LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT VÀ TÍN DỤNG 3
I-/ LẠM PHÁT 3
1-/ Khái niệm 3
2-/ Nguyên nhân của lạm phát 4
3-/ Hậu quả của lạm phát. 7
II-/ TÍN DỤNG 10
1-/ Bản chất và chức năng của tín dụng. 10
2-/ Các loại tín dụng phổ biến-lịch sử hình thành và phát triển. 11
III-/ VẤN ĐỀ LẠM PHÁT QUA TÍN DỤNG. 13
PHẦN 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM QUA CÁC
GIAI ĐOẠN VÀ CHÚNG TA ĐÃ CHỐNG LẠM PHÁT
NHƯ THẾ NÀO. 16
PHẦN 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CÔNG CUỘC
CHỐNG LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN QUA
VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG
LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN TỚI. 24
1-/ Một số bài học kinh nghiệm rút ra 24
2-/ Một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát qua tín dụng mang tính dài hạn 25
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
30 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh vực nào đó để cuối năm thu được 3,9 triệu. Họ trả lại bạn 3,6 triệu và để ra 300.000. Như vậy khoản 300.000 đáng lẽ ra là của bạn thì lại chảy vào túi ngân hàng.
Lạm phát tăng gây thiệt hạI cho những người giữ tiền và đem lại thuận lợi cho những người đi vay tiền. Đó là một sự bất công.
Có thể nói lạm phát đã phân phối và phân phối lại thu nhập trong nền kinh tế một cách bất hợp lý giữa các nhóm và các tầng lớp dân cư.
3.3-Lạm phát làm phát sinh nhiều tiêu cực xã hội.
Lạm phát làm nảy sinh nhiều tiêu cực của xã hội đặc biệt làm nạn đầu cơ tích trữ .Sự thừa tiền trong lưu thông đã đẩy giá hàng hóa lên cao. Lúc này giá trị của đồng tiền giảm sút rất nhiều, hàng hóa trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết. Đây là thời điểm thuận lợi để bọn đầu cơ tích trữ mua vào thật nhiều hàng hóa để tạo ra sự khan hiếm hơn nữa, đẩy giá lên cao. Đến thời điểm thuận lợi chúng tung ra bán với giá chênh lệch để kiếm lời.
Mặc dù lượng tiền mặt trong lưu thông là rất lớn nhưng Nhà nước lại luôn luôn thiếu tiền mặt để bù đắp bội chi ngân sách và tín dụng. Mặt khác phải chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên, do đó lại phải in thêm tiền. Do đó đã làm cho lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên. Bên cạnh đó sự mất giá của đồng nội tệ làm tình trạng dùng vàng và đô la làm phương tiện lưu thông có xu hướng ngày càng mở rộng. Ngoài buôn bán hàng hóa chênh lệch giá, người ta còn buôn bán cả séc và tiền ngoại tệ, đẩy tỉ giá trên thị trường chợ đen lên cao, không có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Có thể nói lạm phát đã ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến mọi mặt của xã hội. Vấn đề này nó liên quan đến tiền, đến kinh tế, đến mức sống nên nó là sự quan tân rất lớn của các chính phủ của các nước. Không thể có một nền kinh tế phát triển ổn định nếu như không kiểm soát được lạm phát.
II-/ Tín dụng
1-/ Bản chất và chức năng của tín dụng.
Ngày nay thuật ngữ tín dụng được sử dụng ngày càng nhiều trong kinh tế và trong cả sinh hoạt hàng ngày như quỹ tín dụng, vốn tín dụng...Một câu hỏi đặt ra là tín dụng là gì ? Tín dụng thực chất đó là quan hệ vay mượn, tạm thời sử dụng vối của lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả và tin tưởng. Tín dụng có thể nói ra đời từ rất lâu vì quan hệ vay mượn được phát sinh từ rất sớm do nhu cầu của cuộc sống. Trong cuộc sống đời thường ở xã hội Việt Nam, sự vay mượn là rất thường gặp nhưng có một điều lạ là những người bạn bè quen biết vay mượn tiền của nhau nhưng không có lãi suất. Tự dưng đem tiền của mình cho người khác dùng và lại “mua” thêm một nỗi lo sợ không đòi được tiền, đến khi đòi được tiền thì rất mừng mặc dù rõ ràng đó là tiền của mình bỏ ra. Đó là điều khó hiểu. Cho vay mượn là phải có lãi suất, tất nhiên nó khác với vay nặng lãi là lãi suất thấp và có thể thay đổi tùy thuộc vào mối quan hệ giữa hai bên. Mặt khác trong quan hệ tín dụng, có vay phải có trả, phải trả đúng hạn. Có như vậy mới duy trì được quan hệ tín dụng và tình cảm giữa hai bên.
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp và phục vụ nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu bản chất của tín dụng cần phải xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp đều có một chu kỳ sản xuất kinh doanh của mình. Đầu tiên là mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công, tài sản cố định...đầu tư để sản xuất ra hàng hóa, sau đó đem hàng hóa ra bán và thu lãi. Các doanh nghiệp sản xuất ra các loạI hàng hóa khác nhau, thời gian tiêu thụ khác nhau nên quá trình luân chuyến vốn cũng khác nhau. Do sự không trùng khớp về thời gian nên không phải lúc nào doanh nghiệp cũng đủ vốn để đầu tư sản xuất, trả lương...Tất yếu có những doanh nghiệp do chưa tiêu thụ được hàng hóa nên chưa thu được tiền nhưng đã đến kỳ trả lương, nộp thuế và các khoản chi phí khác...Các khoản chi này lớn hơn số vốn hiện có tại doanh nghiệp và doanh nghiệp phải đi vay vốn để chi trả các nhu cầu này. Như vậy đã có nhu cầu về vốn.
Mặt khác cũng có những doanh nghiệp tiêu thụ hàng rất nhanh, thu được nhiều tiền sớm trước khi kết thúc chu kì sản xuất kinh doanh, chưa phải trả tiền nhân công, chưa pảhi nộp thuế, họ có một số tiền tạm thời nhàn rỗi. Vì vậy có nhu cầu cho vay vốn để kiếm lời. Như vậy đã có cung về vốn.
Cung và cầu về vốn đã có và khi gặp nhau thì tất yếu sẽ diễn ra hoạt động vay và cho vay. Chất xúc tác của quan hệ tín dụng là lãi suất. Lãi suất phải đủ cao để thỏa mãn nhu cầu của người cho vay nhưng cũng không quá cao để bảo đảm cho người đi vay có khả năng trả nợ và thu được lãi nhờ sử dụng đồng vốn đi vay đó.
Từ sự phân tích trên ta thấy thực chất tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ sung vốn thiếu hụt của các doanh nghiệp. Đó là quan hệ kinh tế nhằm giải quyết hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản chất nó là quan hệ bình đẳng, cùng có lợi.
Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó xuất phát từ nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy quy mô của tái sản xuất, tăng vòng quay của tư bản. Với chất xúc tác là lãi suất, tín dụng kích thích các tổ chức kinh tế và dân cư trong cơ cấu các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi hiện đang phân tán ở khắp mọi nơi.
Trong lịch sử phát triển của tín dụng do đặc điểm cũng như nhu cầu về vốn, về thời gian, cách thức vay vốn...đã hình thành rất nhiều loại tín dụng trong đó có 3 loại chính phổ biến nhất là tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng loại tín dụng trên.
2-/ Các loại tín dụng phổ biến-lịch sử hình thành và phát triển.
2.1-Tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại ra đời từ rất sớm, nó được hình thành từ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Những doanh nhân trong quan hệ làm ăn với nhau không phải lúc nào cũng có sẵn tiền để thanh toán ngay vì vậy họ ký giấy nợ và hẹn ngày trả. Thực chất của tín dụng thương mại chính là hoạt động mua bán chịu. Tín dụng thương mại xuất hiện làm đẩy nhanh vòng quay của hàng hóa và lưu thông tiền tệ, giúp cho sản xuất kinh doanh được thông suốt. Tuy vậy trong quan hệ tín dụng thương mại không phải không bộc lộ những hạn chế nhất định. Do mỗi doanh nghiệp sản xuất ra những loại hàng hóa khác nhau, chu kì sản xuất kinh doanh là khác nhau nên nhu cầu đi vay và cho vay cũng như thời hạn cho vay và thời hạn trả thường xuyên không trùng khớp với nhau. Không phải lúc nào một doanh nghiệp cần cho vay cũng tìm được người muốn vay đúng thời điểm, số vốn và số lãi như mong muốn và ngược lại đối với người đi vay cũng vậy. Vì vậy việc quy định tạm thời hạn nợ đối với cả hai bên trong quan hệ tín dụng thương mại tương ddối khó khăn, thường xuyên không trùng khớp với nhau dẫn đến nhu cầu thực hiện giá trị của kỳ phiếu thương mại trước thời hạn.
2.2-Tín dụng Ngân hàng.
Các Ngân hàng thương mại lúc đầu với tư cách là những người giữ hộ tiền và chịu trách nhiệm thanh toán hộ thân chủ. Như vậy trong tay họ lúc nào cũng có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi, họ muốn đem cho vay để kiếm lợi nhuận từ khoản vốn nhàn rỗi đó. Trong khi đó các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất hoạt động kinh doanh có lúc rất cần tiền nhưng trong tay họ lại chỉ có một mớ kì phiếu thương mại chưa đến hạn thanh toán. Vì vậy họ có nhu cầu cầm cố, vay tiền từ số kì phiếu đó. Sự gặp gỡ giữa hai loại nhu cầu giữa Ngân hàng và các chủ doanh nghiệp dẫn đến một loại hình quan hệ tín dụng mới. Đó là quan hệ tín dụng Ngân hàng: Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay tiền dưới hình thức chiết khấu các kì phiếu thương mại. Tín dụng ngân hàng có nguồn gốc từ tín dụng thương mại. Trải qua thời gian dài, phạm vi lưu thông cũng như khối lượng lưu thông ngày càng tăng, kì phiếu thương mại đã được chuyển thành tiền tín dụng. Ngân hàng chủ động phát hành ra tiền tung vào lưu thông, số tiền đó được bảo đảm bằng một khối lượng vàng nhất định hoặc một tỉ lệ tăng trưởng nhất định của nền kinh tế.
Nếu như trong tín dụng thương mại, các doanh gnhiệp muốn vay tiền đều phải trực tiếp gặp nhau thoả thuận đôi khi rất khó khăn và rất mất thời gian do sự thiếu ăn khớp về nhu cầu. Nhưng trong quan hệ tín dụng ngân hàng đã khắc phục được nhược điểm đó của tín dụng thương mại doanh nghiệp muốn vay bất cứ số tiền nào, bất cứ thời đIểm nào miễn là thoả mãn được các quy định của Ngân hàng. Quy mô tín dụng ngày càng tăng thông qua hoạt động tạo tiền và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Ngân hàng càng cho vay được nhiều tiền thì càng có lãi. Tuy vậy đIều này cũng rất nguy hiểm vì quy mô tín dụng quá lớn sẽ gây ra lạm phát, đó chính là điều mà chúng ta không mong muốn.
2.3-Tín dụng Nhà nước
Bên cạnh hai loại hình tín dụng trên còn có một loạI hình tín dụng nữa có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế đó là tín dụng Nhà nước. Đó cũng là tín dụng nhưng là quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, với các tổ chức, đơn vị kinh tế. Sở dĩ có tín dụng Nhà nước vì nó có liên quan đến ngân sách Nhà nước. Nhà nước thu thuế từ các đơn vị kinh tế để thực hiện chi tiêu và phân phối lại thu nhập. Tuy vậy nếu như Nhà nước có nhu cầu chi tiêu quá lớn thì sẽ làm cho ngân sách Nhà nước bị bội chi. Nhà nước lấy đâu ra tiền để thực hiện các khoản chi tăng thêm đó. Có rất nhiều cách đặc biệt là tăng thuế.Tuy nhiên tăng thuế chỉ có thể thực hiện đến một giới hạn nào đó nếu không doanh thu thuế sẽ giảm. Còn một cách nữa đó là đi vay. Nhà nước có thể thực hiện rất nhiều cách vay trong đó có phát hành ra trái phiếu bán cho công chúng, vay nước ngoài và vay nợ Ngân hàng bằng cách đem cầm cố trái phiếu tại Ngân hàng. Quan hệ vay mượn này đều được thực hiện trên nguyên tắc có lãi và hoàn trả sòng phẳng đúng thời hạn. Tín dụng Nhà nước phát triển cùng với sự phát triển của Nhà nước hiện đại và ngày càng trở thành nguồn bù đắp cho ngân sách Nhà nước .
Tuy vậy cách thức trả nợ của tín dụng Nhà nước mới là điều đáng quan tâm, điều này sẽ được trình bầy dưới đây, chúng ta sẽ hiểu được lạm phát được hình thành qua con đường tín dụng như thế nào.
III-/ Vấn đề lạm phát qua tín dụng.
Lạm phát là sự tăng giá cả, là sự giảm sức mua của đồng tiền. Tín dụng là quan hệ vay mượn trong nền kinh tế. Hai vấn đề này thoạt nghe có vẻ như không hề có mối liên hệ với nhau. Nhưng chúng lại có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ vì chúng đều có liên hệ với tiền tệ, với lưu thông tiền tệ và mức cung tiền.
Lạm phát qua con đường tín dụng Nhà nước.
Như ở trên chúng ta đã trình bầy, có nhiều con đường để Nhà nước trả nợ tín dụng. Tăng thuế là một biện pháp nhưng chúng ta thử xem xét liệu tăng thuế có đem lại kết quả mong muốn hay không.
0
TR
t*
Tỷ lệ thuế - thuế suất
TR: Doanh thu thuế
Nếu t tăng lên > t* thì TR sẽ giảm.
Mặt khác T = f(Y)
Yd = Y - T
Yd = S + C suy ra S + C = Y - T
Mà một phần tiết kiệm sẽ được chuyển thành đàu tư I. T tăng lên làm cho S giảm do vậy I cũng giảm. I giảm làm cho Y giảm, từ đó làm cho T giảm.
Do vậy đối với một ngân sách bị thâm hụt lớn thì tăng thuế không phải là biện pháp tốt.
Thực ra nuếu như trong đIều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, thị trường chứng khoán phát triển Nhà nước không phảI trả nợ thực sự mà chỉ việc in ra thêm trái phiếu với quy mô lần sau lớn hơn lần trước. Đây là con đường tốt nhất nhưng chúng ta không bàn đến ở đây.
Bước đường cùng chính là Nhà nước trả nợ bằng cách in thêm tiền vào lưu thông. Chúng ta đã biết, việc phát hành tiền được kiểm soát rất chặt chẽ, khối lượng tiền phát hành ra phải căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản xuất ra trong cung thời kì để đảm bảo sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả. Nhưng Nhà nước không căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản xuất ra mà cứ in tiền vào lưu thông sẽ đẩy mức cung tiền lên nhanh chóng.
Theo quy luật lưu thông tiền tệ, mức cung tiền tăng tỉ lệ thuận với tốc độ tăng giá và lượng hàng hóa. Nếu như khối lượng hàng hóa không tăng hoặc có tốc độ tăng chậm thì buộc giá cả hàng hóa phải tăng lên tức là gây ra lạm phát. Khối lượng tiền tệ tăng lên làm sức mua của đồng tiền giảm sút. Không ai có thể lưu giữ một thứ tài sản ngày càng hao hụt đi về giá trị nên họ chỉ muốn đẩy nó đi càng nhanh càng tốt và mua hàng hóa và ngoại tệ về dự trữ. Tốc độ lưu thông tiền tệ tăng lên. Quy luật lưu thông tiền tệ cũng chỉ ra rằng lạm phát tỉ lệ thuận với tốc độ lưu thông tiền tệ. Mức cung tiền tăng, tốc độ lưu thông tiền tệ cũng tăng làm lạm phát tăng lên gấp bội.
Như một con bạc say máu, càng thua thiệt, càng thâm hụt thì Chính phủ càng tiếp tục in tiền vào lưu thông với quy mô lớn hơn trước đẩy lạm phát tăng lên và triền miên trong nhiều năm như một căn bệnh xã hội . Trong kinh tế học người ta có câu “không có cái gì là không có giá của nó”.Lạm phát tăng cao kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng, thất nghiệp tăng, đời sống nhân dân giảm sút..Đây không phải là điều mà một Chính phủ mong muốn nhưng họ đã gián tiếp thực hiện điều đó do năng lực quản lý yếu kém của mình.
Rõ ràng ở đây người ta đã lạm dụng chức năng phát hành tiền của Ngân hàng trung ương để tùy tiện phát hành ra những tờ giấy bạc thừa phục vụ cho nhu cầu chi tiêu không giới hạn của mình. Người gánh chịu những hậu quả do lạm phát trầm trọng gây ra lại là người dân, là toàn xã hội.
Đến đây, kết thúc phần lý thuyết cơ bản về lạm phát và tín dụng, chuyển sang phần “Thực trạng lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn và chúng ta đã chống lạm phát như thế nào”
Phần 2
Thực trạng lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn và chúng ta đã chống lạm phát như thế nào.
Phần trên đã trình bầy khá cụ thể về lạm phát và tín dụng và mối quan hệ giữa chúng. Qua đó chúng ta đã có những hiểu biết cơ bản tại sao lạm phát lại xảy ra khi ngân sách bị bội chi. Nhưng đó mới chỉ đơn thuần là lý thuyết.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu những biểu hiện, thực trạng của lạm phát ở Việt Nam để có thể hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề này. Phần này được chia làm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn lạm phát 1981-1988
- Giai đoạn chống lạm phát 1989-1992
- Giai đoạn tái lạm phát 1994-1995.
a-Giai đoạn lạm phát 1981-1988.
Giai đoạn 1976-1980 lạm phát ở Việt Nam là lạm phát ngầm. Chính phủ cố gắng đè nén lạm phát, không công khai hóa.
Chỉ số giá bán lẻ thời kỳ 1976-1980 (năm trước = 100%)
Năm
Giá do Nhà nước quy định
Giá thị trường tự do
1976
1977
1978
1979
1980
99,1
101,1
104,3
103,3
109,8
150,3
138,0
139,0
140,0
143,8
(Nguồn : ủy ban Vật giá Nhà nước)
Trong khi giá cả do Nhà nước ấn định khá thấp, thậm chí có năm còn thấp hơn năm trước (1976), mức độ lạm phát ở mức độ 1 con số, có thể coi là lý tưởng thì ở thị trường tự do lạm phát ở mức phi mã (2 con số).
Giá cả ở thị trường tự do không ngừng tăng cao. Đây là biểu hiện của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, sản xuất kém phát triển, hàng hóa khan hiếm. Sang thập kỉ 80 Nhà nước bắt đầu công khai hóa lạm phát. Do đó lạm phát do Nhà nước quy định và trên thị trường tự do tăng nhanh.
Lạm phát thời kì 1981-1988 (%)(Năm sau so với năm trước)
Năm
Lạm phát do Nhà nước quy định
Lạm phát trên thị trường tự do
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
102
141,8
42,8
55,8
110,9
47,4
65
57,5
76,3
54,7
774,7
223,1
393,8
(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Tuy nhiên, nhữung năm đầu của thập kỉ 80, lạm phát ở Việt Nam vẫn chưa bộc lộ hoàn toàn mà còn là lạm phát bị đè nén bởi vì Nhà nước vẫn cố gắng giữ mức giá rất thấp cho khối lượng hàng hóa cung cấp theo định lượng cho công nhân viên chức, coi như trả lương một phần bằng hiện vật, đồng thời số hàng hóa do các doanh nghiệp Nhà nước (kể cả các tổ chức thương nghiệp quốc doanh) vẫn bán ra theo giá Nhà nước quy định thấp hơn nhiều mức giá thị trường tự do. Tỷ trọng hàng hóa do Nhà nước quy định giá là rất lớn so với hàng hóa trên thị trường tự do, cho nên mức độ đè nén của lạm phát thời kì 1981-1985 không phải là nhỏ.
Năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải các tiền tệ đồng thời với việc tăng giá và lương. Sau đó, hàng năm đã điều chỉnh mặt bằng của Nhà nước, kể cả các mặt hàng cung cấp định lượng, lên gần sát với mặt bằng giá của thị trường tự do, trong khi đó, về mặt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chưa có chuyển biến đáng kể. Kết quả là lạm phát trở thành “phi mã”, mặt bằng giá cả tăng gấp mấy lần trong vòng một năm, kể cả trên thị trường quốc doanh cũng như trên thị trường tự do.
Có nhiều ý kiến khác nhau về đặc điểm lạm phát ở Việt Nam trong những năm 80. Nhiều người cho rằng lạm phát ở Việt Nam đó là lạm phát “chi phí đẩy”. Trong quá trình từng bước tự do hóa giá cả, Nhà nước đã chủ động điều chỉnh giá lên để giá Nhà nước xích lại gần mức giá thị trường tự do, làm cho mặt bằng giá chung tăng lên, có những thời kì (như 1986-1988) tăng lên gấp nhiều lần trong vòng 1 năm. Tuy nhiên đấy mới chỉ là hiện tượng mà chưa phải là bản chất của vấn đề.
Thực chất lạm phát ở Việt Nam trong những nhăm 1980 có bản chất sâu xa là do chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế hạch toán tập trung quan liêu bao cấp. Cơ chế này chỉ thích hợp trong thời kì chiến tranh khi chúng ta cần tập trung một nguồn lực cho kháng chiến. Nhưng khi hòa bình lập lại, chúng ta đã phát triển một cách dập khuôn hình mẫu chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô, chúng ta muốn cái gì cũng phải to, cái gì cũng phải lớn. Các doanh nghiệp Nhà nước chỉ quan tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, sản xuất ra thật nhiều sản phẩm mà không hề quan tâm đến chất lượng mẫu mã, tiêu thụ sản phẩm như thế nào. Nhà nước vạch kế họach, đề ra định mức và cung cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước để sản xuất, không hề có sự sáng tạo, không hề có sự chọn lọc ở đây. Các doanh nghiệp Nhà nước là con đẻ của Nhà nước, là “lực lượng chính”của nên kinh tế quốc dân, làm sao có thể “đem con bỏ chợ” được. Chính vì vậy số vốn mà Nhà nước cung cấp cho doanh nghiệp Nhà nước ngày càng lớn. Vào đầu những năm 1980 đặc biệt là vào những năm 1982-1984, gần một phần ba tổng số chi ngân sách Nhà nước đã dành để tài trợ cho các khoản bao cấp, đặc biệt là để bù giá cho các mặt hàng cung cấp địnhlượng.
Với số vốn ưu đãi như vậy, chắc hẳn các doanh nghiệp Nhà nước phải làm ăn thuận lợi. Ngược lại, chúng ta làm ăn ngày càng thua lỗ, lúc nào cũng hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao, sản phẩm đầy đủ nhưng kì thực đó là “lỗ thật, lãi giả” sản phẩm hàng hóa kém chất lượng, tiêu thụ kém, khối lượng cũng ít, không ít doanh nghiệp Nhà nước đã bị thua lỗ nặng nề. Các doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng chính nộp thuế vào ngân sách Nhà nước, lực lượng này mà làm ăn thua lỗ thì ngân sách Nhà nước không thể dồi dào được.
Bảng động viên thu nhập quốc dân sản xuất vào ngân sách Nhà nước
Giai đoạn
TNQD sản xuất
Thu NSNN so với
TNQD sản xuất
So với giai đoạn
Tăng giảm
Nhịp độ
76-80
81-85
86-90
100
100
100
25,2
29,0
20,2
-2,07
+3,87
-8,81
0,92
1,15
0,70
(Nguồn : Số liệu thống kê tài chính 1955-1986, Tổng cục thống kê, Hà Nội, 1988)
Tiềm năng của khu vực kinh tế quốc doanh là rất lớn, thể hiện ở tất cả các mặt. Về lĩnh vực kinh doanh, kinh tế quốc doanh được độc quyền năm giữ những vị trí then chốt nhất, có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất, về tài chính được cấp phát toàn bộ số vốn để hoạt động. Hơn thế nữa, khu vực kinh tế quốc doanh còn luôn luôn được sự quan tâm giúp đỡ thậm chí chiều chuộng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Với tiềm năng như vậy, lẽ ra khu vực này phải có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao và có đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước. Song, thực tế hoàn toàn ngược lại. Khu vực kinh tế quốc doanh quản lí và sử dụng tới 80% tài sản của nền kinh tế nhưng chỉ tạo ra khoảng 30% thu nhập quốc dân, sản xuất luôn ở trong tình trạng trì trệ kém hiệu quả. Bên cạnh đó, một hiện tượng hết sức phi lí đã xảy ra là các khoản nộp ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế quốc doanh hoàn toàn mang tính chất hình thức. Tính chất hình thức này được thể hiện bởi 2 lí do : Thứ nhất đó là sự không chính xác của công tác hạch toán, mức giá hạch toán trong chi phí sản xuất và giá thành vẫn rất thấp so với thực tế. Lí do thứ hai đó là cơ chế bao cấp. Các khoản bao cấp của ngân sách Nhà nước cho các xí nghiệp quốc doanh dưới dạng bù lỗ, bù giá, bù lương.
Với tình hình chi tiêu cũng như nộp thuế như vậy của các doanh nghiệp Nhà nước thì khó có thể có một ngân sách nào có thể bội thu. Vì vậy ngân sách Nhà nước Việt Nam lâm vào tình trạng thâm hụt triền miên.
Bảng thâm hụt ngân sách 1986-1989 (%)
Năm
1986
1987
1988
1989
% so với tổng chi
46
31
26
40
% so với GDP
7,2
5,4
8,2
41
(Nguồn: Phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh - NXB Tài chính-1996)
Tỉ lệ thâm hụt khá cao và biến động một cách bất thường. Tình trạng này rất khó chấm dứt nếu như không giải quyết dứt đIểm tình trạng nợ đọng dây dưa, trốn thuế, gian lận trong nộp thuế, làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước, nếu như không chấm dứt tình trạng bao cấp tràn lan, bù lỗ giá cả cho các doanh nghiệp. Thâm hụt ngân sách ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế vì nó liên quan đến vấn đề xử lí thâm hụt. Nhà nước lấy đâu ra nhiều tiền như vậy để bù đắp cho chính sách chi tiêu thiếu hiệu quả của mình. Rõ ràng Nhà nước phải huy động vốn từ nhiều nguồn để bù đắp. Trong thời kì 1981-1988 thâm hụt ngân sách Nhà nước Việt Nam được bù đắp chủ yếu bằng tiền phát hành ra, hay còn gọi là tín dụng của Ngân hàng trung ương (chiếm tới 61% tổng nguồn bù đắp thâm hụt); trong khi đó tỉ lệ vay nợ và viện trợ nước ngoài giảm rõ rệt, từ 66% thời kì 1981-1985 xuống chỉ còn 36% thời kì 1986-1988. Số nguồn bù đắp từ tín dụng vay trong nước trong thời kì này là không đáng kể (chỉ còn khoảng 3%)
Cơ cấu nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước ở Việt Nam (% so thâm hụt)
Thời kì
1981-1985
1986-1988
Tiền phát hành
30,6
57,9
Vay nước ngoài
65,7
38,5
Vay trong nước
3,7
3,7
(Nguồn : Bộ Tài chính)
Tại sao Nhà nước lại có thể phát hành nhiều tiền như vậy bởi vì chức năng phát hành tiền là của Ngân hàng trung ương ? Điều này có thể là vô lí ở nước khác nhưng ở Việt Nam thì đó là điều tất yếu. Trước năm 1988, hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam là hệ thống Ngân hàng một cấp, và về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách Nhà nước. Hoạt động chủ yếu của hệ thống Ngân hàng này là nhân vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp Nhà nước và của ngân sách Nhà nước để cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Mối quan hệ của Ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng hết sức hạn chế. Khi ngân sách Nhà nước thâm hụt thì cách dễ làm nhất, thường thấy nhất lúc ấy là phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt. Khi các doanh nghiệp Nhà nước thiếu vốn thì Ngân hàng Nhà nước phát hành thêm tiền để cho vay tín dụng. Hậu quả thế nào thì ai cũng rõ : lạm phát gia tăng với tốc độ cao và không gì kiểm soát được.
Khối lượng tiền tệ gia tăng không tương ứng với khối lượng hàng hóa được sản xuất ra đã làm cho tiền thừa tràn ngập các kênh lưu thông, sức mua của đồng tiền giảm sút. Người ta tranh nhau mua vàng, đô la, hàng hóa để dự trữ, biến nhà mình thành kho dự trữ nhỏ càng làm cho hàng hóa trở nên khan hiếm và càng giảm sức mua của đồng tiền. Đồng nội tệ tràn ngập lưu thông trong khi Ngân hàng thì luôn thiếu tiền để trả lương công nhân viên. Do đó đến kì lĩnh lương ngân hàng lại tiếp tục in tiền ra để trả càng làm cho khối lượng tiền tệ tăng lên, đồng tiền mất giá. Làm sao tiền có thể quay trở lại ngân hàng thông qua con đường tiết kiệm được vì không một mức lãi suất nào có thể theo kịp tốc độ lạm phát tăng không ngừng lúc bấy giờ. Không gửi tiết kiệm nhưng không ai dám giữ tiền lâu vì tiền lúc này trờ thành một thứ hàng hóa nguy hiểm. Sức mua giảm sút nhanh chóng nên giữ tiền lúc này khác nào giữ một cục than hồng trong tay, người ta muốn đẩy nó đi càng nhanh càng tốt làm cho tốc độ lưu thông của tiền ngày càng lớn. Khối lượng tiền đã lớn, tốc độ lưu thông lại nhanh càng làm cho lạm phát trở nên dữ dội. Ngay trong nước mình mà người ta không dám tiêu tiền Việt, đâu đâu cũng đòi hỏi thanh toán bằng séc, bằng vàng, bằng đô la...
Điểm lại tình hình lạm phát năm 1980-1988 có một đặc điểm nổi bật là lạm phát rất cao, tốc độ tăng rất nhanh không gì có thể kiểm soát được. Nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát là có quá nhiều tiền thừa trong lưu thông làm sức mua của đồng tiền giảm sút. Vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức rõ và khắc phục lạm phát trước khi hậu quả khó lường của nó xảy ra.
b-Giai đoạn kiềm chế lạm phát 1989-1992
Đặc điểm nổi bật của quá trình chống lạm phát những năm qua ở Việt Nam là phải chống lạm phát trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Cái mốc đánh dấu sự chuyển biến cơ bản và cũng có thể nói là thành công của công cuộc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam những năm qua là ở chỗ nhận thức được nguyên nhân trực tiếp của lạm phát là có quá nhiều tiền trong lưu thông, là có quá nhiều “cầu” cho nên trong giải pháp đã quay về với chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ là chủ yếu bằng chủ trương làm cho đồng tiền trở thành khan hiếm để chống lạm phát.
Chỉ số lạm phát thời kì 1989-1992 (tỉ lệ %)
Năm
1989
1990
1991
1992
Tỉ lệ lạm phát
34%
67%
67%
18%
(Nguồn : Bộ Tài chính)
Còn nhớ cuối năm 1988 tỉ lệ lạm phát còn là 400% thì đến cuối năm 1989 tỉ lệ lạm phát giảm xuống chỉ còn 34%. Trong các năm tiếp theo lạm phát được duy trì ở mức
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0937.doc