MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I: Lý thuyết chung về lãi suất và vai trò của nó trong nền kinh tế 3
I. Lãi suất. 3
II. Vai trò của lãi suất 5
1. Ở tầm vi mô 5
2. Ở tầm vĩ mô 5
3. Cách nhìn nhận vai trò của lãi suất ở Việt Nam trước đây và bây giờ. 6
Phần II: Tình hình lãi suất ở Việt nam trong những năm qua - Sự thay đổi trong cơ chế điều hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng TW(NHTW): 7
I. Những điểm nổi bật trong lãi suất của Việt nam, trong những năm qua: 7
II. Quá trình đổi mới lãi suất ở Việt Nam. 9
1. Giai đoạn từ trước tháng 3/1989. 10
2. Từ tháng 3/1989. 12
3. Từ 1/10/1993. 12
4. Chuyển lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất. 13
III. Vấn đề hiểu và cơ sở xác định lãi suất cơ bản trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam. 14
1. Cách hiểu lãi suất cơ bản. 14
2. Căn cứ xác định lãi suất cơ bản. 16
3. Yêu cầu đặt ra với cơ chế lãi suất. 18
IV. Các cách lựa chọn lãi suất cơ bản. 18
V.Định hướng điều hành lãi suất cơ bản ở Việt nam và vấn đề tự do hoá lãi suất 23
1. Định hướng điều hành lãi suất ở Việt nam trong hoàn cảnh mới : 23
2. Vấn đề tự do hoá lãi suất. 28
Kết luận 32
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãi suất cơ bản của ngân hàng và sự điều hành lãi suất trong nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không đủ bù đắp chi phí,ngân hàng lại in thêm tiền vào lưu thông,lạm phát tăng nhanh.
Hơn thế nữa đi theo cơ chế này làm cho khả năng chống lạm phát kém,ngày càng trở nên khó khăn.Bởi vì khả năng huy động vốn đi đôi với rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hóa bị hạn chế rất nhiều.Lãi suất âm lạm phát ngày càng tăng dẫn đến đồng tiền mất giá trị nhanh chóng,người dân luôn bị ám ảnh bởi lạm phát dẫn đến họ luôn tăng giá hàng,chỉ số giá tiêu dùng tăng lên nhanh chóng nhà nước không thể kiềm chế được,nền kinh tế lâm vào khủng hoảng.
Trong thời gian này do ngân hàng thực hiện bao cấp về lãi suất cho khách hàng dẫn tới tạo ra những khoản lỗ không đáng có cho ngân hàng.Do bao cấp về lãi suất dẫn đến vai trò của lãi suất dường như không có dẫn đến tình trạng trì trệ tắc nghẽn trong sản suất kinh doanh.Ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ một cách bình thường được,kinh doanh của ngân luôn nằm trong tình trạng lỗ.
2. Từ tháng 3/1989.
Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất,chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương.Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về,kiềm chế lạm phát tránh bao cấp qua lãi suất,NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một mức rất cao trong một thời kỳ ngắn, lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9% tháng - tức là 109% năm;lãi suất tiết kiệm 3 tháng là 12% tháng tức là 144% năm. Nhờ vậy đã:
- Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông,tăng nguồn vốn tín dụng giảm áp lực lạm phát
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương,tức là lãi suất tiến gửi cao hơn lạm,lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động , xử lý hài hoà lợi ích của người gửi tiền,người vay vốn và tổ chức tín dụng
- Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thưc sự
- Tuy nhiên ở giai đoạn này hệ thống lãi suất còn phức tạp có nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay ;
+ Đối với ngành kinh tế (công nông nghiệp ) có mức lãi suất riêng
+ Đối với các thành phần kinh tế (quốc doanh,ngoai quốc doanh)còn có sự phâp biệt lãi suất.
3. Từ 1/10/1993.
NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận :
T Đối với trần lãi suất: Cho vay doanh nghiệp nhà nước là 1.8%tháng,kinh tế ngoài quốc doanh là 2.1% tháng.
T Đối với lãi suất thoả thuận ; Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận.Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là0,2%tháng và cho vay cao hơn mức trần là 2,1% tháng.
Trên thực tế khoảng 30%-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là tư khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân,với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5% tháng.Với cơ chế lãi suất thoả thuận,có thể hiểu là tự do hoá một phần lãi suất "cứng" đi đôi với biên độ nhất định.
Trong lãi suất thoả thuận mức chênh lệch giữa sàn và trần rất lớn khoảng từ 0,7%-1%tháng,làm cho các NHTM có mức lợi nhuận quá cao,trong khi đó doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn.Từ thực tế này,Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8,tháng 8/1995,cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng,đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phi hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay là 0,35% tháng.Đây là duyên cớ để ra đời lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất cho vay thoả thuận từ 01/01/1996.
4. Chuyển lãi suất thoả thuận qua trần lãi suất.
a. Việc quy định lãi suất và quy định mức chênh lệch 0,35% thực chất là vừa quy định trần lãi suất vừa quy định sàn lãi suất.Vì thế từ 1/11996 NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch là 0,35% thay cho việc điều hành lãi suất cho vay,lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận trước đó.
Do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau,nhu cầu sử dụng vốn khác nhau,chi phí hoạt động khác nhau,nên NHNN có quy định trần lãi suất có phân biệt như sau:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn : là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị,
- Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn : cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một ít do thời hạn dài dễ gặp rủi ro;
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn : Cao hơn tràn lãi suất ngắn hạn và trung hạn do điều kiện hoạt động ở nông thôn khó hơn thành thị
- Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: là trần lãi suất cho vay cao nhất do QTD mới lập thí điểm,quy mô nhỏ bé chi phí hoạt động cao.
b. Từ ngày 21/1/1998 đến nay, tại kỳ họp thứ 2 tháng 12/1997 Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch 0,35% tháng, đồng thời để thu hẹp sự tách biệt giữa lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn NHNN quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3 trần và không quy định mức chênh lệch 0,35% tháng nữa:
-Trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1,2% tháng
-Trần lãi suất cho vay trung hạn là 1.25% tháng
-Trần lãi suất QTD cho vay thành viên 1,5% tháng
Việc quản ký lãi suất theo trần có ưu điểm sau:
+ Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng tự do ấn định mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể,linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh doanh thực hiện chính sách khách hàng tự chủ trong kinh doanh,thực hiện cạnh tranh lành mạnh từng bước tự do hoá lãi suất.
+ Phù hợp với đặc điểm chi phí hoạt động ở các địa bàn khác nhau.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước,xoá bỏ lãi suất thoả thuận vượt quá xa mức lãi suất do NHNN quy định
+ có trần khống chế sẽ bảo vệ lợi ích người vay,TCTD và người gửi tiền
+ Đảm boả vai trò quản lý của nhà nước của NHNN về lãi suất trong giai đoạn đầu của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường
Tuy nhiên quản lý lãi suất theo cách quản lý "cứng" trong nền kinh tế thị trường chưa phát huy hết mặt tích cực,nhạy cảm của nó lợi dụng mức khống chế cứng nhiều tổ chức tín dụng cho vay ngay theo mức tối đa,đụng trần lãi suất để đạt lợi nhuận cao.Nó ít linh hoạt khó điều chỉnh theo quan hệ cung cầu vốn và điều kiện khó khăn hay thuận lợi từng vùng.
III. vấn đề hiểu và cơ sở xác định lãi suất cơ bản trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam.
1. Cách hiểu lãi suất cơ bản.
Chính sách lãi suất là một trong ba công cụ điều hành của chính sách tiền tệ ( chính sách lãi suất,dự trữ,thị trường mở ), chính sách lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ, NHTW sử dụng chính sách tiền tệ để điều hành thị trường tiền tệ.Bởi vì vậy việc hoạch định một chính sách lãi suất đúng đắn ngoài việc quan tâm đến các luận điểm khoa học,còn phải tính toán đến bối cảnh và điêù kiện chính trị xã hội kinh tê trong mỗi thời kỳcủa mỗi nước
ở những nước khác nhau thì có những quan niệm khác nhau về lãi suất cơ bản.Có nước cho rằng lãi suất cơ bản(lscb) là lãi suất thị trường,có nước khẳng định lscb là tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành kinh tế.Nhiều nhà khoa lại dẫn chứng cụ thể lscb là lãi suất của thị trường liên ngân hàng libor ở anh,ở pháp...Môt số nước có nền kinh tế phát triển cao,lãi suất được tự do hoá.Như ở Pháp dùng lãi suất của thị trường liên ngân hàng làm lãi suất chỉ đạo (pibor) vì pháp là một nước mà lượng vốn ngân hàng nhiều hơn lượng vay vốn qua thị trường tài chính.Do đó mà viêc đảm bảo nhu vốn là do các ngân hàng lớn đảm nhận các ngân hàng lớn cho nhau vay vốn để đảm bảo thoả mãn cung cầu vốn trên thị trường.
hồng kông có mức tăng trưởng kinh tế tới 12,3% năm 1997 từ năm 1981 tới 1988 bình quân là 7,1% năm. Hông kông thi hành chính sách lãi suất ba tầng. Có ba loại định chế được phép nhận tiền gưỉ của công chúng : Ngân hàng được cấp giấy phép,công ty nắm giữ tiền gửi được cấp giấy phép,công ty nắm giữ tiền gửi đã đăng ký.Hồng kông là một nền kinh tế thị trường tự do phương đông,vì vậy chính sách lãi suất ngân hàng cũng thả nổi.Các quan chức tiền tệ trung ương không có. ViênToàn quyền và hội đồng lập pháp chịu trách nhiệm công việc tài chính tiền tệ.Bí thư tài chính và Bí thư tiền tệ ra quyết định về công việc hàng ngày.Họ cũng được uỷ quyền làm chức năng của ngân hàng trung ương.hồng kông đuợc có chính sách lãi suất độc lập trong dài hạn.Một các ten hoạt động từ năn 1960.Hiệp hội ngân hàng Hồng kông đặt ra lãi suất tiền gửi tối đa các ngân hàng căn cứ vào đó mà tự do định lãi suất cụ thể.Việc không đánh thuế vào lãi suất được bãi bỏ trong hai năm1982,1983.
Đối với Singapore: thị trường liên ngân hàng có hai thành phần cấu thành thị trường liên ngân hàng thực sự và thị trường triết khấu. Thông thường ngân hàng nội địa với số tiền gửi to lớn, là người cho vay thực, còn ngân hàng là người đi vay. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, đến giữa năm 1975 lãi suất này do Cacten ngân hàng dàn xếp. Cũng năm 1975, khi các chứng chỉ tiền gửi khả nhượng ra đời thì lãi suất được tự do hoá.
Còn đối với Nhật Bản: Vào giai đoạn phát triển với tốc độ cao,thị trường tiền tệ của Nhật chỉ dành cho các liên ngân hàng và một số vị trí tài chính được chính thức công nhận sau này khi mở rộng thị trường tiền tệ cho các thành phần khác tham gia,thị trường liên ngân hàng gồm hai loại :thị trường mua tiền tệ (call money maket ) và thị trường thương phiếu (bills maket).Trước tháng 5/1971 chỉ có thị trường mua tiền tệ,dành cho những giao dịch cực ngắn hạn.Từ tháng 5/1971 số giao dịch dài hạn yếu ớt đổi thành thị trường thương phiếu mới thành lập.Thị trường mua tiền tệ chỉ trở lại phục phụ cho thương mại. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng cung cấp một lãi suất tham chiếu cho mọi định chế tài chính.Lãi suất này được kiểm soát rất chặt chẽ bởi sự điều chỉnh của nhà nước bằng chính sách lãi suất nhân tạo ( lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 1997 tới nay của nhật chỉ có 0,29% năm,lãi suất của thị trường tiền tệ chỉ có 0,39% năm).
Nói chung mỗi nước có cách hiểu lãi suất cơ bản khác nhau và có cách điều lãi suất khác nhau,tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế,tình hình phát triển của thị trường tài chính tiền tệ các nước.
Đối với Việt nam ta nền kinh tế còn kém phát triển,thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển cao, cơ chế lãi suất mặc dù đã được điều chỉnh ngày một thích ứng với thị trường tài chính nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế.
Qua hơn 10 năm đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, chính sách lãi suất đã ngày càng thích ứng với hoàn cảnh trong nước và khu vực vai trò của lãi suất ngày một phát huy,thị trường tài chính tiền tệ ngày càng đóng vai trò cao trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
Từ việc xem xét kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và phân tích tình hình kinh tế xã hội ở Việt nam thì tại điều 18 luật NHNN Việt nam quy định :" NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn "
Điều 9 luật NHNN Việt nam xác định :" Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh "
Như vậy ta thấy NHNN điều hành lãi suất trên nguyên tắc vĩ mô ấn định một khung lãi suất và để cho các TCTD tự chủ trong kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trường.Nhà nước không can thiệp quá sâu vào quá trình kinh doanh của các tổ chức tín dụng dần tiến tới tự do hoá lãi suất.
2. Căn cứ xác định lãi suất cơ bản.
NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản còn các TCTD căn cư vào đó để xác định một lãi suất kinh doanh cho riêng mình trong giới hạn cho phép. Điều này không có nghĩa là NHNN bao cấp về lãi suất mà NHNN phải ban hành ra một lãi suất cơ bản vừa đảm bảo được cả lợi ích của người cho vay và người đi vay.
Muốn thế khi xách định lãi suất cơ bản ngân hàng nhà nước cần dựa vào những yếu tố sau:
T Đối với đồng Việt nam.
- Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế dự kiến hàng năm
- Chỉ số lạm phát dự kiến trong năm
- Lãi thực của người gửi tiền được hưởng khoảng 3%-4% năm nhằm đảm bảo lãi suất tiền gửi là số dương để khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng
- Mục tiêu chính sách tiền tệ từng thời kỳ thắt chặt hay lới lỏng tiền tệ
- Tình hình cung- cầu vốn tín dụng trên thị trường
- Mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ
- Lãi suất thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước trong các phiên đấu thầu gần nhất
- Lãi suất bình quân trên thị trường nội tệ liên ngân hàng thời gian gần nhất
- Tình hình thị trường tài chính tiền tệ thế giới
T Đối ngoại tệ.
- Lãi suất cơ bản là lãi suất SIBOR kỳ hạn một năm thời điểm gần nhất.
- Lãi suất tiền gửi tiết kiệm
- tiền gửi khách hàng
- Lãi suất thị trường liên ngân hàng bằng ngoại tệ
- Biên độ dao động mức tối đa theo thông lệ quốc tế từ 2%-2,5% năm mà tổ chức tín dụng được cộng thêm vào lãi suất cơ bản dể hình thành lãi suất cho vay tối đa ngoài ra căn cứ vào tình hình biến động tỉ giá để NHNN tăng hoặc giảm biên độ dao động.
Muốn ban hành ra một lãi suất cơ bản phù hợp cho từng thời kỳ thì đòi hỏi NHTW phải luôn cập nhật thông tin về các NHTM đồng thời các NHTM phải thường xuyên cung cáp các thông tin của mình cho NHTW. Từ đó NHTW phân tích đánh giá tình hình thị trường để ban hành ra một cơ chế lãi suất phù hợp với điều kiện đất nước và khu vực
3. Yêu cầu đặt ra với cơ chế lãi suất.
- Đảm bảo lãi suất thực phải dương, muốn thế thì lãi suất phải ngày càng sát với thị trường hơn để cung - cầu quyết định.
- Lãi suất phải được điều chỉnh mội cách linh hoạt mềm dẻo. Để đạt được điều này cần phải tiến đến cơ chế thị trường.
- Lãi suất trong nước phải được quy định phù hợp với tình hình thị trường tài chính tiền tệ thế giới để tránh thất thoát các nguồn vốn, thu hút đầu tư nước ngoài.
- Lãi suất phải phù hợp với mục tiêu phát triển đất nước của Đảng.
Trong điều kiện hiện nay chính sách lãi suất tạo điều kiện cho huy động vốn cho phát triển kinh tế, kích cầu, ổn định tiền tệ... Bảo vệ lợi ích của người đi vay và người cho vay,tạo điều kiện mở rộng tín dụng,đối với lãi suất ngoại tệ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài.
IV. Các cách lựa chọn lãi suất cơ bản.
Hiện nay đứng trước điều kiện nền kinh tế nước ta có rất nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định và điều hành lscb của NHNN,mỗi cách có những ưu nhược điểm khác nhau.Ta thấy nổi nên một số cách sau:
T Các cách điều hành lãi suất đối với VND
Cách 1: Lấy lãi suất tái cấp vốn của NHNN làm lãi suất cơ bản
Theo cách này ta thấy nó có những ưu và nhược điểm như sau
về ưu điểm : Ta thấy đây là biện pháp phổ biến mà NHTW các nước áp dụng,tuy nhiên lãi suất được lựa chọn là lãi suất tái cấp vốn.Do lãi suất này do NHNN chủ động công bố và được xem xét tính toán tương đối thường xuyên nên nó đóng vai trò quyết định đối với lãi suất kinh doanh cũnh như cung cầu vốn của các tổ chức tín dụng.
Đối với Việt nam,do các nghiệp vụ triết khấu của NHTW chưa phát triển,việc tái cấp vốn thực hiện tương đối trực tiếp,vì vậy lãi suất cấp vốn của NHTW để điều hành lãi suất sẽ thích hợp hơn là lãi suất triết khấu.NHTW chỉ xác định và công bố một mức lãi suất chỉ đạo đối với các TCTD,do vậy thuận tiện cho việc điều hành quản lý chính sách lãi suất của NHNN và tạo điều kiện chủ động trong kinh doanh cảu các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên theo Luật NHNN Việt nam quy định "NHNN xác địnhvà công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ".Vì vậy có quan điểm cho rằng không thể lấy lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản mà phải công bố mức lãi suất khác với cái tên gọi là lãi suất cơ bản.
Lãi suất tái cấp vốn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp để điều tiết lượng tiền cung ứng của NHTW và khối lượng vốn khả dụng của hệ thống NH đối với nền kinh tế và gián tiếp tác động vào lãi suất cho vay và huy động vốn thông qua tác động của cung cầu về vốn.Tuy thế do cơ chế lãi suất vận hành chưa thông suất theo cơ chế thị trường,các TCTD chưa được tự do tiếp cận nguồn vốn của NHTW,nên tác động của lãi suất tái cấp vốn đến mặt bằng lãi suất chung còn rất hạn chế
Mặc dù vậy đối với nước ta áp dụng lãi suất triết khấu hoặc tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản là chưa phù hợp cho lắm bởi vì chúng ta chưa có sự phối hợp đồng bộ của các công cụ chính sách tiền tệ chủ yếu khác đó là :
+ Nghiệp vụ thị trường mở chưa được thực hiện tốt
+ Dự trữ bắt buộc : Quy định hiện hành về dự trữ bắt buộc thiếu cơ sở khoa học về lý thuyết tạo tiền của các NHTM, về sự khác nhau trong việc tạo tiền ở NHTM đang hoạt động ở Việt nam với NHTM ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển,về sự khác nhau về quản lý tài sản Nợ,tài sản Có ở NHTM đang hoạt động ở Việt nam và NHTM ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển.Do đó tạo ra việc bất bình đẳng trong việc thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc giữa các TCTD.
Ta thấy cách chọn này chỉ thực sự phát huy tác dụng tốt khi nó hội tụ đủ những điều kiện quy định đó là nghiệp vụ thị trường mở ở nước đó phải tương đối phát triển, các quy định về dự trữ bắt buộc cũng cần phải thống nhất.
cách 2. NHNN công bố trần lãi suất cho vay như hiện nay làm lãi suất cơ bản, các TCTD căn cứ vào trần đó để định mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể từng thời kỳ khác nhau.
Ta thấy cách chọn này về nguyên tắc là phù hợp với luật NHNN, vì ở đây lựa chọn trần lãi suất cho vay làm lãi suất cơ bản để làm cơ sở cho các TCTD ấn định mức lãi suất cho vay và huy động vốn.NHNN công bố một mức lãi suất trần nhưng có thể quy định một số mức biên độ phù hợp với các loại hình TCTD.
Lựa chọn lãi suất cơ bản theo cách này nó có những ưu và nhược điểm sau:
ưu điểm: Tạo chủ động linh hoạt cho các TCTD trong kinh doanh và điều tiết quan hệ cung cầu vốn.Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong khuôn khổ trần lãi suất. Các TCTD không được cho vay với lãi suất vượt trần,nhằm bảo vệ lợi ích của người vay,tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với các tổ chức tín dụng và người gửi tiền. việc quy định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho vay trong phạm vi cả nước nên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra kiểm tra,giám sát về lãi suất của NHNN. Việc xác định công bố điều hành chính sách lãi suất của NHNN dễ dàng linh hoạt thuận tiện.
tuy nhiên khi chọn theo cách này cũng còn tồn tại một số mặt: Việc quy định trần lãi suất cho vay làm lãi suất cơ bản là không phù hợp với thông lệ quốc tế và mang nặng tính hành chính trong điều hành lãi suất. Do tính chất điều hành trực tiếp nhiều hơn gián tiếp có thể cản trở quá trình tự do hoá lãi suất cũng như định hướng chuyển dần từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp của NHTW. Việc quy định nhiều trần lãi suất đối với những địa bàn khác nhau tạo ra sự bất cập trong quản lý.
Theo em để điều hành lãi suất cách này đạt hiệu quả cao thì:
+ Trần lãi suất phải đủ rộng và thông thoáng phù hợp với yêu cầu của thị trường
+ Cần quy định trần chung cho các TCTD
+ NHNN cũng cần phải luân xem xét nhu cầu của thị trường để đề ra một trần hợp lý.
cách 3. NHNN công bố một mức lãi suất cơ bản trên cơ sở lãi suất đầu vào, đồng thời ấn định biên độ để các TCTD ấn định lãi suất cho vay.
Theo cách này về nguyên tắc vẫn là kiểm soát trần lãi suất và tự do hoá lãi suất tiền gửi.Theo cách này ta thấy có những ưu và nhược sau đây:
Về ưu điểm : NHNN quản lý lãi suất cho vay cao nhất và chủ động điều chỉnh lãi suất cho vay cũng như biên độ so với lãi suất cơ bản. Các TCTD chủ động và linh hoạt trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với biến động của thị trường tiền tệ và đặc điểm hoạt động của từng loại hình tín dụng trên các địa bàn khác nhau. Việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN mang tính chất quy định về nguyên tắc chung,không can thiệp qúa sâu vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
Về nhược điểm: Điều hành lãi suất theo cách này đòi hỏi phải có một biên độ tương đối rộng phù hợp với mọi loại cho vay,đối tượng vay,địa bàn hoạt động vì vậy giảm hiệu lực điều hành hoạt động của NHTW. Nếu quy định nhiều biên độ cũng có phức tạp khi xác định biên độ giao động và các tổ chức tín dụng nào trong điều kiện nào sẽ được cộng thêm biên độ.Mặt khác,điều hành lãi suất theo cách này làm cho các tổ chức tín dụng sẽ đồng loạt cộng biên độ vào lãi suất cơ bản,sẽ tạo ra một trần lãi suất chung cho cả nước và sẽ không phù hợp với đặc điểm của các tổ chức tín dụng khác nhau, các vùng khác nhau triệt tiêu tính cạnh tranh lành mạnh và sẽ tạo ra cạnh tranh không lành mạnh và không điều hoà được vốn tín dụng từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Cách 4 : NHNN công bố lãi suất cơ bản dựa trên cơ sở lãi suất cho vay tối thiểu đủ bù đắp các chi phí và có lợi nhuận của các tổ chức tín dụng, và biên độ dao động để các TCTD được phép ấn định mức lãi suất cho vay cụ thể.
Ta thấy điều hành lãi suất theo cách này dựa trên kinh nghiệm điều hành lãi suất của Malaysia, NHTW công bố lãi suất cơ sở dựa trên các yếu tố: chi phi về nguồn vốn, chi phí về dự trữ bắt buộc, chi phí hành chính nhân viên...Biên độ lợi nhuận cố định 0,25% năm. Lãi suất cho vay của các TCTD Malaysia không được thấp hơn mức lãi suất cơ sở của NHTW đã quy định và được phép cộng thêm biên độ tối đa (hiện nay là 2,5% năm) để ấn định các mức lãi suất cho vaycụ thể.
Điều hành lãi suất theo cách này có những ưu nhược điểm sau:
+ Ưu điểm: Phương án này về nguyên tắc là NHNN kiểm soát cả lãi suất cho vay tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa, tự do hoá lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Việc điều hành chính sách lãi suất của NHNN mang lại tính chỉ đạo, NHNN không can thiệp trực tiếp vào lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng.Các tổ chức tín dụng chủ động và linh hoạt trong việc ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay,phù hợp với biến động của thị trường tiền tệ và đặc điểm họat động của từng loại hình tổ chức tín dụng và các vùng khác nhau.
+ Nhược điểm : Vì có nhiều loại cho vay, đối tượng vay,địa bàn hoạt động khác nhau, nên nếu NHNN quy định một mức biên độ thì mức này sẽ phải tương đối rộng để phù hợp với mọi loại cho vay. Nếu quy định nhiều biên độ sẽ phức tạp khi xác định các mức biên độ giao động cụ thể áp dụng cho từng loại cho vay, từng tổ chức tín dụng.Các tổ chức tín dụng sẽ đồng loạt cộng biên độ tối ta vào lãi suất cơ bản sẽ tạo ra một trần lãi suất chung cho cả nước và sẽ không phù hợp với tính chất đặc điểm của các tổ chức tín dụng và các vùng khác nhau, triệt tiêu tính cạnh tranh lành mạnh và sẽ tạo cạnh tranh không lành mạnh và không điều hoà được vốn tín dụng từ nơi thừa đến nơi thiếu.
T Đối với lãi suất cơ bản là ngoại tệ:
Lãi suất cơ bản : Lấy lãi suất Sibor của USD kỳ hạn 6 tháng hoặc 1 năm làm lãi suất cơ bản cho lãi suất ngoại tệ, tổ chức tín dụng được cộng với biên độ giao động do NHNN quy định để ấn định lãi suất cho vay bằng USD.Lãi suất cho vay các đồng tiền khác cũng do tổ chức tín dụng ấn định.
Cơ sở xác định lãi suất cơ bản và biên độ giao động:
- Căn cứ vào lãi suất Sibor của USD để công bố lãi suất cơ bản và điều chỉnh khi cần thiết.
- Căn cứ xác định biên độ giao động của lãi suất ngoại tệ:
+ Lãi suất trên thị trường quốc tế.
+ Mức phí của thị trường quốc tế về cho vay ngoại tệ
+ Quan hệ tỷ giá ngoại tệ trong nước.
+ Quan hệ cung cầu vốn ngoại tệ và nội tệ trong nước.
+ Chủ chương thu hút vốn trong nước và ngoài nước của nhà nước.
V. Định hướng điều hành lãi suất cơ bản ở Việt nam và vấn đề tự do hoá lãi suất:
1. Định hướng điều hành lãi suất ở Việt nam trong hoàn cảnh mới :
Xem xét quá trình đổi mới chính sách lãi suất trong hơn 10 năm, ta thấy chính sách lãi suất ngày càng tiến gần hơn tự do hoá lãi suất, thích ứng với thị trường hơn. Nhưng vấn đề đặt ra là có hay không áp dụng tự do hoá lãi suất.
Tiến tới tự do hoá lãi suất là việc cần thiết nhưng điều này chỉ đúng và có hiệu quả cao khi nó hội tụ đủ những điều kiện cần thiết. Nếu không thì nó sẽ không phát huy tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển mà nó còn làm kìm hãm sự phát triển kinh tế. Bởi vì thế mà tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội, tình hình, mức độ phát triển của thị trường tài chính tiền tệ mỗi nước mà có những định hướng điều hành chính sách lãi suất khác nhau.
Đối với Việt nam ta đã trải qua hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất định góp phần không nhỏ vào những thành tựu chung của nền kinh tế.Cùng với quá trình từng bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường các nghiệp vụ ngân hàng đã không ngừng được đổi mới và phát triển để phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta.Trong nhiệm vụ xây dựng và thực hiện điều hành chính sách tiền tệ, NHNN đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết như : hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc,tỷ giá. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là công cụ quản lý lãi suất, lãi suất được coi là công cụ nhạy cảm nhất có diện ảnh hưởng lớn nhất. Thời gian qua,từ thực tế sử dụng công cụ lãi suất chúng ta đã rút được ít nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Tuy nhiên cánh áp dụng vẫn còn mang tính áp đặt trực tiếp, chính vì vậy vấn đề điều hành lãi suất cần phải được cải tiến để phù hợp hơn trong giai đoạn tới
Xét thực trạng nền kinh tế Việt nam, ta thấy kinh tế Việt nam vừa vượt qua giai đoạn từ một nền kinh tế kế hoạch hoá đậm nét, tính quan liêu, bao cấp để tiến tới phát triển theo hướng kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN, có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Thị trường tài chính tiền tệ chưa ổn định vững vàng, hệ thống NHTM còn nhỏ bé chưa đủ sức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, trong đó thị phần chủ yếu là các NHTM qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35166.doc