Đề tài Lạm phát 2011 - Thực trạng và giải pháp

Mục lục

Chương 1: Cơ sở lí luận về làm phát . . 4

1.1 Khái niệm lạm phát . . . . 4

1.2 Các phép đó của chỉ số lạm phát . .4

1.3 Phân loại lạm phát . . 4

1.4 Nguyên nhân của lạm phát . . . .5

Chương 2: Tình hình kinh tế và thực trạng lạm phát ở Việt Nam . . 7

2.1 Tổng quan nền kinh tế Việt Nam . . 7

2.2 Diễn biến lạm phát ở nước ta hiện nay . 9

2.3 Nguyên nhân lạm phát ở nước ta .12

2.4 Tác động của lạm phát đến mọi mặt của đời sống . .16

Chương 3: Một số biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ . . 18

3.1 Để kiềm chế lạm phát do chi phí đẩy, Việt Nam đã có những biện pháp tích cực như: giảm

thuế nhập khẩu , dãn nợ, bù giá,.cho các doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng nguyên, nhiên

liệu nhập khẩu.18

3.2 Các biện pháp thắt chặt tiền tệ . .18

3.3 Chính phủ ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP .18

3.4 Một số biện pháp khác . . .19

Chương 4 : Một số dự báo chung về tình hình kinh tế Việt Nam 21

4.1 Dự báo kinh tế Việt Nam cuối năm 2011 . 21

4.2 Nhận định tỉ giá USD cuối năm 2011 . .21

4.3 Dự báo xu thế tỉ giá USD cuối năm 2011 . .22

4.4 Dự báo giá vàng thế giới cuối năm 2011 . .22

Kết luận . . 25

pdf28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát 2011 - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t và giữ 6 cho lạm phát không giảm xuống quá nhanh vì các họp đồng ltrong của công đoàn thường là dài hạn và khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép... cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán. 1.4.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ chức bất họp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường họp này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát. 1.4.4 Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác * Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù họp của nhà nước như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất... làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế. * Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới... 7 CHƢƠNG 2: TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT VIỆT NAM 2.1 Tổng quan nền kinh tế Việt Nam 2.1.1 Tình hình lạm phát Chì số giá tiêu dùng tháng 8/2011 so với tháng 12/2010 tăng 15,68%. So với cùng kì thì lạm phát đã tăng 23,02%. Đây là mức lạm phát cao nhất so với các nước trong khu vực. 2.1.2 Một số vấn đề khác  Chính sách tiền tệ Để phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm 3% chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, duy trì 20% thay vì 23% như đề xuất ban đầu với Chính phủ. Chính sách tiền tệ bị thắt chặt quá mức, cả tăng trưởng huy động và cho vay đều giảm rất mạnh so với năm trước. Tăng trương tín dụng chỉ tăng 7.13% (nguồn: nhóm VFA)  Lãi suất Lãi suất huy động đang ở mức cao nhưng vẫn chưa thu hút được người gửi tiền do lãi suất không bù đắp được tỷ lệ lạm phát. Lãi suất cho vay đang ở mức rất cao, vượt quá khả năng vay vốn của doanh nghiệp. 8 (Nguồn: nhóm VFA)  Tăng trưởng kinh tế Mục tiêu hàng đầu của chính phủ là kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa làm tốc độ tăng trưởng GDP 7 tháng đầu năm ở mức 5.67% thấp hơn 0.56% so với cùng kì. (nguồn: nhóm VFA)  Tổng vốn đầu tư xã hội – FDI – Đầu tư công Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội 6 tháng đạt mức tăng 5% so với cùng kì năm trước, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng 13% cùng kì năm 2010 và 18% năm 2009. Vốn FDI giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm do bất ổn kinh tế vĩ mô, chỉ đạt 56.7% so với cùng kì năm 2010 (nguồn: nhóm VFA)  Sản xuất công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8 tăng 7.3% so với cùng kì năm 2010. Diễn biến kinh tế khó lường làm sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn và hàng tồn kho đang tăng lên. 9  Xuất nhập khẩu Xuất khẩu và nhập khẩu 8 tháng đầu năm đều tăng mạnh so với cùng kì năm 2010. Nhập siêu tháng 8 năm 2011 ước tính đạt 800 triệu USD. Nhập siêu 8 tháng 6.2 tỷ USD là bằng 10.2% kim ngạch xuất khẩu. (nguồn: nhóm VFA)  Tổng mức bán lẻ hàng hóa – Doanh thu dịch vụ tiêu dùng Tính chung 8 tháng đầu năm nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì mức tăng chỉ ở 3.9% thấp hơn mức tăng trung bình 15 - 20% những năm gần đây. (nguồn: nhóm VFA) 2.2 Diễn biến tình trạng lạm phát ở nƣớc ta hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam hiện đang đứng trước nguy cơ lạm phát phi mã, với tỷ lệ thuộc hàng cao nhất trong khu vực. ốn tháng liền, chỉ số CPI ở Việt Nam đều ở mức hai chữ số. Tỷ lệ lạm phát tháng Hai lên tới 12,31%, cao nhất trong hai năm nay. So với tháng Một, chỉ số CPI vào tháng Hai tăng 2,1%, mức tăng nhanh nhất tính theo từng tháng kể từ tháng Sáu năm 2008. Vào tháng Một, chỉ số CPI tăng 12,17% so với cùng kỳ năm trước, và đã tăng 1,74% so với tháng 12 năm 2010. Tính từ đầu năm, biểu đồ CPI chưa hề ghi nhận con số âm nào. Nhìn lại diễn biến CPI 6 tháng đầu năm 2011, có 2 điểm đáng lưu ý: một là CPI không giảm hoặc tăng thấp ở tháng sau Tết Nguyên đán mà lên đến đỉnh của nửa đầu năm; hai là CPI giảm tốc rất nhanh, Cùng lúc Chính phủ “bung ra” một loạt chính sách điều chỉnh giá cả điện, xăng dầu, than… 10 sau giai đoạn dài kìm nén, CPI tháng 4-2011 tăng đột biến và cao hơn cả tháng Tết nguyên đán trước đó. Tuy nhiên, ngay lập tức các giải pháp thắt chặt tiền tệ, tài khóa đã được áp dụng để hỗ trợ kiểm soát lạm phát. CPI tháng 9 chỉ tăng 0.82% mức thấp nhất trong 12 tháng qua kể từ 9/2010. Điều này phát đi tín hiệu cho thấy chính sách thắt chặt của chính phủ đã phát huy tác dụng. (Nguồn: Tổng cục thống kê) Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, chỉ có giá bưu chính viễn thông do công nghệ tiến bộ nhanh, có cạnh tranh mạnh giữa các doanh nghiệp nên giá có giảm (1.68%) , còn tất cả các nhóm khác giá đều tăng. Điều đó chứng tỏ yếu tố tiền tệ vẫn còn tác động mạnh đến lạm phát, nên mới làm cho giá của tất cả các nhóm hàng đều tăng. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao chứng tỏ tiền từ ngân hàng ra lưu thông tăng cao, tạo áp lực cho lạm phát. Nhìn chung giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao 3,01% (trong đó lương thực tăng 1,77%; thực phẩm tăng 3,53%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,67%) Nhóm hàng này tăng cao không chỉ bởi khó khăn trong nước (thiên tai, thay đổi khí hậu, diện tích đất canh tác giảm, dịch bệnh, chi phí đầu vào tăng) mà còn bởi giá thế giới tăng cao, kéo theo giá trong nước tăng lên. Theo tính toán của Liên hợp quốc, Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới, bước sang năm 2011, chỉ số giá lương thực trên thế giới tăng 28.3% so với giữa năm 2010. Do nhóm hàng này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng của dân cư nên đã tác động lớn đến tốc độ tăng giá chung. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở,điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) giá tăng cao nhất với 3.19% càng làm cho mong muốn cải thiện về nhà ở của những người có nhu cầu thực, nhất là những người có thu nhập thấp trở lên xa vời. 11 Biểu đồ giá của các nhóm trong tháng 5/2011. (Nguồn: GSO, NDHMoney) Trong giai đoạn lạm phát vừa qua, khi niềm tin vào tiền đồng sụt giảm, vai trò của vàng và USD càng được khẳng định. (nguồn: Tổng cục thống kê) Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng Chín năm 2011 ChØ sè gi¸ tiªu dïng Tha : ChØ sè gi¸ th¸ng 9 n¨m 2011 so víi cïng kú n¨m 2010 Kỳ gốc 2009 Tha ng 9 năm 2010 Th¸ng 12 n¨m 2010 Tha ng 8 năm 2011 135.74 122.42 116.63 100.82 118.16 Hµng ¨n vµ dÞch vô ¨n uèng 148.55 133.38 123.18 100.28 125.94 Trong ®ã L•¬ng thùc 141.83 126.88 112.22 101.53 122.90 Thùc phÈm 152.13 137.88 127.72 99.72 128.71 ¡n uèng ngoµi gia ®×nh 144.41 126.35 121.33 100.90 120.49 Đồ uống và thuốc la 125.23 112.99 109.52 100.59 111.69 May mÆc, giÇy dÐp, mò nãn 123.71 113.98 110.51 100.92 111.58 Nhà ở và vật liệu x©y dùng 145.66 122.89 116.59 100.37 119.72 ThiÕt bÞ vµ ®å dïng gia ®×nh 116.53 109.82 107.57 100.51 108.46 Thuèc vµ dÞch vô y tÕ 109.84 106.21 104.88 100.28 105.51 12 Giao th«ng 135.92 120.13 119.01 99.76 114.86 B•u chÝnh viÔn th«ng 88.43 98.02 98.13 99.93 96.30 Gi¸o dôc 144.43 121.43 116.52 108.62 124.10 V¨n hãa, gi¶i trÝ vµ du lÞch 115.15 108.71 107.39 100.62 107.29 §å dïng vµ dÞch vô kh¸c 130.55 114.19 111.11 101.37 111.61 ChØ sè gi¸ vµng 241.88 161.26 130.48 113.14 141.09 ChØ sè gi¸ ®« la Mü 120.38 107.78 101.12 100.80 109.67 2.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát ở nƣớc ta Từ đầu năm, chính phủ đã chủ trương thiết lập một mặt bằng giá mới khi đồng loại tăng giá xăng (2900đ/1lít), tăng giá điện (165đ/1kWh) và giá than (5%) mặc dù CPI của 2 tháng đầu năm đã tăng khá cao. (nguồn: worldbank) Chúng ta biết rằng lạm phát là mức tăng giá chung của cả nền kinh tế. Nguyên nhân gây ra lạm phát có thể là từ bên ngoài (khách quan) hay những vấn đề nội tại của nền kinh tế (nguyên nhân chủ quan), nhưng căn nguyên của lạm phát Việt Nam năm 2011 chính là yếu tố tiền tệ. 2.3.1 Lạm phát do yếu tố tiền tệ Có thể nhận định, nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát của Việt Nam không phải do các yếu tố bên ngoài. Trong thời gian qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường so với các nước trong khu vực hay các đối thủ cạnh tranh cũng như các nước có điều kiện tương tự. Ở các nước này, nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP (cụ thể là hầu hết đều dưới 5%), trong khi từ năm 2004 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Cá biệt năm 2008 lên đến 23%, gấp khoảng 3 lần mức tăng GDP; năm 2010 ở mức 11,75%, gấp gần 2 lần mức tăng GDP; và chỉ mới 4 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã gần 2 con số. Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do ba nguyên nhân cơ bản sau:  Do đầu tư công quá mức. Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công. Nhưng nhà nước chỉ nên tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế 13 nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả. Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái cho một số đối tượng như phân tích dưới đây.  Sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực thị trường). Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái trong việc phân bổ vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước.  Việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Như nhiều lần tôi đã phân tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút. Bên cạnh đó, việc nền kinh tế quá mở: kim ngạch nhập khẩu có lúc chiếm tới 80% GDP, gây ra nhập siêu là một căn nguyên dẫn tới lạm phát. Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá như trên đã dẫn đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng với lạm phát luôn ở mức rất cao. 2.3.2 Lạm phát do cầu kéo Bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến quan hệ cung- cầu , quan hệ đến tiền – hàng với các giải pháp tăng cung (tăng thêm khối lượng hàng hóa, chủng loại hàng hóa), đồng thời phân phối hàng hóa đến người sử dụng kịp thời, đúng lúc, đúng địa chỉ..., giảm lượng tiền mà xã hội sử dụng vào mục đích tiêu dùng. Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ từ nước ngoài để bù đắp. 14 Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát...) và có trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...). Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 34,9% trong thời kỳ 1996-2000 lên 39,1% trong thời kỳ 2001- 2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005 lên 72,2% thời kỳ 2006-2010. Đây là tỷ lệ cao so với một số nước (năm 2009 của Việt Nam là 72,8%, trong khi của runei là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore 52,4%, Malaysia 64%, Indonesia 68,2%, Thái Lan 68,3%, Ấn Độ 69,6%, Hàn Quốc 70,3%...). Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng có một phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư. Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010). Trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng tiêu dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD. 2.3.3 Lạm phát do chi phí đẩy Riêng với ngành chế biến, Việt Nam gần như là công xưởng gia công cho nước ngoài, bởi nguyên liệu chính cho các ngành giầy da, dệt, may mặc, nhựa,... hầu hết phụ thuộc vào nhập khẩu, đặc biệt 100% nhiên liệu lỏng đã chế biến (xăng dầu) phải nhập khẩu. Vì vậy giá cả phụ thuộc rất nhiều vào phía đối tác. Trong tình hình, giá cả thế giới đang tăng cao, không tránh khỏi chi phí sản xuất, gia công của các doanh nghiệp trong nước cũng tăng cao. Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao (năm 1992 đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt 130,8%, năm 2010 đạt 154,4%, khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn), tức là có độ mở khá cao, đứng thứ 5 thế giới nên biến động giá 15 cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến biến động giá ở Việt Nam hơn các nước khác. Giá thế giới tăng sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VND tăng kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD tăng, vừa tăng do tính bằng VND tăng. 2.3.4 Một số nguyên nhân khác  Hiệu quả đầu tư và năng suất lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 là 5 lần, thời kỳ 2001-2005 lên 5,2 lần, thời kỳ 2006-2010 lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực). Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về trước ở mức trên dưới 57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên dưới 40%, trong khi ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả nước. Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước (năm 2008 của Nhật ản 73.824 USD, runei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD, Hàn Quốc 38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc 5.460 USD, Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD...).  Tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với lạm phát trên 4 mặt. - Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền. - Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng lên. - Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn giá vàng thế giới, tác động tới nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ... - Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND.  Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường là tất yếu, đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Tuy nhiên, kết quả của việc thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn dập cùng một lúc sẽ tạo ra mặt bằng 16 giá mới cao hơn, như đã từng xảy ra trong thời kỳ lạm phát phi mã, hay vào tháng 2-3 vừa qua. 2.4 Tác động của lạm phát đến mọi mặt đời sống 2.4.1 Thị trường tài chính Thị trướng chứng khoán hiện đang giảm liên tục, các phiên giao dịch cũng ít dần, làm cho tình hình ngày càng xấu đi. Thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ tăng lên, thặng dư tài khoản thanh toán giảm, thặng dư cán cân thanh toán giảm. Từ đầu năm đến nay, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan. 2.4.2 Doanh nghiệp Để bù đắp quỹ lương tăng do lạm phát, các công ty phải tăng cường cắt giảm chi phí từ hoạt động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, hạn chế tuyển dụng nhân viên mới, sa thải những nhân viên không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Lạm phát thúc đẩy các doanh nghiệp để giảm chi phí, quản lý tốt hơn quá trình hoạt động kinh doanh. 2.4.3 Nông dân, người lao động nghèo Giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của 9 nhóm hàng hóa. Đây là tình trạng chung trên thế giới. Chỉ số CPI tăng cao làm cho đời sống người nghèo ngày càng khó khăn. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng. 2.4.4 Sinh viên Đời sống sinh viên ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn khi mà giá cả leo thang. Các chi phí sinh hoạt hằng ngày tăng cao: tiền ăn, ở, đi lại, sách vở... càng làm cho giới sinh viên càng lo âu. Một vài dẫn chứng thực tế về đời sống sinh viên trước cơn bão giá: - Giá thuê nhà ở thành phố Hồ Chí Minh tăng trung bình từ 100000-200000đ so với năm trước. - Giá gửi xe cũng tăng từ 1000-2000đ, có nơi chủ nhà tăng giá thu tiền điện lên đến 3500đ kw. - Giá nước cũng được thu 40000-50000đ/1người. Cao hơn rất nhiều so với giá nước sạch của tổng công ty cấp nước Sài Gòn. Tóm lại: Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra hậu quả đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của môi nước. Lạm phát làm cho việc phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng 17 suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao động, chính người lao động là người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát. Chính vì các tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức độ hợp lý trở thành một trong những mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì lạm phát ở một mức độ vừa phải nó lại trở thành một công cụ điều tiết kinh tế. 18 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT CỦA CHÍNH PHỦ 3.1 Để kiềm chế lạm phát do chi phí đẩy, Việt Nam đã có những biện pháp tích cực nhƣ: giảm thuế nhập khẩu , dãn nợ, bù giá,...cho các doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng nguyên, nhiên liệu nhập khẩu... Tác động: đây cũng được coi là nguyên nhân chính đẩy CPI lên. Các biện pháp liên quan đến lạm phát chi phí đẩy, trong thực tế ít hiệu lực, vì khi giảm thuế nhập khẩu còn có độ trễ nhất định về thời gian (không phải giảm thuế nhập khẩu, các sản phẩm được sản xuất từ các nguyên liệu nhập khẩu này có thể giảm giá ngay được), mặt khác Nhà nước không kiểm soát được các Doanh nghiệp có giảm giá đúng với mức độ giảm thuế nhập khẩu, trong khi đó lại có doanh nghiệp tuy được hưởng chính sách giảm thuế nhập khẩu, nhưng giá sản phẩm sản xuất ra không những không giảm mà lại còn tăng; và trên một mức độ nhất định, Nhà nước hơi quá kỳ vọng vào biện pháp này, trong khi đã không tính toán được mức độ sẽ giữ giá hoặc giảm giá không phải chỉ với một nhóm sản phẩm mà toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, dùng biện pháp bù giá, đây là biện pháp không lâu dài, không có tính cơ bản vì không phù hợp với kinh tế thị trường, không làm trên phạm vi rộng (ngân sách Nhà nước không đủ sức làm việc này),... thay vì bằng trợ cấp cho nhân dân các vùng thiên tai, dịch bệnh,... 3.2 Các biện pháp thắt chặt tiền tệ Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ngân hàng nhà nước đã ra quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng them 1%. Như vậy, việc tiếp tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ sẽ trực tiếp tác động đến chi phí huy động vốn bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng; lãi suất cho vay ngoại tệ theo đó dự báo sẽ tăng trong thời gian tới, hạn chế nhất định cầu và tăng trưởng tín dụng ngoại tệ sau khi đã tăng rất mạnh kể từ đầu năm (trên 18%). Đây là lần thứ 3 kể từ đầu năm nay, NHNN có quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mỗi lần điều chỉnh tăng thêm 1%. Đây là một trong những động thái của NHNN nhằm chống tình trạng đô la hóa, giảm áp lực tỷ giá, kiềm chế lạm phát trong bối cảnh, gần đây, nhiều ngân hàng đẩy lãi suất đồng USD "vượt trần" nhằm thu hút nguồn vốn huy động. Kể từ ngày 1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm thay cho mức 13%/năm áp dụng từ ngày 1/4 vừa qua. Lãi suất chiết khấu cũng được tăng lên 13%/năm thay cho mức 12%/năm áp dụng từ ngày 8/3/2011. 3.3 Chính phủ ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP Ngày 24/02/2011, chính phủ đã ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Với những nội dung chính sau đây 19 - Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, Chính phủ đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Các hoạt động của ngân hàng thương mại về huy động, cho vay, tín dụng cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định. - Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước. Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán, giảm chi phí hành chính. Các hạng mục đầu tư sẽ được rà soát chặt chẽ. Cắt bỏ công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành. Bộ Tài chính sẽ đảm trách việc rà soát, đề xuất biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn. Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. ảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia. - Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng. - Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo: ộ Tài chính chủ động điều hành linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới. - Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội: Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ. Các biện pháp thích hợp tiếp theo sẽ được đề ra tùy thuộc và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLeUyenPhuong.pdf
Tài liệu liên quan