Đề tài Kinh tế trang trại và việc sử dụng lao động trong các trang trại ở Việt Nam hiện nay

 

Mục lục Trang

Lời nói đầu 1

Phần I : Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại 3

I.Sơ lược về tình hình kinh tế trang trại 3

II.Khái niệm , đặc trưng và vai trò của kinh tế trang trại 5

Phần II : Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở 12

Việt Nam hiện nay

I. Tình hình phát triển kinh tế trang trại trong những năm qua 12

II.Tình hình sử dụng lao động trong các trang trại 16

Phần III : Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng lao 26

động có hiệu quả

I. Định hướng chung cho việc thu hút và sử dụng lao động 23

II. Những giải pháp thu hút và sử dụng lao động trong kinh 27

tế trang trại

Kết luận 33

Tài liệu tham khảo 34

 

 

 

 

 

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2351 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh tế trang trại và việc sử dụng lao động trong các trang trại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp, thuỷ sản. theo lọai hình kinh tế có các loại trang trại thuộc các loại hình kinh tế khác nhau gia đình, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân với các tư cách pháp nhân khác nhau: hộ nông dân tự chủ sản xuất, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn. Phần II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở việt nam hiện nay I .Tình hình phát triển kinh tế trang trại trong những năm qua 1.Số lượng trang trại Theo kết quả tổng hợp số liệu của các địa phương tính đến ngày 1-7-2000 cả nước ta có 90167 trang trại, trong đó có 61362 trang trại trồng trọt cây công nghiệp lâu năm và cây hàng năm chiếm 68,1%; 14837 trang trại kinh doanh tổng hợp đa ngành (16,4%) 7673 trang trại nuôi trồng thuỷ sản (3,6%).” Vài tư liệu về KTTT năm 1999. Nguyễn Hoà Bình , CS&SK 11/1999 Các trang trại phân bố không đều chủ yếu tập trung ở các vùng như Đông Bắc, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông cửu long. Cụ thể: “vùng Đông Bắc có 28280 trang trại chiếm 31,4%, Tây Bắc 3668 (4,1%) Đồng Bằng Sông Hồng 4434 (4,9%), Bắc trung bộ 7668(8,5%), Duyên hải miền trung 3666(4%), Tây nguyên 6521 (7,2%), Đông Nam Bộ 16298(18,1%), Đồng bằng sông Cửu Long 19632 (21,8%)” Vài tư liệu về KTTT năm 1999, Nguyễn Hoà Bình, CS&SK 11/1999 . 2. Quy mô các trang trại ở Việt Nam hiện nay. Do mới ra đời và phát triển, nên các trang trại hiện nay có giá trị tập trung vốn mở rộng sản xuất còn hạn chế. Chính vì vậy một thực tế là các trang trại ở Việt Nam có quy mô nhỏ về cả đất đai lẫn nguồn vốn. - Về đất đai. Đất đai bình quân một trang trại trồng trọt có 5,3 ha đất công nghiệp, một trang trại lâm nghiệp có 26,8 ha đất lâm nghiệp, bình quân một trang trại nuôi trồng thuỷ sản, bình quân một trang trại chăn nuôi có 52,8 con trâu bò, 50,7 con lợn và 500,9 con gia cầm” Vài tư liệu về KTTT năm 1999, Nguyễn Hoà Bình , CS&SK 11/1999 . Trong khi đó đối với các trang trại ở miền núi phái bắc quy mô đất là: “7,0 ha diện tích đất trồng cây hàng năm, 4,3 ha trồng cây lâu năm, 19,0ha trồng cây lâm nghiệp” KTTT miền núi phía Bắc thưc trạng và giải pháp ,Đoàn Quang Thiệu ,CS & SK 1+2/ 2001 . Về vốn: “Vốn đầu tư bình quân một trang trại trong cả nước là 60,2 triệu, thu nhập bình quân một trang trại trong một năm là 22,6 triệu đồng ” Vài tư liệu về KTTT năm 1999 , Nguyễn Hoà Bình CS & SK 11/1999 . Việc phát triển kinh tế trang trại cần phải huy động một số lượng lớn vốn theo ước tính “tổng số vốn sản xuất huy động vào đấu tư phát triển KTTT là 2730,8 tỷ đồng, tổng số thu nhập hàng năm từ hoạt động kinh tế của trang trại là 1023,6 tỷ đồng.” Vài tư liệu về KTTT năm 1999 Nguyễn Hoà Bình CS &SK 11/1999 . Đối với các trang trại ở miền núi phía bắc (thời điểm 1-9-2000) “vốn đầu tư bình quân một trang trại là 49,0 triệu đồng chủ yếu là vốn tự có 74,3%, vốn vay 25,7% trong đó vốn vay ngân hàng chỉ có 13% KTTT miền núi phía Bắc thực trạng và giải pháp, Đoàn Quang Thiệu CS &SK 1+2 /2001 . 3. Tình hình lao động trong các trang trại hiện nay. Lao động có trình độ của các trang trại hiện nay là rất hạn chế, không những lao động làm thuê không được đào tạo mà đến ngay cả chủ trang trại cũng vậy. Hầu hết các chủ trang trại là những người có kinh nghiệm sản xuất lâu năm nhưng đó chỉ là kinh nghiệm tích luỹ còn thực tế họ có hiểu biết hạn chế về quá trình sản xuất. “Trình độ văn hoá của chủ trang trại có trình độ cấp hai trở lên chiếm 80,7%, …Chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ sơ cấp dến đại học là 949 người, chiếm 31,8%, trong đó có trình độ đại học chiếm 5,6%” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã , NCKT 10/1999 . Các chủ trang trại cần phải có hiểu biết rộng về sản xuất, kinh doanh nếu trang trại lớn thì họ phải tổ chức quản lý như một giảm đốc công ty vì vậy trình độ của họ là rất cần thiết. Lao động làm việc trong trang trại bao gồm lao động gia đình và lao động thuê mướn. Họ cũng như lao động nông thôn khác thường chỉ hạn chế hết cấp II rồi tham gia sản xuất, vì vậy khả năng hiểu biết về sản xuất trong trang trại rất hạn chế. 4. Cơ cấu kinh tế trang trại 4.1. Cơ cấu đất đai Đất đai là một nhân tố quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, là tư liệu sản xuất chủ yếu trong hoạt động sản xuất nông, lâm và thuỷ sản. Để phát triển KTTT trước hết phải dựa vào đất đai. Trong một đề tài nghiên cứu của trường đại học KTQD về trang trại năm1999 cho ta một số tư liệu sau: “Quy mô đất đai trang trại là 6,63 ha nếu chia theo hướng kinh doanh chính, trang trại lâm nghiệp có quy mô trung bình 20,63 ha tiền tệ cây lâu năm 6,1045 ha, trang trại chăn nuôi 1,483ha. Nếu chia theo chủ trang trại, chủ trang trại nông dân có quy mô trung bình 6,27 ha, chủ trang trại khác 8,6654ha” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta, Nguyễn Thế Nhã, NCKT 10/1999. . Nguồn gốc đất đai trong trang trại rất đa dạng chủ yếu là đất được giao 71,83% tổng quỹ đất, trong đó đất nông nghiệp được giao74,83%, lâm nghiệp77,50%. Đất được giao 28,17% có nguồn gốc như nhận thầu, chuyển nhượng, tự khai hoang… Cơ cấu đất đai của trang trại phụ thuộc vào loại hình sản xuất: “Đất nông nghiệp chiếm 8,81%, đất lam nghiệp chiểm 28,73%, đất nuôi trồng thuỷ sản 11,49% và đất thổ cư 0,97%… Tỷ trọng đất nông nghiệp của các trang trại có hương kinh doanh cây lâu năm chiếm trên 80%, tỷ trọng đất lâm nghiệp của nhóm trang trại lâm nghiệp chiếm 90,5%, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của trang trại chiếm 80,3%” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã , NCKT 10/1999. . 4.2 Cơ cấu vốn và nguồn vốn Vốn là yếu tố quan trọng để phát triển KTTT, do đó đòi hỏi có lượng vốn đủ lớn “tính đến ngày 30/4/99 quy mô vốn bình quân một trang trại tương đối lớn 291,43 triệu…Nhóm trang trại có hướng kinh doanh cây lấu năm và chăn nuôi lợn có quy mô vốn lớn. Nguồn vốn của trang trại chủ yếu dựa vào vốn tự có chiếm 91,03, vốn vay chiếm 8,93%” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã , NCKT 10/1999. . Về cơ cấu tư liệu sản xuất và tài sản chủ yếu bình quân trang trại “Giá trị vườn cây lâu năm chiếm 62,62% Giá trị đàn gia súc cơ bản 1,89%. Giá trị tài sản cố định có nguồn gốc kỹ thuật 10,47%; gái trị rừng trồng 2,39%, gái trị nuôi trồng thuỷ sản 5,85%. Chi phí sản xuất dổ dang 7,22%, tiền mặt trong kihn doanh 6,74%” Thực trạng và giải pháp phát triển KTTT trong thời kỳ CNH- HĐH , KT&PT 33/1999 . 4.3. Cơ cấu lao động Lao động trong trang trại chia theo trình độ gồm lao động qua đào tạo và lao động chưa được đào tạo. theo tài liệu của trường ĐHKTQD trong lần nghiên cứu là: lao động qua đào tạo bình quân một trang trại là 0,31 người trong 2,86 người trong tuỏi lao động chiếm 10,84%. Nếu chia theo tuổi lao động thì có trong tuổi lao độn và ngoài tuổi lao động. Trong 5,82 người thì số lao động trên tuổi bình quân một trang trại là 0,41 người và dưới độ tuổi lao động bình quân là 0,84 người. Nếu chia theo tính chất lao động thì có lao động làm thuê và lao động gai đình các lao động trang trại chủ yếu là lao động gia đình: bình quân một trang trại thuê 0,98 lao động, Hà Nội, Thanh Hoá thuê gồm 1,5 lao động. 5.Tổ chức sản xuất trong trang trại 5.1. Các loại hình tổ chức sản xuất. Các chủ trang trại với mục đích sản xuất để chia thu lợi nhuận sẽ phải xác định loại hình sản xuất của trang trại cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện của gai đình nhìn chung có ba loại hình sản xuất. Trồng trọt, chăn nuôi và kết hợp trồng trọt và chăn nuôi các trang trại hướng vào các loại cây như lúa, mía, cây công nghiệp cây ăn quả. Trong 2353 trang trại trong tổng số 3044 trang trại mà trường ĐHKTQD nghiên cứu có 421 trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm, 344 trang trại trồng cây ăn quả. Các trang trại chăn nuôi có 266 trong 3044 trang trại trong đó 50 trang trại chăn nuôi gia súc, 145 trang trại nuôi lợn, 71 trang trại nuôi gia cầm. 5.2. Đầu tư chi phí sản xuất Chi phí sản xuất được hình thành từ vốn kinh doanh của trang trại, nó là các khoản chi về máy móc, cây con giống, vốn đầu tư sản xuất… “Đầu tư chi phí sản xuất bình quan chung một trang trại điều tra 1998 là 69,722 triệunđồng, trong đó đầu tư chi phí vật chất chiếm 71,64%, đầu tư cho chi phí lao động chiếm 24,94% và chi phí khác chiếm 3,43%”. 5.3. Cơ cấu sản xuất của trang trại Cơ cấu sản xuất của trang trại là biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ về lượng của các ngành, các bộ phận cấu thành trong sản xuất. “Giá trị sản xuất bình quân một trang trại là 105,426 triệu đồng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn đạt tổng thu là 369,138 triệu đồng, thuỷ sản 162,497 triệu đồng, lâm nghiệp 37,014 triệu đồng”. Tỷ trọng cơ cấu gái trị sản xuất của các ngành “trồng trọt 57,75%, chăn nuôi 27,3%, thuỷ sản 13,78% và lâm nghiệp 1,18%.”(Thực trạng và giải pháp phát triển KTTT trong thời kỳ CNH- HĐH , KT & PT ). Cơ cấu giá trị sản phẩm của các trang trại phân theo các vùng hoặc phân theo lượng kinh doanh đều cho thâý xu hướng chung là tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá đạt cao ở những sản phẩm chuyên môn hoá. Nhóm trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm có tổng thu từ trồng trọt chiếm 93,99%, giá trị chăn nuôi chiếm 4,78%. Thuỷ sản và lâm nghiệp chiếm từ 0,51- 0,72%. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn có giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 98,42%, giá trị sản xuất trồng trọt chiếm 1,2%, giá trị thuỷ sản và nông nghiệp không đáng kể II . TÌNH HÌNH SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC TRANG TRẠI: 1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM: 1.1. Sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động ở nông thôn Đến đầu năm 1997 cả nước có trên 27 triệu lao động ở khu vực nông thôn chiếm 75% tổng số lao động xã hội. Hàng năm số người lao động nông thôn tăng thêm 2% do tăng tự nhiên, nhưng đất nông nghiệp lại không tăng. Trong khi đó kinh tế đất nước vẫn còn phát triển chậm chạp việc thu hút lao động của các ngành khác nhau như công nghiệp và dịch vụ chuưa được nhiều vì vậy sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động tạo ra quá lớn làm cho áp lực việc làm đè nặng lên đối với đất nước. 1.2. Lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. Nông thôn nước ta là khu vực đông dân nhất chiếm 80% dân số và 76,88% lực lượng lao động xã hội. Hàng năm khu vực này bổ xung khoảng 67 vạn lao động, vì vậy nhu cầu việc làm là rất lớn. Lực lượng lao động ở nông thôn phân bố không đều ở các ngành, các vùng thể hiện qua số liệu: Cơ cấu phân bố lao động nông thôn theo nghành kinh tế năm 1997. Các vùng Tổng số Chia theo nhóm ngành kinh tế Nông-lâm-ngư CN và CD Dịch vụ Số lượng % Số lượng % Số lượng % Nông thôn cả nước 27857460 21721150 77,98 1910205 6,85 4196103 15,17 Miền núi và Trung du 5500581 5087070 92,48 113630 2,07 299881 5,45 Đồng bằng sông Hồng 5723913 4397281 76,82 458802 8,02 862830 15,16 Khu IV cũ 4021525 3319453 82,54 249403 6,2 452669 11,26 Duyên Hải miền Trung 2785685 2087961 74,95 210499 7,56 487225 17,49 Tây Nguyên 1104729 948637 87,33 25630 3,94 94760 8,73 Đông Nam Bộ 2320972 1287482 55,47 359594 15,49 673896 29,04 ĐB sông Cửu Long 6400057 6587266 71,68 492647 7,69 1320444 26,63 (Lao động việc làm ở nông thôn nước ta Thực trạng và Giải pháp , Phạm Thị Khanh , thông tin lý luận 6/1999). Sự chuyển dịch chậm chạp trong phân bố lực lượng lao động nông thôn không chỉ thể hiện ở ngành kinh tế mà còn rất đậm nét ở các vùng trong phạm vi cả nước, tập trung nhất ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu long. Mặc dù là tỉ lệ lao động có việc làm ở nông thôn có tăng lên nhưng số lao động thiếu việc làm ở khu vực này vẫn còn rất lớn. Hiện naycó khoảng 9 triệu lao động thiếu việc làm. Năm 1997 quỹ thời gian lao động nông thôn mới chiếm 72,11% quỹ thời gian. 2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRONG TRANG TRẠI HIỆN NAY. 2.1. Đặc điểm của lao động trong trang trại 2.1.1. Lao động có trình độ thấp Cũng giống như lao động nông nghiệp, lao động trong trang trại được hình thành từ nguồn lao động nông nghiệp nên có trình độ thấp, các trang trại chủ yếu tận dụng lao động gia đình và nếu có đi thuê mướn lao động thì đó là lao ddộng nông nhàn. Những lao động này thường không được đào tạo cho nên trình độ ngành nghề và hiểu biết về quá trình sản xuất là không có. Hầu hết họ sản xuất theo vốn tích luỹ kinh nghiệm. Một thực tế đặt ra cho các trang trại là hiện nay trong nền kinh tế thị trường các trang trại sanr xuất hàng hoá để bán, vì vậy rất cần sản xuất được nhiều nông sản hàng hoá có chất lượng cao. Nhưng với đội ngũ lao động trình độ thấp, việc thuê máy móc, cải tiến sản xuất là việc rất khó. 2.1.2. Lao động sử dụng trong trang trại Lao động sử dụng trong trang trại chủ yếu là lao động gia đình với mục đích chính của các gia đình là tạo việc làm cho lao động trong gia đình và do quy mô trang trại nhỏ nên lao động trong trang trại chủ yếu là lao động gia đình. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trung bình một trang trại trên cả nước có 2,8 lao động gia đình và 1,2 lao động làm thuê thường xuyên. Do đặc điểm của nông nghiệp nước ta theo mùa vụ cho nên ở hầu hết các trang trại trong quá trình sản xuất họ không cần thuê nhiều nhân công, mà chủ yếu là dùng lao động gia đình nhưng đến mùa thu hoạch họ sẽ đi thuê nhân công, thu hoạch xong thì số lao động làm thuê này lại trở về. Trong khi đó số lao động được thuê thường xuyên sống trong trang trại, số lượng này rất ít chỉ có trong các trang trại lớn. Những lao động này thường làm theo hợp đồng có thể vài tháng, 1 năm hoặc vài năm. Thông thường họ là những người không nghề nghiệp, không ruộng đất phải đi làm thuê. 2.1.3. Tham gia sản xuất theo mùa vụ Như đã nói ở trên do đặc điểm lao động nông nghiệp nước ta theo mùa vụ, chính vì vậy việc thuê lao động sản xuất trong trang trại cũng theo mùa vụ. Vào đầu mùa khi bắt đầu một mùa sản xuất người ta thuê nhân công đến thực hiện việc gieo trồng cây con giống, thời điểm này thu hút một số lượng lao động khá đông như sau đó khi bước vào quá trình chăm bón để cho cây con phát triển thì không cần nhiều lao động nữa nhưng đến cuối mùa vụ vào mùa thu hoạch nhu cầu thiên nhiên cũng là rất cao. 2.2. Phân tích số lượng chất lượng lao động trong trang trại Cũng giống như các ngành kinh tế khác, khi nghiên cứu về kinh tế trang trại, vấn đề đặt ra quan trọng hàng đầu đối với các nhà kinh tế, các nhà xã hội là ngành đó thu hút được bao nhiêu lao động, lao động đã qua đào tạo hay chưa. Để trả lời câu hỏi đó chúng ta nghiên cứu. 2.2.1. Số lượng lao động trong trang trại ở Việt Nam Điều quan tâm trước tiên đối với lao động trong trang trại là đa số các chủ trang trại là nam giới chiếm 91,85% còn 8,15% là nữ giới, chủ trang trại là dân tộc ít người chiếm 13,17% ... Các chủ trang trại có nguồn gốc xuất thân khá phong phú Nguồn gốc xuất thân của các chủ trang trại : Thuần tuý nông dân: 62,35% Cán bộ công nhân hưu trí: 9,36% Cán bộ chủ chốt cấp xã: 8,84% Bộ đội, công an trở về địa phương: 8,11% Công chức đương chức: 4,73% Công chức đang làm việc: 3,42% Chủ trang trại khác: 3,19% Số lượng lao động làm thuê ở trong các trang trại chưa nhiều, bình quân một trang trại thuê 0,98 lao động thường xuyên, trong đó các trang trại Đắc Lắc thuê gần 2 lao động, còn ở Hà Nội, Thanh Hoá thuê 1,5 lao động. Trong cuộc điều tra của trường Đại học kinh tế quốc dân, trong số 3044 trang trại có 1184 trang trại thuê lao động thường xuyên, chiếm 38,90%, trong đó các trang trại Lâm Đồng chiếm 51,79%, ở Đắc Lắc là 76,51%. Phần lớn các trang trại thuê lao động thường xuyên từ 1 đến 2 lao động chiếm 60,01%, tỷ lệ này ở Nghệ An chiếm 90%, Gia Lai chiếm 72,79%. Số trang trại thuê thường xuyên từ 3 đến 5 lao động chiếm 18,92%. Các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 24,14%, Thanh Hoá là 28,68%. Số trang trại thuê từ 5 lao động chiếm 12,08%, ở Hà Nội là 21,1%. Có 2403 trang trại thuê lao động thời vụ chiếm 78,95%, trong đó có 80,32% các trang trại thuê hàng năm dưới 500 ngày công, 13,9% trang trại thuê từ 500 đến 1000 ngày công, 3,78% thuê từ 1000 ngày công trở lên. (Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã, NCKT 10/1999). Hiện nay trên cả nước có khoảng 115000 trang trại với trên 70 vạn lao động. Các trang trại thu hút 2-10% hộ nông dân ở mỗi tỉnh. (kinh tế trang trại đột phá mới trong phát triển nông nghiệp, Phạm Duy Liên MCKT 12/99). Nếu tính bình quân mỗi trang trại hiện nay thì mỗi trang trại có khoảng 7 lao động . Đối với các trang trại có quy mô từ 5 ha trở xuống chủ yếu là dùng lao động gia đình kết hợp với làm đổi công trong lúc thời vụ còn khẩn trương. Đối với các trang trại có quy mô từ 5 đến 7 ha lao động gia đình và đổi công còn lại thuê từ 2 đến 5 lao động trong 1-3 tháng. Với các trang trại có quy mô 10 ha trở lên thì ngoài việc sử dụng lao động trong gia đình còn phải thuê lao động làm trong thời vụ hoặc lao động thường xuyên từ 5-10 lao động. Có thể nói các hộ trang trại không chỉ giải quyết công ăn việc làm cho gia đình mình mà còn thu hút thêm một phần lao động nhàn rỗi trong nông thôn. Kinh tế trang trại miền núi phía bắc ( Thực trạng và giải pháp Đoàn Quang Thiện cơ sở và sản xuất 1+2/01) 2.2.2. Chất lượng lao động trong trang trại Lao động trong trang trại lấy từ lao động nông thôn chưa được qua đào tạo vì vậy có thể nói chất lượng lao động trong các trang trại hiện nay là rất thấp. Bên cạnh đó do các trang trại ở nước ta sử dụng máy móc rất ít, mà chủ yếu là lao động thủ công vì vậy việc lao động không qua đào tạo vẫn có thể làm việc được. Ngay cả như các chủ trang trại cũng không được học tập, đào tạo với quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Theo kết quả mới của trường kinh tế quốc dân Trình độ văn hoá của các chủ trang trại có trình độ cấp II trở lên chiếm 80,7%, trong đó các chủ trang trại ở Hà Nội và Thanh Hoá, Nghệ An chiếm 91,8-96,7%. Các chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ sơ cấp đến đại học có 949 người chiếm 31,8% , trong đó có trình độ đại học chiếm 5,6%.(Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã, NCKT 10/1999). Số lao động trên có đào tạo trong một trang trại là 0,31 người như vậy có thể nói tỉ lệ đào tạo còn quá ít. Chính vì chất lượng lao động quá thấp, người lao động không hiểu được hết quá trình sản xuất. 2.3. Lao động trong các trang trại và vấn đề trả công lao động trong các trang trại hiện nay. Qua thực tiễn của các trang trại ta có thể nhận thấy: sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Việc sử dụng hàng hoá này tạo ra một giá trị thặng dư rất lớn, nếu người chủ trang trại biết sử dụng sức lao động một cách thích hợp thì sẽ sinh ra lợi nhuận rất lớn cho họ. Nếu biết tổ chức quản lí sử dụng tốt, biết quan tâm thoả đáng lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động thì nó là nhân tố quan trọng nhất để làm tăng năng xuất lao động, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho chủ trang trại. Hiện nay ngoài việc tận dụng lao động của gia đình các trang trại còn thuê mướn thêm lao động làm thường xuyên và lao động làm thời vụ 2.3.1. Các hình thức thuê mướn Các trang trại ở Việt Nam hiện nay có kiểu thuê mướn rất đa dạng, để phân chia các hình thức lao động người ta căn cứ vào thời gian thuê mướn: - Thuê mướn trong một thời vụ: Đây là hình thức thuê lao động mà người chủ trang trại thuê lao động từ khi bắt đầu một mùa sản xuất cho đến lúc kết thúc một mùa sản xuất. Tuỳ theo mùa sản xuất mà thời gian thuê có thể dài hay ngắn. - Thuê làm theo tháng trong từng thời vụ: Đây là hình thức thuê mướn lao động mà người chủ trang trại thuê lao động trong một thời gian nào đó thường là một tuần, một tháng. Do đặc điểm của trang trại là sản xuất theo mùa vụ chính vì vậy khi vào mùa vụ khối lượng công việc rất nhiều. Do đó các chủ trang trại phải thuê mướn thêm lao động , nhưng khi mùa vụ qua các chủ trang trại không cần thuê nữa. vì vậy quá trình thuê lao động chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Thuê lao động công nhật: Các chủ trang trại trong quá trình sản xuất khi khối lượng công việc lớn lao động trong trang trại không đủ đáp ứng thì chủ trang trại sẽ thuê lao động. Thời gian thuê lao động chỉ được tính bằng buổi, ngày. Do lao động thuê trong thời gian ngắn nên cách này chỉ áp dụng trong một khối lượng công việc lớn nhưng chỉ kéo dài vài ngày và chủ trang trại rất mất thời gian để thuê và thoả thuận về tiền công. Thuê ở luôn trong nhà để làm quanh năm. Đây là hình thức thuê lao động mà nhười lao động ở cùng với trang trại, thời gian thuê mướn kéo dài nhiều tháng. Người lao động được tính gần như lao động gia đình, họ tham gia lao động sản xuất cùng với lao động gia đình trong tất cả các hoạt động của trạng trại. Tính do tính chất đó mà lao động này thường chỉ thuê ở những vùng xem có quy mô lớn, công việc sản xuất đơn điệu. Thuê cho làm lán hay ở luôn trong trang trại vừa làm boả vệ, làm công đồng thời được chủ trang trại cấp đất làm kinh tế nông hộ. Đây là hình thức thuê lao động mà chỉ có các trang trại có quy mô lớn mới thuê. Chủ trang trại cấp cho người lao động một ít đất để họ và gia đình họ cư trú và sản xuất cho gia đình vừa làm thuê cho chủ trang trại, loại hình này chỉ áp dụng với những lao động thời gian thuê mướn lâu năm. 2.3.2. Các hình thức trả công rất phong phú. Hiện nay các trang trại ở Việt Nam áp dụng một số hình thức trả công sau: Trả bằng tiền: đây là hình thức phổ biến được áp dụng trong các trang trại. Nó vùa tiện lợi đồng thời nó phản ánh dễ hơn mức tiền công giữa các trang trại. Người lao động nhận được tiền thoả thuận khi hoàn thành một khối lượng công việc được chủ trang trại giao. Trả bằng hiện vật: Ngoài hình thức trả công bằng tiền các trang trại còn áp dụng hình thức trả công bằng hiện vật đó là hình thức trả công mà ngưới chủ trang trại trả công cho người lao động bằng chính nhữnh sản phẩm mà họ làm ra. Cách trả công này có ưu điểm là ngưới lao động có được lương thực thực phẩm mà không phải mua, nhưng có hạn chế là người lao động khi muấn mua những hàng hoá sinh hoạt khác thì phải bán đi. Trả bằng tiền và hiện vật: Đây là hình thức kết hợp cả hai hình thức trên. Chủ trang trại vừa trả công bằng tiền, vừa trả bằng hiện vật cho người lao động khi họ hoàn thành khối lượng công việc. Trả công khoán theo số lượng và chất lượng công việc: Đây là hình thức trả công mà người chủ trang trại căn cứ vào thời gian người lao động làm việc và căn cứ vào số lượng, chất lượng công việc họ khoán cho người lao động. Về mức trả công: Việc trả công trong các trang trại phải dựa trên nguyên tắc thoả thuận và theo thị trường sức lao động. Mức tiền công cao hay thấp phụ thuộc vào quy luật cung cầu về sức lao động và mức sống tối thiểu của người lao động.'' Mức tiền công hàng tháng đạt 434,29 ngàn đồng .Mức tiền công ngày của lao động thời vụ đạt bình quân 18,08 ngàn đồng''. (Thực trạng và giải pháp phát triển KTTT trong thời kỳ CNH- HĐH , KT&PT 33/1999 ). Biểu : Mức thu nhập bình quân trong độ tuổi và nhân khẩu của các trang trại điều tra (đơn vị 1000đ) Trang trại ở các tỉnh TN của một lao động TN của một nhân khẩu BQ 1năm BQ 1 tháng BQ 1năm BQ 1 tháng Trong đó Sơn La 9.772 814 4.611 384 Yên Bái 7.762 647 4.012 334 Quang Ninh 4.452 371 2.874 239 Hà Nội 14.315 1.193 7.817 651 Thanh Hoá 21.113 1.759 9.974 831 Nghệ An 7.230 602 3.347 279 Gia Lai 15.233 1.269 7.185 599 Đắc Lắc 26.073 2.173 11.055 921 Lâm Đồng 25.285 2.107 11.211 934 Khánh Hoà 30.220 2.518 15.434 1.286 Ninh Thuận 22.632 1.886 11.220 935 Bình Dương 7.113 593 4.009 334 Đồng Nai 22.004 1.834 11.099 925 Long An 13.978 1.116 7.818 652 Cà Mau 12.737 1.061 7.672 639 Bình quân chung 16.120 1.343 7.920 660 (Thực trạng phát triển KTTT nước ta , Nguyễn Thế Nhã , NCKT 10/1999). 2.4. Phân tích điều kiện lao động trang trại 2.4.1 Lao động trong những điều kiện thiên nhiên phức tạp Sản xuất nông nghiệp có một đặc tính là phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết khí hậu. Chính vì vậy do điều kiện địa hình thời tiết nước ta phức tạp mà người lao động thường xuyên phải làm việc trong điều kiện nóng bức kéo dài ảnh hưởng đến sức khoẻ. Điều kiện thời tiết khắc nghiệt không chỉ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất mà còn ảnh hưởng nặng nề đến kết quả sản xuất mà cụ thể ở đây là năng suất cây trồng và vật nuôi trong các trang trại. Bão lũ nắng nóng kéo dài gây thiệt hại rất nhiều cho các trang trại. 2.4.2 Lao động trong điều kiện nặng nhọc Do nền kinh tế kém phát triển. quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đã diễn ra chậm chạm vì vậy việc cơ khí hoá nông thôn trong mấy năm gần đây không thay đổi đáng kể. Trong một cuộc điều tra cuỉa bộ nông nghiệp cho thấy 77 gia đình nông dân làm đất bằng trâu bò thậm chí có 5.5% gia đình còn “kéo cày thay trâu”. số hộ gia đình nhờ máy cày làm đất chỉ chiếm dưới 7%. ở khâu tuất lúa 62.6% hộ gia đình tuất lúa bằng máy đạp chân thủ công. 24.1% đập lúa bằng tay. Vận chuyển trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu bằng trâu bò và đôi vai. việc sử dụng máy kéo. máy bơm. và các máy móc khác chỉ tập trung ở các gia đình có điều kiện kinh tế. Điều tra ở 17 tỉnh trong cả nước cho thấy cứ 10 hộ gồm có hai máy kéo. 4 máy nổ. 2.6 máy bơm và 2 máy tuất lúa. 2.4.3. Lao động trong những môi trường độc hại Ngày nay lao động trong trang trại thường xuyên phải tiếp xúc với hoá chất độc hại như phân bón hoá học thuốc trừ sâu. các loại cây bị sâu bệnh phá hoại vì v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1197.doc
Tài liệu liên quan