của không ít người. Chính vì vậy mà những hiện tượng tham ô, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu, lừa đảo, làm hàng giả, mua quan bán chức, chạy chức chạy quyền bằng tiền...chúng ta đấu tranh, ngăn ngừa nhiều năm nay nhưng hiện vẫn đang diễn ra phức tạp và là nỗi lo lắng của xã hội. Những quan niệm và hành vi của đạo đức truyền thống như tinh thần giúp đỡ nhau, kính già, yêu trẻ, tôn sư trọng đạo, vợ chồng thủy chung... sẽ bị biến động và suy giảm do toan tính của đồng tiền. Hạn chế và nguyên nhân: Hạn chế Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN còn chậm, chưa theo kịp của công cuộc đổi mới toàn diện và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật, cơ chế ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKinh tế thị trường và tác động của kinh tế thị trường tới đời sống xã hội.docx
Tài liệu liên quan