Phần 1 : mở đầu
Phần 2 : nội dung
Chương 1 : Lý thuyết lam phát
1.1 Các quan niệm về lạm phát
1.1.1 Trương phái lưu thông tiền tệ
1.1.2 Trường phái cầu kéo
1.1.3 Trường phái lạm phát và giá cả
1.1.4 Trương phái K.Marx
1.2 Phân loại lạm phát
1.2.1 Căn cứ vào định lượng gồm:
1.2.2Căn cứ vào định tính :
1.3Nguyên nhân lạm phát
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo :
1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy :
1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
1.3.4 Các nguyên nhân khác
1.4 Tác động của lạm phát
1.4.1 Lạm phát không dự kiến được
1.4.2 Lạm phát dự kiến được
1.5 Chính sách và biện pháp trong thòi kì lam phát
1.5.1 Biện pháp đối phó với lạm phát
1.5.1.1Những biện pháp tình thế
1.5.1.2Những biện pháp chiến lược
1.5.2Chính sách lạm phát
1.5.3 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
1.5.4 Lạm phát theo mục tiêu
1.5.4.1Giới thiệu lạm phát mục tiêu (LPMT)
1.5.4.2 Đặc điểm của lạm phát mục tiêu
1.5.4.3 Quy trình thực hiện LPMT
Chương 2 : Lạm phát ở Việt Nam
2.1 Sơ lược lịch sử lạm phát ở Việt Nam:
2.1.1 Diễn biến
2.1.1.1Giai đoạn những năm trước Đổi mới 1986:
2.1.1.2 Giai đoạn lạm phát sau Đổi mới 1986 đến nay:
2.1.2 Nguyên nhân
2.1.2.1.Nguyên nhân khách quan.
2.1.2.2 Nguyên nhân chủ quan:
2.1.3 Phương hướng giải quyết
2.2 Lạm Phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009
2.2.1 Diễn biến
2.2.2 Nguyên nhân
2.2.2.1 Lạm phát tiền tệ
2.2.2.2 Lạm phát cầu kéo
2.2.2.3 Lạm phát chi phí đẩy
2.2.2.4 Nguyên nhân khác
2.2.3. Tác động của lạm phát:
2.2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế:
2.2.3.2 Tác động đến tình hình xã hội:
2.2.4 Giai pháp
2.2.4.1 Năm 2007
2.2.4.2 Năm 2008
2.2.4.3 Năm 2009
2.2.5 Đánh giá giải pháp
2.2.5.1 Năm 2007
2.2.5.2 Năm 2008
2.2.5.3 Năm 2009
Phần 3 : Kết luận
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8456 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2007 cho đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền kinh tế vì thế đã thoát khỏi khủng hoảng và phát triển khá bền vững.
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Lạm phát
12,7%
4,5%
3,6%
9,2%
0,1%
0,06%
0,8%
4,0%
3,0%
9,5%
8,5%
6,6%
*Giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2007 - 2009:
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cộng với những nguyên nhân chủ quan bên trong, lạm phát đã trở lại, chỉ số lạm phát đã tăng lên hai con số. Dấu hiệu lạm phát cao đã bắt đầu xuất hiện từ tháng 06 năm 2007 khi CPI tháng 06 tăng đột biến xấp xỉ 1%, và tỉ lệ lạm phát tăng tới 12,6% so với tháng 12 năm 2006 và đến năm 2008, mức tăng CPI lên tới 19,89% so với tháng 12 năm 2007. Giai đoạn lạm phát 2007-2009 đã ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam.
Nguyên nhân
2.1.2.1.Nguyên nhân khách quan.
Do nền kinh tế của nước ta vốn lạc hậu, lại gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề do hai cuộc chiến tranh chống Pháp-Mỹ để lại .Những hậu quả của cuộc chiến tranh này thật nặng nề, đòi hỏi phải có nguồn chi to lớn để hàn gắn các vết thương, hồi phục nền kinh tế ..Ngay sau đó Việt Nam lại phải tham gia vào cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc.Và dù không có chiến tranh biên giới thì sự nhòm ngó đe doạ từ bên ngoài luôn buộc nhà nước Việt Nam phải chi phí cho việc bảo vệ đất nước.
2.1.2.2 Nguyên nhân chủ quan:
Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng rất lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85 - 87%, cán bộ kỹ sư - kỹ thuật chiếm 95%. Trong tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng sử dụng kém hiệu quả. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước gấp 3 lần các khoản doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp này cao hơn số bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa và cơ bản dẫn đến lạm phát.
Hai là, chính sách đổi tiền tăng giá là một trong những chính sách phá giá đồng tiền. Từ đầu những năm 1980 đến nay, Nhà nước ta đã ba lần tổng điều chỉnh giá với mức quá lớn, không đồng bộ. Nhà nước Trung ương không điều hành nổi cơ chế giá ở tầm vĩ mô, buộc phải chấp nhận cơ chế giá trượt trong thu mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Nhiều ngành, địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Điều này đã gây ách tắc, rối loạn thị trường và tăng bội chi ngân sách.
Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền Nhà nước và cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền lãnh đạo chính trị, quản lý và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần thiết) mà còn độc quyền sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. V.I.Lênin đã xác định, một trong những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát triển cao dẫn đến độc quyền và nó có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh tế; một mặt, thúc đẩy phát triển chủ nghĩa tư bản đương thời; mặt khác, nó kiềm hãm phát minh, sáng kiến, cạnh tranh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt đến trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó, độc quyền nhà nước là độc quyền phi kinh tế vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế.
Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh đã khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu tính toán hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả, dẫn đến lạm phát.
Bốn là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư không hợp lý làm cho sản xuất chậm phát triểm trong khi dân số tăng nhanh, gây mất cân đối trên nhiều mặt , sản xuất chậm phát triển thu nhập quốc dân trong nước chỉ đảm bảo 80-90%quỹ tiêu dùng xã hộị Trong tình hình ấy tài chính - tín dụng có tài giỏi đến mấy cũng không thể phân phối và phân phối lại vượt quá mức số của cải trong nước làm ra cộng với số vay nợ, viện trợ hạn chế của nước ngoài. Sự phân phối và phân phối lại thông qua tài chính - tín dụng tuy có những yếu kém nhất định nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát mà là hệ quả của cơ cấu đầu tư , cơ cấu kinh tế không hợp lý với sự duy trì bộ máy hành chính cồng kềnh và cơ cấu quản lý kinh tế kém năng lực.
Năm là, lạm phát xuất hiện ở một nước, mà nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài. Thu về xuất khẩu không đủ trang trải cho chi phí nhập khẩu. Để bù đắp chi phí nhập khẩu phải vay nợ nước ngoài. Tỉ trọng vay nợ nước ngoài so với chi bằng ngoại tệ vào các năm 1981 - 1985 là 52%, năm 1986 là 65% và năm 1989 là 39%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều dựa vào vay nợ, viện trợ của nước ngoài, thiếu nó thì doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động bình thường. Sự viện trợ của nước ngoài giảm dần dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng dần và tạo điều kiện cho lạm phát phi mã.
Sáu là, việc buông lỏng quản lý ngoại thương, ngoại hối cũng gây ra những tác hại lớn cho ngân sách nhà nước và lưu thông tiền tệ. Trong hoạt động xuất nhập khẩu đã phát sinh hiện tượng tranh mua, địa phương này treo giá cao để thu hút hàng của địa phương khác.Việc đẩy giá mua của hàng nội địa ảnh hưởng đến giá cả trong nước. Trên thị trường có sự tranh bán, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta bị ép giá gây thiệt hạI đến lợi ích quốc gia.Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm chỉ chiếm 30% tổng kim ngạch nhập khẩu.Mỗi năm ngân sách nhà nước phảI bù lỗ xuất nhập khẩu. Những chính sách trên đã làm cho nguồn thu ngày càng cạn kiệt , ngân sách nhà nước ngày càng thiếu hụt, lạm phát ngày càng gia tăng.
2.1.3 Phương hướng giải quyết
* Tập trung đầu tư sức mạnh sản xuất trên cơ sở sắp xếp lại các ngành sản xuất và bố trí lại cơ cấu đầu tư, cơ cấu tiêu dùng. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển , tạo ra nhiều loại hàng hoá cho xã hội, cần áp dụng hàng loạt các chủ trương chính sách giải phóng sức lao động, khai thác mọi khả năng, tiềm năng, khuyến khích các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế phát triển sản xuất. Thực hiện 3 chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Trên cơ sở phát huy ưu thế trong nước, mạnh dạn mở rộng mối quan hệ kinh tế với các nước, sử dụng ưu thế về kỹ thuật của nền kinh tế hàng hoá thế giới để khắc phục tình trạng kém phát triển của nước ta.
*Phấn đấu giảm mức hụt ngân sách.
Bộ tài chính cần thông báo chính xác mức chênh lệch thu chi ngân sách. Tách các khoản vay của nhà nước ra khỏi ngân sách và chuyển thành các nguồn vốn đi vay , nếu ngân sách vay thì cũng phải trả lãi. Ngân sách có bốn nguồn thu: huy động trong nước, vay nước ngoài, vay dân, vay ngân hàng. Trước mắt vay nợ nước ngoài khó khăn do đó cần hướng vào các nguồn thu trong nước để tăng thu Chủ yếu là tăng thu thuế, thực hiện đánh thuế VAT, thuế vốn, thuế thu nhập … Kiểm kê tài sản, bất động sản, ấn định giá đất, giá nhà để bán và cho thuê, tăng nguồn thu nhập cho ngân sách.
*Giảm chi: Rà soát lại các nguồn chi, thực hiện một chính sách chi tiêu nghiêm ngặt. Có thể cắt giảm một tỉ lệ nhất định các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết của các cơ quan nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi của các cơ quan này, đồng thời có các biện pháp dự phòng nhằm đối phó với những khoản chi tiêu ngân sách đột biến lớn có khả năng dẫn tới lạm phát.
*Chấm dứt hoàn toàn việc phát hành tiền để cứu vớt các xí nghiệp quốc doanh dưới bất kì hình thức nào.Thực hiện chính sách tiết kiệm gắn liền với chống tham ô lãng phí ngay từ các cơ quan nhà nước.
*Tăng cường chức năng quản lý vĩ mô của ngân hàng nhà nước. Sử dụng hiệu quả cá công cụ như : lãi suất, tỉ giá, kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu, công trái, nâng cao hiệu suất kinh tế của vốn tín dụng.
*Chủ động điều tiết giá cung, cầu và cải tiến chế độ tiền lương.
Lạm Phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009
Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục. Tuy nhiên theo lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế thì Việt Nam đang phải chịu tác động từ chính thành công quá lớn và quá nhanh chóng của mình. Cái giá phải trả cho tốc độ tăng trưởng cao là mất ổn định kinh tế vĩ mô ít nhất là trong trung hạn. Điều này được thấy rõ nhất thông qua lạm phát và tình hình kinh tế nước ta năm 2008.
Năm 2008 đã đi vào lịch sử kinh tế Việt Nam như một năm đầy biến động và sóng gió trên tất cả các thị trường. Từ thị trường trong nước đến thị trường nước ngoài, từ thị trường hàng hóa dịch vụ thông thường, cao cấp đến thị trường tài chính và thị trường bất động sản. Nhìn lại chặng đường một năm giúp ta rút ra nhiều bài học quí giá cho những chặng đường phát triển tiếp theo.
Diễn biến
*Giai đoạn lạm phát tăng nhanh ( 3 quí đầu năm)
Dấu hiệu lạm phát đã xuất hiện từ tháng 6 năm 2007 khi CPI tháng 6 tăng vọt lên 1%, trái hẳn với thông lệ giá cả hơn một thập kỉ qua. Tín hiệu này đã được ghi nhận và xử lý kịp thời. Tuy nhiên do không phân tích đúng nguyên nhân của lạm phát, thêm vào đó việc triển khai thực hiện không nghiêm túc nên mặc dù tăng trưởng kinh tế cả năm 2007 ở mức cao trên 8.5%, song lạm phát cũng ở mức kỷ lục 12.63%.
Nửa đầu năm 2008, lạm phát liên tục leo thang và vượt qua mọi qui luật đã hình thành hàng chục năm nay, buộc Việt Nam phải điều chỉnh chính sách từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang kiềm chế lạm phát. Trong bối cảnh lạm phát quá cao, kết quả tăng trưởng đã mất đi khá nhiều ý nghĩa. Nhất là đối với các tầng lớp nghèo dễ bị tổn thương, thu nhập chủ yếu trông chờ vào đồng lương. Khi vật giá leo thang số tiền mỗi người có được dường như là nhiều hơn do doanh thu bán hàng, thu nhập hoặc tiền lương khá hơn trước. Nhưng thực chất họ lại mua ít hàng hóa và dịch vụ hơn vì sức mua của đồng tiền đã giảm. Nếu không nhận diện đúng và có những biện pháp thích hợp thì nguy cơ phải đối mặt với lạm phát phi mã gây bất ổn kinh tế xã hội là điều khó tránh khỏi.
Chỉ sau 6 tháng, Tổng cục thống kê công bố công bố chỉ số CPI đã lên tới 26.8% so với tháng 6 năm 2007 và 18.44% so với cuối năm 2007. Riêng nhóm hàng lương thực thực phẩm tăng tương ứng tới 74.3% và gần 60%. Điều này đã phá vỡ mọi dự tính của chúng ta về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Càng nghiêm trọng hơn khi Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 60% dân số và lực lượng lao động là nông dân. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nói chung và của giá cả thị trường nói riêng vào những biến động trong khu vực sản xuất lương thực thực phẩm của nước ta còn rất lớn, mặc dù tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP giảm xuống chỉ còn 20%.
Thông thường những tháng gần tết giá cả tăng nhanh. Nhưng năm 2008 đặc biệt hơn vì qua tết Mậu tý mà giá cả vẫn ở mức cao trái ngược với qui luật vận động của giá cả trong thời gian gần đây.
Sau hơn 1 thập kỉ từ năm 1992, “bóng ma” lạm phát dường như đang quay trở lại và đe dọa những thành quả kinh tế xã hội mà nước ta đạt được.
Trong những tháng đầu năm vật giá leo thang từng tháng. Giá cả tăng liên tục đã đẩy mức lạm phát tháng sau cao hơn tháng trước. So với tháng 12 (2007), CPI tháng 1 (2008) tăng 2.4%, sang tháng 2 tăng vọt lên 6%, tháng 3 là 9.2%. Đến tháng 4 chỉ số CPI đã lên tới 2 con số (11.6%) và tháng 5 lại tăng đột ngột tới 16%. Đỉnh điểm lạm phát đã đến mức 3.91% vào tháng 5 (2008), trùng với thời điểm giá gạo trên thị trường quốc tế ở mức 1000 USD/ tấn, khủng hoảng lương thực đã trở thành mối đe dọa toàn cầu. Ngay cả ở một cường quốc xuất khẩu gạo như Việt Nam mà tin đồn thiếu gạo đã làm rất nhiều người dân hoang mang, lo lắng sẽ quay về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Còn các cơ quan chức năng nhà nước do dự báo sai lệch nên yêu cầu các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu mặc dù giá lúa gạo đang rất cao.
Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm trong khi tỷ lệ đầu tư vẫn ở mức cao. GDP nửa đầu năm chỉ tăng 6.5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ một số năm gấn đây. Xuất hiện những cơn “sốt ảo” USD, vàng, gạo, thép, vật liệu xây dựng,…Thâm hụt thương mại tăng vọt (gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu). Thị trường chứng khoán thiết lập đáy mới chỉ bằng khoảng ¼ đỉnh cao nhất là 1173 điểm, đánh mất toàn bộ điểm tích lũy được 3 năm qua. Giá vàng có thời điểm lên đến xấp xỉ 20 triệu VND/ lượng, tỷ giá hối đoái trên thị trường đã từng vượt mốc 19000 VND/ USD….
Nền kinh tế Việt Nam cuối tháng 5 đầu tháng 6 mấp mé bờ vực khủng hoảng với những “bong bóng” khổng lồ chực chờ nổ tung trên thị trường tài chính tiền tệ, thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường bất động sản. Các tháng 6,7,8 chỉ số CPI đã lên cao chóng mặt lần lượt là 18.4%, 19.8% và 21.7%.
Chỉ sau 3 quý đầu năm, CPI đã vượt mức 20%, đạt được mức kỷ lục từ 17 năm qua. Điều đó cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ mất giá của đồng tiền: sau 3 năm (tính đến tháng 9/ 2008) đồng tiền đã mất giá 48.5% so với kỳ gốc 2005.
*Giai đoạn giảm lạm phát (3 tháng cuối năm)
Sang tháng 10,11,12 liên tiếp 3 tháng giá nhiều loại hàng hóa đã chững lại và giảm xuống. CPI cũng giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế tháng âm: -0.19 (tháng 10), -0.76 (tháng 11), -0.66 (tháng 12). Tỷ lệ lạm phát từ 21.9% vào thời điểm tháng 9 chỉ còn 19.89% so với tháng 12 (2007), làm dịu bớt cơn lạm phát của Việt Nam. Nguyên nhân là do những tháng đầu năm giá mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng nhanh; hàng phi lương thực thực phẩm mặc dù chậm nhưng vẫn tăng giá. Đến cuối năm hàng lương thực thực phẩm dường như không tăng nữa và đồ thị là một đường nằm ngang. Trong khi đó giá hàng hóa phi lương thực thực phẩm giảm nhanh nên tốc độ tăng giá chung giảm xuống. Bên cạnh đó là nhờ những biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng chẳng hạn như Nghị quyết số 10/2008/ NQ- CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững với 8 nhóm giải pháp…..
Chúng ta đã chủ trương đúng khi giảm tốc độ tăng trưởng và tập trung vào chống lạm phát. Thành công nhờ hệ thống chống lạm phát bảo đảm tính trọn gói, sát với nguyên nhân. Đặc biệt chúng ta có sức mạnh khi tập hợp, huy động cả hệ thống chính trị, cả dân tộc và các doanh nghiệp tham gia chống lạm phát.
2.2.2 Nguyên nhân
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009 là sự tác động của tổ hợp ba dạng lạm phát: lạm phát tiền tệ , lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
2.2.2.1 Lạm phát tiền tệ
Tăng trưởng tín dụng trong nước được mở rộng quá mức từ 2005 đến năm 2007 và kéo dài sang nhiều tháng đầu năm 2008 làm cho việc cấp tín dụng cho các hoạt động đầu cơ chứng khoán, đầu cơ bất động sản còn dễ dàng hơn cấp tín dụng cho các dự án đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với năm 2006. Tính đến 31/12/2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế tăng mạnh. Các nguồn vốn ngoại ( đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài , ODA, kiều hối ) tràn vào khá lớn từ năm 2007 và tăng đột biến ngay từ đầu năm 2008. Để duy trì tỷ giá USD, ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỷ USD (năm 2006 ) lên 21,6 tỷ USD (năm 2007) và đẩy một lượng tiền lớn ra thị trường. Trong khi đó, một mặt khả năng tiêu hóa nội địa còn thấp kém, năng lực sản xuất trong nước không theo kịp làm xảy ra tình trạng dư thừa tiền trong lưu thông. Mặt khác, công tác điều hành của nhà nước không theo kịp nhịp độ, không thu hồi kịp thời lượng thiền tung ra mua ngoại tệ dự trữ khi các dòng ngoại tệ tràn vào đã làm cho các nghiệp vụ thị trường mở không đủ khả năng trung hòa các “ phản ứng phụ” của dòng ngoại tệ. Trong lưu thông, cung tiền qua mức cần thiết trong khi cung đứng yên thì tất yếu dẫn đến lạm phát. Nếu phản ứng không kịp, để kéo dài sẽ sinh ra lạm phát cao, điều đó không thể tránh khỏi.
2.2.2.2 Lạm phát cầu kéo
Do lượng tiền cung ứng vào lưu thông quá nhiều, quan hệ-tiền- hàng mất cân dối nghiêm trọng. Điều đáng chú ý là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ được nới lỏng từ nhiều năm trước và tiếp tục được nới lỏng trong quý đầu năm 2008. Tổng đầu tư của xã hội năm 2007 là 493,6 nghìn tỷ đồng, cao hơn 77% so với năm 2006, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỷ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự toán. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỷ đồng, bắng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỷ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 2,5 lần so với năm 2006. Điều đó dẫn đến cả chi tiêu công và tư đều tăng làm tăng nhu cầu trong khi nền cung không tiến kịp dẫn đến cầu lớn hơn cung kéo giá cả tăng, gây ra lạm phát cầu kéo.Không chỉ thế, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập liên quan đến hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc gia tăng đầu tư của nhà nước vào các lĩnh vực đã góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn.
2.2.2.3 Lạm phát chi phí đẩy
Trước hết, việc tăng lương, tăng giá xăng dầu, điện nước, vận tải… đều xuất phát từ phía người bán ( do chiếm vị tri độc quyền, do liên kết, thao túng giá, do thiếu trách nhiệm với chính phủ và xã hội… ) và nhiều khi còn được cộng hưởng với việc điều hành, quản lý giá chưa hiệu quả của nhà nước. Sự hợp lực của hai yếu tố này đã tạo lực đẩy chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao làm tăng giá bán hàng hóa, dịch vụ. Nền kinh tế nước ta phải đối mặt với tình trạng nhập siêu hơn 20 năm nay do hiệu quả cũng như năng suất lao động thấp, khả năng tiêu hóa các luồng vốn lớn từ bên ngoài còn kém…. Tình trạng nhập siêu còn nghiêm trọng hơn vào đầu năm 2008, từ đó tạo điều kiện cho lạm phát chi phí đẩy bùng phát. Nền kinh tế bị phụ thuộc vào bên ngoài, nhập siêu quá lớn sẽ làm loạn giá cả trong nước, nhất là khi gía cả trên thị trường thể giới biến động mạnh. Điều này đặt biệt rõ khi giá dầu thô và nhiều nguyên vật liệu chính, sắt thép, phân bón, xăng dầu… trên thị trường thế giới tăng đột biến đầu năm 2008 và sau đó giảm mạnh từ quý IV-2008 đã làm cho giá cả trong nước biến động theo một cách thất thường. Gía dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1/2007 lên 89,4 USD/ thùng tháng 12/2007 và đạt đỉnh mới 125,96 USD /thùng vào ngày 9/5/2008.
2.2.2.4 Nguyên nhân khác
Ngoài ra, lạm phát ở nước ta còn xuất phát từ một số nguyên nhân sau
Tâm lý dám đông bị kích động bởi các tin đồn thất thiệt và tình trạng đầu cơ trục lợi. Thêm vào đó, thiên tai, dịch bệnh lây lan đã đẩy giá lương thực, thực phẩm tăng cao, gây náo loạn thị trường. Thậm chí có cả nguyên nhân đã tích tụ từ lâu do đầu tư kém hiệu quả ( hệ số ICOR tăng ), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch tăng trưởng GDP và tăng cung tiền đã ngày một giãn rộng trong vòng 3 năm qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến tháng 6/2006, GDP tăng 25% trong khi mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng đến 110 %.
2.2.3. Tác động của lạm phát:
2.2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế:
* Lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Đối với các Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, lạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
- Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng thương mại.
- Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện.
- Tính thanh khoản của các ngân hàng bị ảnh hưởng, rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ.
- Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp, người dân thực hiện giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các Ngân hàng thương mại cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính – tín dụng.
* Lĩnh vực sản xuất: Lạm phát tăng cao đã làm giá đầu vào và đầu ra của các nguyên vật liệu, sản phẩm biến động không ngừng tạo nên sự mất ổn định trong thị trường, gây khó khăn không nhỏ đối với các Doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa giá cả tăng cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay, khoảng 95% là Doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động của khó khăn kinh tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đang làm các công ty không kiểm soát được chi phí, mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản xuất. 20% còn lại là các công ty chịu ít ảnh hưởng và vẫn trụ vững do trước nay ít phải nhờ đến nguồn vốn vay và được các lãnh đạo có kinh nghiệm dẫn dắt.
Số liệu điều tra của Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, ngay cả trong điều kiện lạm phát, trên 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vẫn có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo nhu cầu. Như vậy 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đứng trước nguy cơ phá sản. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhìn chung thấp hơn so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng của các thành phần GDP cũng giảm so với năm trước. Đặc biệt, tốc độ tăng tích lũy tài sản cố định đã giảm mạnh từ 24% xuống chỉ còn 4%. Trong khi đó, tỉ trọng hàng tồn kho đã tăng lên 5% so với tổng GDP, cao hơn mức thông thường của các năm trước khoảng 2%.
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
2008
Toàn nền kinh tế
7,8%
8,4%
8,2%
8.5%
6,3%
Nông nghiệp
4,4%
4,0%
3,4%
3,4%
4,1%
Công nghiệp
10,6%
10,6%
10,2%
10,2%
8,2%
Xây dựng
9,0%
10,8%
11,1%
12,0%
0,0%
Dịch vụ
1,3%
8,5%
8,3%
8,7%
7,2%
Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm (%)
* Lĩnh vực lưu thông: Lạm phát tăng cao đến 23% làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Chính những hoạt động đầu cơ này lại càng làm cho thị trường trở nên khan hiếm hàng hóa, dẫn đến mất cân bằng cung-cầu.
Năm 2007, giá lương thực-thực phẩm trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức 18,9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực tăng 15,5% và thực phẩm tăng 21,16%. Những mặt hàng như thiết bị và đồ dùng gia đình tăng giá 8,36% so với năm 2007, giá mặt hàng may mặc tăng 9,81%, đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở và vật liệu xây dựng, giá tăng lên đến 22,39% so với năm 2007. Tình hình này làm cho sức tiêu thụ hàng hóa trong nước có dấu hiệu yếu dần.
Đối với những mặt hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tâm lý như chứng khoán và bất động sản thì giá cả của chúng lại giảm xuống rõ rệt. Xét thị trường
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ktvm_bai_hoan_chinh_4168.doc