Đề tài Lãi suất và vai trò của lãi suất trong huy động vốn

 

MỤC LỤC

 

Trang

LỜI NÓI ĐẦU

NỘI DUNG ĐỀ TÀI

I - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÃI SUẤT

1. Khái niệm về lãi suất

2. Các nhân tố tác động đến lãi suất

3. Phân loại lãi suất

4. Phương pháp tính lãi suất

II - VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT

1.Chức năng của lãi suất

2. Vai trò của lãi suất

3. Phân biệt lãi suất với một số khái niệm khác của lãi suất

III - NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

KẾT LUẬN

 

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3349 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lãi suất và vai trò của lãi suất trong huy động vốn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong lĩnh vực dịch vụ - dịch vụ tài chính tiền tệ. Vì vậy ngân hàng chính là trung gian tài chính đứng ra vay vốn của những người cho vay rồi dùng số vốn đó cho những người thiếu vốn vay lại, góp phần làm cho các nguồn vốn "nhàn rỗi" không sinh lợi của mọi người được tập trung chuyển đến cho những doanh nghiệp lớn, nhỏ thiếu vốn đẻ mở rộng sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận. Trong thực tế đời sống, những người mang tiền của mình đến các ngân hàng gửi tiết kiệm bao giờ cũng muốn lãi suất tiền gửi càng cao càng tốt, còn những người đi vay tiền ngân hàng thì bao giờ cũng muốn lãi suất càng thấp càng tốt. Đứng trước tình trạng đó, ngân hàng thương mại đã phải tính toán, điều chỉnh lãi suất, kể cả lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay cho phù hợp với tình hình thực tiễn cuộc sống phát triển xã hội. Do đó bằng mọi cách ngân hàng phải có biện pháp hữu hiệu để huy động ngày càng nhiều vốn cho mình. Vì vậy lãi suất cũng là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ, sát sao trong nền kinh tế. Bởi nó trực tiếp tác động, ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi chúng ta và ngoài ra nó còn có những hệ quả quan trọng, hữu hiệu đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đất nước ta những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến phát triển đáng kể về kinh tế. Chúng ta đã có sự hình thành thị trường chứng khoán mặc dù chưa phổ biến. Nhưng đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nghị quyết IX của Đảng cũng luôn đề cao vai trò phát triển của nền kinh tế trong đó phải kể đến sự phát triển rộng rãi của hệ thống ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi để đưa voà sử dụng và trả lãi hàng tháng cho người gửi. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động ngân hàng thương mại trong đó phải kể đến vấn đề lãi suất và với mong muốn nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này em đã chọn đề tài "Lãi suất và vai trò của lãi suất trong huy động vốn". Giúp em hiểu rõ hơn vai trò của lãi suất trong đời sống của chúng ta cũng như trong nền kinh tế thị trường nói chung Nội dung đề tài I - Khái quát chung về lãi suất 1. Khái niệm về lãi suất Lãi suất là tỷ số giữa tổng số lợi tức hàng năm và tổng số vốn đã bỏ ra cho vay trong năm. Hay nói cách khác, lãi suất là giá cả mà con nợ phải trả cho chủ nợ để được sử dụng khoản tiền vay trong một kỳ hạn nhất định. Theo Marshall thì: "Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ, lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn trên thị trường đó với lãi suất đó bằng tổng cung về vốn được cung ứng trên thị trường đó với lãi suất đó". Trong thực tiền đời sống lãi suất cao hay thấp là do quan hệ cung cầu vốn quyết định. Bởi khi cung lớn hơn cầu thì lãi suất giảm và ngược lại khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng. Đồng thời giới hạn cao nhất của lãi suất phải thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, nếu bằng thì số không có người đi vay, và giới hạn thấp nhất của lãi suất bao giờ cũng phải lớn hơn số không, nếu là bằng thì sẽ không có người cho vay. Vì vậy có thể nói, sự qui định lãi suất làm cho đời sống của những người gửi tiết kiệm, tăng thêm lợi nhuận tuỳ từng thời kỳ mà sự quy định lãi suất có sự khác nhau. Để nhằm mục đích huy động vốn để đưa vào sử dụng bằng cách cho vay và nhận tiền gửi vào. Khi nhận tiền gửi của khách hàng, ngân hàng đã đem lại thu nhập cho người gửi tiền. Khi cho các doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng đã cung cấp cho họ phương tiện kinh doanh làm giàu, đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Vì vậy nó vừa đem lại lợi ích cho người gửi, người đi vay và Nhà nước. 2. Các nhân tố tác động đến lãi suất. Sở dĩ lãi suất luôn luôn có sự biến động không ngừng là do các nhân tố chính sau đây. a. Sự thay đổi của tổng cầu (viết tắt là GNP) Khi tổng cầu tăng lên, thì nền kinh tế đòi hỏi phải tăng khối lượng tiền cung ứng (nếu tốc độ lưu thông tiền tệ không thay đổi), để đảm bảo cung cầu tương ứng. Nếu trong điều kiện đó, khối lượng cung ứng tiền (M1 hoặc M2) tăng quá cầu thì MV > PQ, lúc này cung vốn đầu tư lớn hơn cầu vốn đầu tư sẽ làm cho lãi suất giảm. Đồng thời, ngược lại nếu khi GNP giảm thì khối tiền cung ứng thực tế cũng giảm theo. Trong điều kiện đó nếu tốc độ lưu thông tiền tệ không thay đổi mà giảm khối cung ứng tiền tệ xuống quá thấp sẽ đưa đến tình trạng MV < PQ. Lúc này sẽ xảy ra trường hợp cung vốn đầu tư nhỏ hơn cầu vốn đầu tư nên lãi suất sẽ tăng lên. Vì vậy sự thay đổi của GNP cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc biến động của lãi suất, làm cho tỷ lệ lãi suất không có sự ổn định. b. Sự chi tiêu của Chính phủ Nếu trong thực tế khi lượng tiền cung ứng (M1 hoặc M2) không có sự thay đổi mà Chính phủ lại chi tiêu quá nhiều sẽ dẫn đến làm giảm nhu cầu chi cho đầu tư và tiêu dùng của cá nhân, nhu cầu tiền của nhân dân trở nên kham hiếm, nguồn cung ứng vốn nhỏ hơn nhu cầu vốn. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến một hệ quả là lãi suất tăng lên một cách đáng kể, làm bất lợi cho những người đi vay. c. Chính sách tiền tệ của Chính phủ. Như ta đã biết chính sách tiền tệ của Chính phủ ban hành là nhằm mục đích kiểm soát lượng cung ứng tiền tệ, kiểm soát tình trạng lạm phát và các tác động đến lãi suất để thực hiện các mục tiêu đã định. Khi lãi suất tăng giảm nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, ngân hàng Trung Ương sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu trừ cho các ngân hàng thương mại. Lúc này, các ngân hàng thương mại được giảm lãi suất tái chiết khấu, hạ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp làm cho toàn bộ hệ thống lãi suất đối với các thành phần kinh tế đều được giảm, các khoản cho vay tăng lên. Ngược lại khi khối lượng tiền cung ứng thừa thì lãi suất giảm. Lúc này, ngân hàng Trung Ương sẽ tuỳ cho tình hình và mức độ để lựa chọn sử dụng có mức độ một trong các công cụ của chính sách tiền tệ để điểu tiết lượng cung ứng tiền tệ. Và khi cảm thấy cần phải rút bớt khối lượng tiền cung ứng thừa thì ngân hàng Trung Ương lại tiến hành nâng lãi suất tái chiến khấu để giảm bớt khối lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, buộc các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với các thành phần kinh tế. Khi đó các khoản cho vay sẽ giảm xuống thấp hơn ban đầu. d. Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Trong thực tiễn khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì kéo theo lãi suất tăng và ngược lại. Cũng giống như nhu cầu đầu tư, khi mà người dân đều đổ xô vào đầu tư kinh doanh kiếm lợi nhuận nên cầu có khối lượng tiền, tài sản lớn dẫn đến đã làm cho lãi suất tăng một cách đột ngột. Nhưng khi nhu cầu đầu tư kinh doanh giảm, đầu tư không còn là mục đích hàng đầu của người dân nữa thì tất yếu sẽ làm cho lãi suất giảm xuống. Nếu không cứ giữ mức lãi suất cao như thế hoạt động của ngân hàng sẽ kém hiệu quả, vốn không đưa được vào quá trình lưu thông sử dụng, ngân hàng sẽ bị thua lỗ. 3. Phân loại lãi suất. Trong sự hoạt động sôi động của thị trường tín dụng, thì những người tiết kiệm (tức là những người có vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến) và những người đi vay có nhu cầu khác nhau. Chính vì vậy mà có rất nhiều hình thức đi vay và cho vay khác nhau, đồng thời các hình thức hoàn trả vốn và lãi suất cũng khác nhau. Nhưng tựu chung lại thì có bốn loại lãi suất phổ biến, thường gặp trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta như sau: a. Lãi suất trả dẫn cùng với vốn. Hình thức này người ta còn gọi là cho vay hoàn trả cố định. Tức là người đi vay phải trả nợ cả vốn và lãi đầu theo định kỳ đều đặn hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm (tuỳ thuộc sự thoả thuận của các bên). Vì vậy khi đến hạn trả nợ người vay không phải trả toàn bộ vốn gốc như trong hình thức cho vay đơn. Bởi vay đơn là ngân hàng cung cấp cho người vay một khoản tiền vốn (tiền gốc ban đầu), vốn này phải được hoàn trả người cho vay vào ngày mẫu hạn cùng với một khoản tiền phụ được gọi là tiền lãi. Hình thức lãi suất trả dần cùng với vốn được sử dụng phổ biến trong việc cho vay trung hạn và dài hạn trong lĩnh vực sản xuất, nhà đất mua sắm máy móc công cụ, phương tiện vận tải... b. Lãi suất trả trước. Lãi suất trả trước là loại lãi suất mà người đi vay phải trả cho người cho vay trước khi sử dụng tiền vay. Hình thức này thường hay được áp dụng phổ biến trong nghiệp vụ cho vay chiết khấu thương phiếu (kỳ phiếu thương mại) của các ngân hàng thương mại, trong nghiệp vụ phát hành trái phiếu chiết khấu của kho bạc Nhà nước. Người đi vay trả cho người cho vay theo giá trị danh nghĩa (hay gọi mệnh giá) của thương phiếu hay trái phiếu khi đến hạn, nhưng chỉ được nhận một số tiền nhỏ hơn mệnh giá do người cho vay đã chiết khấu trước khoản tiền lãi cảu thương phiếu hay trái phiếu. c. Lãi suất trả sau, cùng với vốn. Hình thức trả lãi này được áp dụng trong trường hợp các doanh nghiệp gia đình, cá nhân vay vốn ngân hàng hoặc gửi tiền tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn vào các ngân hàng. Trên thực tế, hình thức này còn được gọi là cho vay đơn. trong hình thức vay đơn này, người đi vay được ngân hàng, hoặc là người cho vay, cho vay một số tiền nhất định gọi là vốn gốc. Sau đó người đi vay phải cam kết trả lại cho người cho vay đủ số vốn gốc ban đầu và kèm theo một khoản tiền lãi nhất định tuỳ theo sự quy định thoả thuận của các bên. d. Trả lãi bằng phiếu lợi tức (Coupon) Hình thức này do những người đi vay (các doanh nghiệp, các ngân hàng và kho bạc Nhà nước) thực hiện khi họ bán ra loại trái phiếu làm phiếu lợi tức (coupon). Người mua trái phiếu kèm phiếu lợi tức được trả lợi tức làm nhiều lần đều đặn (6 tháng hay một năm một lần) và được thu hồi vốn gốc khi hết hạn lưu hành trái phiếu. Gọi là tiền coupon vì người giữ trái khoán thường nhận được tiền thanh toán coupon bằng cách cắt một coupon khỏi trái khoán và gửi nó tới người phát hành trái phiếu khoán, người này sẽ gửi tiền trả cho người giữ trái khoán đó. Vì vậy một trái khoán coupon có thể phân biệt theo ba đặc điểm sau: - Công ty hoặc cơ quan Chính phủ tổ chức phát hành trái khoán. - Ngày mãn hạn của trái khoán - Tiền lãi in trên mỗi ô của phiếu lợi tức (coupon) có thể là: một số tiền cố định, hoặc là số phần trăm (%) của mệnh giá trái phiếu. 4. Phương pháp tích lãi suất. Trên thực tế có nhiều phương pháp tính lãi suất hay nói cách khác là có nhiều phép đo lãi suất khác nhanh nhưng nhìn chung bao gồm các phương pháp sau: a. Lãi suất hoàn vốn. Phép tính lãi suất hoàn vốn là việc làm cân bằng giá trị của công cụ vay nợ với giá trị hiện tại của tất cả tiền trả trong tương lai của công cụ đó. Việc tính lãi suất hoàn vốn có một ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, các nhà kinh tế coi nó là phép đo lãi suất chính xác nhất. b. Lãi suất hoàn vốn hiện hành. Tuy phương pháp tính lãi suất này có phàn kém chính xác hơn "lãi suất hoàn vốn" nhưng ngày nay nó cũng được đưa vào sử dụng rộng rãi trong thị trường chứng khoán. Bởi nó dễ tính toán hơn. Lãi suất hoàn vốn hiện hành là tỷ số giữa tiền thanh toán coupon hàng năm với giá trị của chứng khoán đó. Công thức tính: ic = C PB Trong đó: ic: lãi suất hoàn vốn hiện hành C: tiền coupon hàng năm PB: giá của trái khoán coupon Như vậy lãi suất hoàn vốn hiện hành là một đại lượng có phần khấu hao của lãi suất hoàn vốn cho một trái khoán coupon dài hạn. Tuy nhiên, đối với trái khoán coupon ngắn hạn thì việc tính lãi suất lại kém dần đi. * Đặc tính chung của lãi suất hoàn vốn hiện hành: - Lãi suất hoàn vốn hiện hành cũng là một xấp xỉ tốt hơn đối với lãi suất hoàn vốn, nếu giá trái khoán càng gần với mệnh giá của trái khoán, kỳ hạn thanh toán của trái khoán càng dài. - Lãi suất hoàn vốn hiện hành càng trở thành một xấp xỉ kém nếu giá của trái khoán càng xa mệnh giá của trái khoán, kỳ hạn thanh toán của trái khoán càng ngắn hơn. Nhưng có thể nói, sự thay đổi của lãi suất hoàn vốn hiện hành luôn báo hiệu trước một sự thay đổi theo cùng một chiều của lãi suất hoàn vốn. c. Lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm: Do gặp phải nhiều khó khăn trong việc áp dụng phương pháp tính lãi suất hoàn vốn nên người ta đã tìm ra phương pháp tính lãi suất bằng cách tính giảm. Công thức tính: idh = (F - Pd) x 360 F Số ngày tới khi mãn hạn Trong đó: idh: lãi suất hoàn vốn trên một cơ sở tính giảm. F: mệnh giá của trái khoán giảm giá Pd: giá mua của trái khoán giảm giá. * Đặc điểm của lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm: - Lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm luôn luôn định giá thấp lãi suất hoàn vốn và định giá thấp này càng lớn nếu hạn kỳ thanh toán của trái khoán giảm giá càng lớn. - Có sự tương quan nghịch đoả với giá của trái khoán. Tức là lãi suất hoàn vốn và kỳ hạn thanh toán của trái khoán giảm giá càng dài hơn thì sự định giá thấp này càng trở nên lớn hơn. Tuy nhiên, mặc dù lãi suất hoàn vốn tính giảm là một mức đo hơi sai lệnh của lãi suất, nhưng một sự thay đổi trong lãi suất hoàn vốn tính giảm cũng luôn cho thấy một sự thay đổi cùng hướng của lãi suất hoàn vốn. II - vai trò của lãi suất 1. Chức năng của lãi suất Lãi suất có nhiều chức năng khác nhau nhưng về cơ bản lãi suất có hai chức năng sau: a. Chức năng phân phối. Phân phối lãi suất giúp cho nền kinh tế phân bổ tiết kiệm vào những cách sử dụng khác nhau. Đối với những người có tiền gửi tiết kiệm thì lãi suất chính là tiền thưởng cho việc hạn chế tiêu dùng trước mắt đợi ddể dành cho tiêu dùng ở tương lai. Lãi suất tiết kiệm càng cao càng khuyến khích được nhiều người gửi tiền tiết kiệm. Còn đối với những người đi vay, lãi suất chính là cái giá phải trả cho số tiền vay để đầu tư hay tiêu dùng vào các công việc khác. Lãi suất cho vay càng cao tức là nhu cầu vay để đầu tư hoặc tiêu dùng càng ít. Trường hợp vay tích để kinh doanh sinh lợi nhuận. Khi quyết định đầu tư phải so sánh lãi suất phải trả cho khoản vay với số lợi nhuận kiếm được từ các dự án đầu tư sẽ được thực hiện. Do đó lãi suất phân phối lại một phần thu nhập hay lợi nhuận của đi vay phải trả cho ngân hàng hoặc người cho vay. b. Chức năng kiểm soát. Lãi suất có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ của Chính phủ. Nếu khi giữ tiền mặt trong tay thì tất nhiên chúng ta sẽ không bao giờ có lãi bởi đồng tiền không thể tự nó sinh ra lợi nhuận nếu không có sự tác động của con người. Nhưng nếu đem tiền đến gửi ngân hàng hay mua các loại trái phiếu thì cùng được nhận lãi tính phần trăm từ tiền vốn đó. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, chính sách tiền tệ của Chính phủ sử dụng lãi suất như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế nhằm kiểm soát lượng cung ứng tiền tệ. Vì thế khi mức cung ứng tiền tệ tăng lên thì lãi suất tất yếu sẽ hạ xuống. Đồng thời khi lãi suất giảm, giá thành đầu tư cũng giảm theo, các doanh nghiệp lại tăng đầu tư cho phương tiện công cụ sản xuất tuỳ thuộc vào từng loại hình thức kinh doanh. Và đến khi nhu cầu đầu tư và tiêu dùng tăng thì lúc này lãi suất cũng theo đó mà tăng lên. 2. Vai trò của lãi suất Trong sự phát triển của nền kinh tế hiện đại, mọi chỉ tiêu đều được đo bằng kinh tế. Một đất nước có phát triển hay không, trước tiên hãy xem nền kinh tế của nước đó phát triển như thế nào. Lãi suất là một phạm tù kinh tế, một mặt nó phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, mặt khác nó cũng phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ trên thị trường. Đồng thời lãi suất còn phản ánh thực trạng phát triển kinh tế của một đất nước. Bởi vì thông qua sự biến động của nền kinh tế người ta có thể dự đoán được nền kinh tế đó đang phát triển hay đang trên đà suy thoái. Bên cạnh đó, lãi suất còn có tác động trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mỗi người cũng như sự thăng trầm của nền kinh tế mối nước, mỗi quốc gia. Song lãi suất cũng có tác động không nhỏ tới những quyết định cá nhân như chi tiêu, để dành, mua nhà hay mua chứng khoán hay gửi tiết kiệm ngân hàng... Nhưng quan trọng hơn, lãi suất còn tác động đến cả những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc các hộ gia đình như việc dùng vốn để đầu tư vào nhà máy mới, mua thêm tư liệu sản xuất, dây truyền thiết bị hay tiến hành đầu tư chứng khoán...Và việc quy định lãi suất cao hay thấp đầu có tác động trực tiếp đến tiết kiệm, đầu tư, sản xuất, tiêu dùng, giá cả, tỷ giá hối đoái và kể cả việc lạm phát. Nền kinh tế chỉ phát triển ổn định thuận lợi khi lãi suất ổn định và nhu cầu tiêu dùng, đầu tư ổn định, cân bằng. còn nếu trong trường hợp lãi suất tăng, nhu cầu đầu tư hay tiêu dùng giảm dẫn đến sản lượng giảm, việc làm giảm, thu nhập của mọi người cũng giảm theo. Nhưng nếu lãi suất giảm, nhu cầu tiêu dùng và đầu tư tăng kéo theo hàng loạt những vấn đề như việc làm, thu nhập, sản lượng hàng hoá... đều tăng lên. Vì vậy có thể nói lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế vì nó tác động rất lớn đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng, không thể thiếu, quyết định tổng mức đầu tư và tổng mức cầu về tiền tệ (GNP). 3. Phân biệt lãi suất với một số khái niệm khác của lãi suất. a. Lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa. * Khái niệm: - Lãi suất danh nghĩa là lãi suất bằng tiền trên các tài sản bằng tiền như lãi suất 6% một năm của tài khoản séc, lãi suất 12% một năm của tài khoản cho vay của ngân hàng... - Lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi mức lạm phát. nó phản ánh chi phí thực của việc vay mượn. Đồng thời lãi suất thực là một cách tính toán chính xác cho những người muốn đi vay hoặc muốn cho vay. * Đặc điểm. - Lãi suất danh nghĩa thường tăng ngang với mức lạm phát để giữ nguyên lãi suất thực tế. Mức chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế càng lớn thì tình trạng lạm phát càng cao. - Lãi suất thực tế dự đoán sẽ bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi mức lạm phát. Nếu lạm phát dự đoán có sai số với lạm phát thực tế thì cũng không có tác động gì đến tiết kiệm và đầu tư. Tóm lại mức cầu tiền tệ chịu sự chi phối của lãi suất danh nghĩa kể cả khi giá cả tăng lên. Khi lãi suất danh nghĩa của tiền tăng lên thì lãi suất danh nghĩa của những tài sản khác và giá trị danh nghĩa của mọi hàng hoá cũng tăng lên gần như tương đương, cho nên không có gì thay đổi trong việc sự so sánh này. Tức là khi có lạm phát, giá trị danh nghĩa của tiền tệ và của các tài sản đều tăng lên tương đương theo mức độ lạm phát, còn giá trị thực tế của tiền và của các của tiền của các tài sản vẫn không thay đổi so với thời kỳ chưa có lạm phát, do đó lạm phát không có tác động gì đến mức cầu tiền tệ. b. Phân biệt lãi suất và lợi tức. Đối với một xuất khẩu bất kỳ tỷ xuất lợi tức là khoản tiền trả cho chủ sở hữu nó cộng với thay đổi về giá trị của chứng khoán đó rồi chưa cho giá mua. Lợi tức đối với một trái khoán cho ta biết một cuộc đầu tư trái khoán tốt như thế nào qua một thời kỳ lưu giữ, bằng lãi suất hoàn vốn trong một trường hợp đặc biệt, khi thời gian lưu giữ và kỳ hạn thanh toán của trái khoán là như nhau. Song đối với những trái khoán mà kỳ hạn thanh toán của nó lớn hơn thời gian lưu giữ, những lợi vốn và tổn thất vốn có thể dẫn đến những khác nhau quan trọng giữa lợi tức với lãi suất được đo bằng lãi suất hoàn vốn. III - những ảnh hưởng của lãi suất trong nền kinh tế Việt Nam. Trong thời đại thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta hơn bao giờ hết đã trở nên quan trọng và không thể thiếu. Bởi một đất nước muốn phát triển thì trước hết nền kinh tế đó cũng phải phát triển và ngược lại. Chúng ta đang sống và làm việc trong nền kinh tế nền kinh tế thị trường với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Trong đó lãi suất đóng một vai trò quan trọng bởi lãi suất chính là một phạm trù kinh tế, một trong những biến số được mọi người theo dõi chặt chẽ, không chỉ có thể lãi suất còn phản ánh tích cực thực trạng kinh tế của đất nước. Mấy năm gần đây sự quy định lãi suất của tiền tệ Việt Nam có nhiều biến động. Làm cho người dân cảm thấy không yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng. Đồng thời lãi suất ngân hàng quy định lạo quá thấp so với nhu cầu đời sống sinh hoạt hàng ngày. vì vậy một số người dân đã gửi tiết kiệm bằng việc mua đất. Điều này đã làm nảy sinh cơn "sốt đất" trên thị trường. Bên cạnh đó tình hình đầu tư vào kinh doanh cũng đã có xu hướng ổn định. Tuy Nhà nước đã ban hành, ra nhiều quyết định khuyến khích đầu tư trong nước. Song do nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường còn quá mới mẻ với tình hình thực tế của Việt Nam nên hiệu quả đạt được những năm vừa qua còn chưa cao. Đứng trước thực trạng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có biện pháp phù hợp trong việc quy định tỷ lệ lãi suất trong việc huy động vốn của Nhà nước trong các ngân hàng Trung Ương và chi nhánh. Ngân hàng phải điều tiết hợp lý mức tiền lãi chi cho đầu tư và nguồn tiền gửi tiết kiệm thu vào. Bởi nền kinh tế của đất nước ổn định phát triển hay suy yếu là do sự tăng, giảm mức lãi suất. Để cho nền kinh tế của đất nước phát triển một cách thuận lợi thì mức lãi suất phải ổn định, nhu cầu đầu tư và tiêu dùng theo đó cũng dừng ở mức ổn định. Đất nước ta thực hiện nền kinh tế mở, nhưng không vì thế mà chúng ta có những chính sách kinh tế trái với sự phát triển của đất nước. Đất nước càng phát triển thì chính sách lãi suất càng được ngân hàng và Nhà nước ta quan tâm xem xét. Vì thế mạng lưới ngân hàng ngày càng được tăng cường mở rộng tới tận các địa phương trong cả nước. Ngân hàng Nhà nước ấn định lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn trong từng thời kỳ đã gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với chính sách tiền ệ quốc gia. Sự ảnh hưởng to lớn đã thể hiện ở chỗ việc ngân hàng Nhà nước ấn định lãi suất cơ bản khác nhau trong từng thời kỳ tất yêú sẽ làm thay đổi khả năng huy động vốn và cho vay của các tổ chức tín dụng trên thị trường. Nhờ đó mà ngân hàng Nhà nước thực hiện được chủ trương mở rộng hay thu hẹp khối lượng cung tiền tệ trong lưu thông qua chức năng "tạo tiền" của hệ thống ngân hàng thương mại. Còn việc ấn định lãi suất tái cấp vốn trong từng thời kỳ, ngoài tác dụng làm thay đổi khả năng phát hành tiền vào lưu thông của ngân hàng Trung Ương qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện chủ trương định hướng cho hoạt động kinh doanh của các hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng trên thị trường. Lãi suất vừa có những tác động, ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến việc phát triển kinh tế của Việt Nam. Nếu sự quy định mức lãi suất cao sẽ dẫn đến việc đầu tư và tiêu dùng của đất nước giảm kéo theo hàng loạt các hậu quả khác như việc làm của người dân, thu nhập hàng tháng và sản lượng sản phẩm cũng giảm... Điều này sẽ làm khó khăn cho việc phát triển kinh tế đất nước. Nhưng nếu mức lãi suất do ngân hàng quy định thấp thù nhu cầu đầu tư kinh doanh sản xuất và tiêu dùng của thị trường lại tăng lên góp phần làm cho tình hình việc làm, sản lượng sản phẩm và thu nhập của người lao động tăng lên. Đây là một tiền đề thuận lợi cho sự phát triển đi lên của nền kinh tế Việt Nam. Vì thế trong những năm qua, Nhà nước ta đã có chính sách xoá đỏi giảm nghèo, tạo điều kiện cho những gia đình nghèo khó khăn vay vốn với lãi suất thấp hoặc không có mạnh thì nền kinh tế đất nước mới phồn vinh và phát triển. Chúng ta hy vọng rằng trong một thời gian ngắn tới đây Việt Nam sẽ có nhiều chính sách mới về kinh tế góp phần tăng cường hơn nữa về đường lối phát triển kinh tế của đất nước. Để xứng đáng là một đất nước đang trên đà phát triển cùng hội nhập vào nền kinh tế sôi động của thế giới. Kết luận Ngày nay, toàn bộ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã được tổ chức lại từ hệ thống ngân hàng một cấp trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp phân bố rộng khắp cả nước. Bởi ngân hàng Nhà nước Trung Ương là cơ quan phát hành tiền của qr, cơ quan quản lý và kiểm soát các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại trong việc cung ứng tiền tệ, tín dụng, vốn đầu tư cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp lớn nhỏ, các hộ gia đình sản xuất kinh doanh trong cả nước. Ngân hàng Nhà nước ấn định mức lãi suất đối với từng thời kỳ phát triển của đất nước thì sẽ có sự khác nhau. Bởi sự tăng hay giảm của lãi suất sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước. Chúng ta phải có sự quy định phù hợp đối với mức lãi suất thì mới thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi từ bên ngoài vào. Lãi suất không ổn định, giá cả bấp bênh sẽ làm cho tâm lý của những người có tiền muốn gửi tiết kiệm vào ngân hàng lo sợ đến sự rủi ro, đồng tiền mất giá. Và khi không có khả năng huy động vốn thì vấn đề sử dụng vốn cũng gặp khó khăn trở ngại. Vì vậy lãi suất là một biến số luôn được toàn xã hội quan tâm. Đất nước càng phát triển thì vấn đề lãi suất vai trò của nó trong huy động vốn của ngân hàng lại là một vấn đề được các nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu. Là một sinh viên trường kinh tế, em thiết nghĩ mình cần phải cố gắng học hỏi, nghiên cứu và trau dồi kiến thức nhiều hơn nữa. Bởi cuộc sống xã hội luôn thay đổi, nền kinh tế cũng ngày vận động biến đổi không ngừng. Chúng ta cần phải nắm bắt lấy thời cơ thuận lợi của tình hình thế giới để hội nhập đưa đất nước Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN. Mục lục Trang Lời nói đầu Nội dung đề tài I - khái quát chung về lãi suất 1. Khái niệm về lãi suất 2. Các nhân tố tác động đến lãi suất 3. Phân loại lãi suất 4. Phương pháp tính lãi suất II - vai trò của lãi suất 1.Chức năng của lãi suất 2. Vai trò của lãi suất 3. Phân biệt lãi suất với một số khái niệm khác của lãi suất III - Những

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72180.doc
Tài liệu liên quan