MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 2
1.2. Nội dung, phạm vi nghiên cứu 3
CHƯƠNG 1. LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 4
1.1. Lãi suất 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2.Các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ 4
1.1.3.Các nhân tố tác động đến lãi suất 6
1.1.4. Vai trò của lãi suất 7
1.2. Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương 8
1.2.1.Khái niệm 8
1.2.2. Nội dung của chính sách lãi suất 8
1.2.3 Vai trò của ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ 9
1.2.4 Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng trung ương 10
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 11
2.1. Thực trạng của chính sách lãi suất trong thời kỳ 1988- 2004 2.1.1. Chính sách lãi suất áp dụng trong thời kỳ trước năm 1988 2.1.2. Chính sách lãi suất áp dụng trong thời kỳ 1988- 2008 11
2.2. Đánh giá chính sách lãi suất đã được áp dụng trong thời kỳ 1988- nay
2.2.1. Quá trình phát triển của chính sách lãi suất 15
2.2.2. Quan hệ giữa lãi suất và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ 16
2.2.3. Đánh giá chính sách lãi suất 17
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NHỮNG NĂM TỚI 18
KIẾN NGHỊ 20
KẾT LUẬN 22
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6153 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãi suất và chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng sẽ tạo ra một nguồn vốn của cải cho xã hội, tổng thu nhập quốc dân tăng lên rất nhiều.
° Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, lãi suất là giá cả của vốn, do vậy thông qua lãi suất các ngân hàng thương mại sẽ tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng của mình mà kết quả cuối cùng là nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư được lợi hơn vì sẽ được hưởng giá rẻ và chất lượng dịch vụ cao.
° Lãi suất là công cụ dùng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, hay nói cách khác, khi các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư có vốn, muốn đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải lấy lãi suất tín dụng trong nền kinh tế làm cơ sở và quyết định, ít nhất hiệu quả đầu tư vào các lĩnh vực khác để sinh lời phải có tỷ lệ lớn hơn hoặc cùng lắm phải bằng lãi suất tín dụng.
° Lãi suất còn là công cụ để kềm chế lạm phát rất hữu hiệu thông qua chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hút tiền nhàn rỗi trong lưu thông về, nhằm điều hòa lượng tiền trong lưu thông, cân đối với khối lượng hàng hóa.
Như vậy, lãi suất trong nền kinh tế là công cụ kinh tế khá quan trong, làm sao lãi suất phải phù hợp với lãi suất của các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết
1.2. Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương
1.2.1.Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách lãi suất là bộ phận của chính sách tiền tệ, tác động đến cung- cầu vốn và hiệu quả phân bổ các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế
1.2.2. Nội dung của chính sách lãi suất
Nội dung của chính sách lãi suất được xác định bằng mô hình:
Rf = f(x1, x2, x3, x4, x5, x6)
Trong đó:
- x1 là cân bằng cung - cầu vốn thị trường, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng vốn huy động và vốn tín dụng của hệ thống TCTD phải tương ứng với nhau, vì trong những năm tới, kênh tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ yếu trong huy động tiết kiệm và cung ứng vốn cho đầu tư phát triển; việc sử dụng quan hệ các chỉ số vốn tín dụng nói trên phản ánh tương đối chính xác quan hệ cung - cầu vốn thị trường.
- x2 = R – CPI > 0, trong đó R là lãi suất tiền gửi danh nghĩa ngắn hạn VND của TCTD, CPI là chỉ số giá tiêu dùng; áp dụng công thức hiệu ứng của Fisher là lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
- x3 là cân bằng giữa cung - cầu vốn khả dụng của TCTD mà cầu vốn khả dụng là số vốn các TCTD cần có để đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên cho khách hàng, được NHNN dự báo, hàng tuần, tháng hoặc quý để điều tiết tiền tệ; còn cung vốn khả dụng của TCTD bao gồm tiền mặt tại quỹ + tiền gửi tại NHNN vượt mức DTBB + hạn mức chiết khấu chưa sử dụng + giá trị giấy tờ có giá có thể bán trên thị trường liên ngân hàng phải đủ hoặc dư thừa so với nhu cầu vốn của thị trường.
- x4 là cân bằng giữa lãi suất VND – tỷ giá hối đoái – lãi suất USD theo phương trình lãi suất tiền gửi VND = lãi suất tiền gửi ngắn hạn USD + mức tăng tỷ giá VND so với USD + hệ số k, trong đó hệ số 2% để đảm bảo³k là chênh lệch lợi tức giữa tiền gửi VND và tiền gửi USD và k tính hấp dẫn của lãi suất VND, tránh chuyển dịch tiền gửi VND sang USD và hỗ trợ huy động vốn ở trong và ngoài nước.
- x5 < tốc độ tăng GDP thực tế, tức là lãi suất thực là phần giá trị gia tăng mà người gửi tiền nhận được từ kết quả hoạt động của nền kinh tế trong một thời hạn nhất định phải nhỏ hơn mức độ gia tăng của cải thực của nền kinh tế, thì mới khuyến khích tiết kiệm, đầu tư.
- x6 là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động thực tế bình quân của TCTD và 3% < x6 < 6%, vì theo thống kê chênh lệch này của các TCTD trong 10 năm qua (1995 - 2004) giao động trong khoảng 3%-6% và với mức này đủ để các TCTD có thể bù đắp chi phí; đồng thời, theo thông lệ quốc tế và các kiến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thì chênh lệch lãi suất của các NHTM Việt Nam phải ở mức 5% - 6% để bù đắp đủ dự phòng rủi ro và tái đầu tư hiện đại hoá công nghệ.
1.2.3 Vai trò của ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ
NHTƯ với chức năng bẩm sinh, là cơ quan duy nhất điều tiết được cung tiền của nền kinh tế, chủ động tác động đến lãi suất thị trường, nhằm hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trên thực tế, sự tăng lên của lãi suất chính thức của NHTƯ có thể có ảnh hưởng mạnh đến giảm lạm phát khi sự thay đổi lãi suất chính thức của NHTƯ có tác động nhanh, mạnh đến sự thay đổi lãi suất trong nền kinh tế và tỷ giá hối đoái. Điều này càng đúng hơn trong nền kinh tế có hệ thống tài chính mở và cạnh tranh hơn, khi đó nhiều hợp đồng được ký kết trên cơ sở lãi suất thả nổi hơn là trên cơ cở lãi suất cố định, lúc đó những thay đổi trong lãi suất chính thức càng có ảnh hưởng đến lãi suất khác và tỷ giá. Mặt khác, sự tăng lên của lãi suất NHTƯ có thể có ảnh hưởng nhanh hơn trong việc giảm lạm phát và dẫn đến sản lượng giảm chút ít trong ngắn hạn, khi: Kỳ vọng tiền lương và giá cả nhạy cảm hơn với những thay đổi trong lãi suất chính thức và tiền cung ứng( độ nhạy cảm này sẽ tăng lên nếu chính sách có độ tin cậy); hoặc/và tiền lương nhạy cảm với những thay đổi của sản lượng và việc làm ( sự nhạy cảm này tăng lên khi thị trường lao động linh hoạt); khi tỷ giá là linh hoạt ; và khi giá cả trong nước nhạy cảm với những thay đổi trong tỷ giá (sự nhạy cảm này phụ thuộc vào những thay đổi của giá hàng nhập khẩu theo tỷ giá, theo đó cũng phụ thuộc vào những nhà xuất khẩu nước ngoài không thay đổi lợi nhuận cận biên của họ, và phụ thuộc vào ảnh hưởng của những thay đổi giá nhập khẩu lên giá cả trong nước. Mức độ ảnh hưởng càng lớn khi nhập khẩu chiếm tỷ lệ lớn trong GDP, như đối với những nước nhỏ, mở cửa hơn là những nước lớn mà đóng cửa).
1.2.4 Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng trung ương
Các cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT: NHTƯ áp dụng hai cơ chế chủ yếu:
Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất trực tiếp mà theo đó, NHTƯ quy định các mức lãi suất cụ thể cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân… Thực chất là NHTƯ quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất cho phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất cho vay phù hợp. Khi có thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý. Nhìn chung trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hoá, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất gián tiếp là việc NHTW sử dụng các công cụ CSTT gián tiếp để kiểm soát lãi suất thị trường biến động phù hợp với lãi suất mục tiêu. Thông qua cơ chế tái cấp vốn ( chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá…) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doan của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repo của ngân hàng Anh, ngân hàng liên bang Đức, ngân hàng trung ương Châu Âu; lãi suất tiền gửi liên bang của Cục dự trữ liên bang Mỹ….
Các mô hình điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT: Mô hình hành lang hay khung lãi suất mà theo đó, NHTW thiết lập và kiểm soát lãi suất thị trường liên ngân hàng trong hành lang mà lãi suất cho vay qua đêm là “trần”, lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất tiền gửi của NHTM là “sàn”. Mô hình giới hạn trên chỉ sử dụng “trần” là lãi suất cho vay qua đêm của thị trường liên ngân hàng. Mô hình giới hạn dưới, sử dụng “sàn” là lãi suất tiền gửi của NHTM hoặc lãi suất chiết khấu.
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của chính sách lãi suất trong thời kỳ 1988- 20042.1.1. Chính sách lãi suất áp dụng trong thời kỳ trước năm 1988 Trong thời kỳ trước năm 1988, NHNN đã thực thi chính sách lãi suất thấp, bao cấp, phù hợp với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa. 2.1.2. Chính sách lãi suất áp dụng trong thời kỳ 1988- 2008
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như sau: - Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn 1988- tháng 5/1992: Trong giai đoạn này, NHNN đã thực hiện chính sách lãi suất “âm” mà theo đó, lãi suất tiền gửi được quy định cao hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất cho vay, góp phần chống khủng hoảng và kiềm chế lạm phát phi mã. Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992). Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn tháng 6/1992-1995: NHNN bỏ chính sách lãi suất “âm”, chuyển sang chính sách lãi suất “thực dương”, quy định mức “sàn” lãi suất tiền gửi và “trần” lãi suất cho vay; công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn 1996- tháng 7/2000: Từ tháng 1/1996, NHNN điều chỉnh một bước chính sách lãi suất theo hướng thị trường bằng việc bỏ việc quy định “sàn” lãi suất tiền gửi, chỉ quy định “trần” lãi suất cho vay; khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân của các TCTD là 0,35%/tháng; điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu phù hợp với hướng “nới lỏng” tiền tệ. Cơ chế điều hành lãi suất trần, nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn tháng 8/2000- 5/2002: Từ tháng 8/2000, NHNN bỏ cơ chế “trần” lãi suất cho vay chuyển sang thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản, điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu phù hợp với CSTT “nới lỏng thận trọng”. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8.2000-5.2002): Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn tháng 6/2002-2006: Tháng 6/2002, NHNN đã bỏ quy định việc TCTD ấn định lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản, chuyển sang cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận mà theo đó, các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường; NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản với mục đích phát tín hiệu và định hướng lãi suất TTTT; áp dụng mô hình hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2006): Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước.
Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới thời điểm tháng 6/2008, mức lãi suất là 14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12% trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng này nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền trong nước
Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những biến động, đầu năm lãi suất lên cao. Đặc biệt là từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy động trên thị trường đã biến động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ lên mức 13-14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức trên 1,5%/tháng vào tháng 3 năm 2008, có nơi còn cho vay với lãi suất xấp xỉ 20%/năm. Đây là một sự chuyển động theo tín hiệu lãi suất thực dương. Tuy nhiên, bên cạnh người gửi tiền phấn khởi vì lãi suất tiền gửi lên là người đi vay phải lo lắng cho việc không thể nào chịu đựng nổi lãi suất đi vay 15-17%/năm. Các NHTM thì vẫn sử dụng chính sách huy động lãi suất cao và cho vay lãi suất cũng cao theo, tức là vẫn có lãi lớn trong trước mắt. Thực tế đã có một số NHTM cổ phần với nhận thức như vậy đã cố tình đẩy lãi suất huy động lên làm cho thị trường tiền tệ có nhiều biến động mạnh.
Sau khi NHNN có công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 về việc chốt trần lãi suất huy động VNĐ ở mức 12%/năm thì ngày 24/3/2008, Hiệp hội các Ngân hàng có họp và có sự đồng thuận về lãi suất, các NHTM mới có sự điều chỉnh lãi suất với mức 10,5%/năm (dưói 6 tháng) và 11%/năm (trên 6 tháng). Đến đầu tháng 4 năm 2008 lãi suất huy động VNĐ kỳ hạn 1 năm ở mức 11,5-12%, lãi suất cho vay VNĐ ở mức16-18%/năm, lãi suất huy động USD kỳ hạn 6 tháng đến 1 năm ở mức 6%-6,5%/năm. Đến ngày 16/4/2008, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN bỏ trần lãi suất huy động, để thị trường tự điều tiết vì thấy các NHTM đều huy động với lãi suất thấp hơn lãi suất trần. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, một vài NHTM cổ phần đã tranh thủ đẩy lãi suất huy động lên cao hơn mức trần 12%. Việc đẩy lãi suất huy động lên trên 12% của một vài NHTM cổ phần là nhằm thu hút được nhiều vốn vì họ vẫn có lãi khi cho vay với lãi suất cao 18-20%.
Lãi suất thực dương cao có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cao quá mức thì có thể là một tai hoạ cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo. Việc cho vay với lãi suất quá cao 18-20% của một số NHTM cổ phần là một sự bảo đảm có lợi nhuận lớn cho các ngân hàng này vì chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động là quá lớn 6-7%, trước đây ta chỉ cho mức chênh lệch này ở mức không quá 0,35%. Lãi suất cho vay lên cao đã tạo ra gánh nặng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì không có mấy hoạt động có thể có lãi trên 20%, tức là đủ trả lãi cho NHTM cổ phần và một phần để cho doanh nghiệp.
Tuy vậy, tại sao các NHTM cổ phần vẫn thiếu vốn cho vay và NHNN vẫn phải cho vay tái cấp vốn với lãi suất 0.9%/tháng? Chúng tôi cho rằng điều này NHNN phải nghiên cứu thật kỹ, kiểm tra thật chặt chẽ vì khả năng vay vốn đầu cơ nhiều hơn là cho sản xuất kinh doanh, hoặc những dự án đã trót triển khai thì bắt buộc phải vay, lãi suất cao bao nhiêu cũng chịu nhưng không lường và không tính đến khả năng không trả được nợ. Bài học hơn 25 ngàn tỷ đồng nợ xấu không thu được phải xử lý của các NHTMNN trước đây vẫn còn trước mắt.
Việc NHNN tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng cho các NHTM cổ phần thiếu vốn cho vay thực tế là làm cho tiền trong lưu thông lại tăng lên và vòng tiếp theo là lạm phát tăng cao. Hành động này cũng khuyến khích các NHTM cổ phần cứ cho vay ra với lãi suất cao mà không có điểm dừng, hậu quả lạm phát cao và mất ổn định hệ thống ngân hàng trong thời gian tới vì đến tháng 4/2008 dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ở mức 60,2% so với cùng kỳ năm 2007.
Tóm lại : Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua năm bước chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định:
2.2. Đánh giá chính sách lãi suất đã được áp dụng trong thời kỳ 1988- nay2.2.1. Quá trình phát triển của chính sách lãi suất
- Sự thay đổi thích hợp của chính sách lãi suất: Trong từng giai đoạn, tuỳ theo diễn biến và mục tiêu kinh tế vĩ mô- tiền tệ, NHNN đã thực thi chính sách lãi suất thích hợp, tiến dần theo các nguyên tắc thị trường. Từ tháng 6/1992, chuyển từ chính sách lãi suất “âm” sang chính sách lãi suất “thực dương” và có sự điều chỉnh linh hoạt trong các giai đoạn tiếp theo. Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát. Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi.
- Quá trình tự do hoá lãi suất: Từ tháng 6/2002, lãi suất VND trên thị trường đã được tự do hoá. Quá trình tự do hoá lãi suất diễn ra trong hơn 10 năm (1991-2002), theo bước đi “tự do hoá dần dần”, bắt đầu là tự do hoá lãi suất tiền gửi, tiếp đến là lãi suất cho vay, lãi suất TTTT thứ cấp tự do hoá trước, rồi đến lãi suất TTTT sơ cấp. Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Quyết định 546/2002 QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng, đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế đối với hoạt động tín dụng và lãi suất cơ bản công bố của Ngân hàng Nhà nước dần dần sẽ mang tính chất tham khảo đối với các tổ chức tín dụng trong việc xác định lãi suất từng thời kỳ. Như vậy quá trình đổi mới cơ chế lãi suất từ kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất sang cơ chế lãi suất thỏa thuận thực chất là dần dần đã tự do hóa lãi suất, đây là những bước đi thận trọng, đã có những thành công cơ bản của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
2.2.2. Quan hệ giữa lãi suất và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ
- Quan hệ giữa lãi suất và diễn biến kinh tế vĩ mô: Chính sách lãi suất có mối quan hệ chặt chẽ với diễn biến kinh tế vĩ mô, thể hiện lãi suất thị trường ổn định do các cân đối vĩ mô được giữ vững (tăng trưởng kinh tế cao, cán cân thanh toán thặng dư, bội chi ngân sách dưới 5% GDP…). Ngược lại, lãi suất thị trường có quan hệ tỷ lệ hợp lý với các chỉ số kinh tế vĩ mô cho nên đã kích thích hoạt động của nền kinh tế.
- Quan hệ giữa lãi suất và lạm phát: Lãi suất tiền gửi và cho vay của TCTD biến động cùng chiều hướng giảm của lạm phát, đảm bảo lãi suất “thực dương”. Theo cơ chế truyền dẫn và tác động của chính sách lãi suất và mô hình thực nghiệm, thì NHNN có thể sử dụng lãi suất cho vay ngắn hạn tốt nhất của TCTD làm lãi suất mục tiêu để điều hành.
- Quan hệ giữa lãi suất thực và tăng trưởng kinh tế: Lãi suất thực nhỏ hơn tăng trưởng kinh tế thực tế là mối tương quan hợp lý, vì tăng trưởng kinh tế phản ánh mức gia tăng của cải và “lợi tức- lãi suất thực của tư bản cho vay” thông thường phải nhỏ hơn mức gia tăng này.
- Quan hệ giữa cung- cầu vốn và lãi suất TTTT: Đối với nền kinh tế quy mô nhỏ, mở cửa và trong thời kỳ chuyển đổi như Việt Nam, để tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định lãi suất thị trường, thì phải tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bù đắp đủ chênh lệch “âm” giữa tiết kiệm và đầu tư. Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng vốn huy động và tín dụng của hệ thống phản ánh khá chính xác tình trạng cung- cầu vốn thị trường và có mối quan hệ chặt chẽ với biến động lãi suất TTTT (nếu cố định các nhân tố tác động khác). Để kiểm soát lãi suất TTTT, NHNN cần giám sát chặt chẽ quy mô và chất lượng tăng trưởng tín dụng, các hệ số an toàn kinh doanh của các NHTM. - Quan hệ giữa lãi suất VND, tỷ giá USD/VND và lãi suất USD: Nền kinh tế Việt Nam bị đô la hoá ở mức cao trong nhiều năm trở lại đây. Mối quan hệ giữa lãi suất VND- tỷ giá USD/VND- lãi suất USD được biểu hiện bằng mô hình:
Lãi suất tiền gửi ngắn hạn VND = Lãi suất tiền gửi ngắn hạn USD + Mức tăng của tỷ giá giữa VND so với USD + Hệ số điều chỉnh (k).k là chênh lệch lợi tức giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn VND và lãi suất tiền gửi ngắn hạn USD. Nếu (k) ở mức 2%- 3% thì tác động ổn định TTTT; nếu k<0, TTTT bị xáo trộn do dịch chuyển vốn VND sang USD.
- Quan hệ giữa lãi suất, cung ứng tiền và phát triển TTTT: Quan hệ giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (M2) và lãi suất TTTT là tỷ lệ nghịch, nhưng xét độ trễ thời gian từ 1 đến 2 năm, thì biến động lãi suất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22903.doc