MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Danh mục bảng 4
Danh mục biểu đồ 4
Chương I: Lý luận chung về lạm phát 5
1.1. Lạm phát 5
1.1.1. Khái niệm 5
1.1.2.Các phép đo lường 6
1.1.3. Phân loại 8
1.1.4. Các biểu hiện 8
1.1.5.Nguyên nhân 10
1.2.Ổn định tiền tệ 11
1.2.1. Khái niệm 11
1.2.2. Các biện pháp ổn định tiền tệ 11
Chương II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 22
2.1.Tổng quan tình hình lạm phát của Việt Nam 22
2.1.1 Từ 1951 đến 1988 22
2.1.2 Từ 1988 đến nay 27
2.2 Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam 32
2.2.1 Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu 32
2.2.2Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế 35
Chương III. Giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 41
3.1 Dự báo về lạm phát Việt Nam trong thời gian tới 41
3.2. Định hướng 42
3.2.1. Định hướng chiến lược ở Việt Nam từ nay đến năm 2015 42
3.2.2 Định hướng tăng trưởng kinh tế GDP từ 2015-2020. Định hướng duy trì 43
3.3. Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 45
3.3.1 Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 45
3.3.2. Một số kiến nghị đối với chính phủ 50
Chương IV: Kết luận 54
Tài liệu tham khảo 55
55 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6689 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát tiền tệ ở Việt Nam giải pháp kiểm soát và kiềm chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại, không để ảnh hưởng xấu đến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán; cần có sự bàn bạc thống nhất giữa NHNN và Bộ Tài chính về mức độ và phương thức tài trợ thâm hụt ngân sách, nhất là phát hành trái phiếu Chính phủ.
Khi lạm phát đã xảy ra nặng nề và nghiêm trọng thì chính phủ của các nước phải tìm cách để chống lại lạm phát nhằm hồi phục sức mua của đồng tiền.Nói như vậy có nghĩa là việc tghực hiện các biện pháp ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ trở thành một trong những chính sách lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước.
Ổn định tiền tệ nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng là việc nhà nước áp dụng các biện pháp về kinh tế, tài chính, kỹ thuật để ổn định sức mua của đồng tiền tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong thời kỳ các nước công nghiệp phát triển gắn với chế độ bản vị vàng, ổn định tiền tệ là áp dụng các biện pháp để khôi phục lại quan hệ bình thường giữa tiền giấy so với vàng. Với mục tiêu đó, các nước đã từng áp dụng các biện pháp cải thiện như:
-Biện pháp loại bỏ tiền giấy không khả hoán (Annulation)
-Biện pháp khôi phục (Restoration)
-Biện pháp phá giá tiền tệ (Devaluation)
Trong thời đại hiện nay, trên danh nghĩa pháp lý, vàng không còn là cơ sở của lưu thông tiền tệ, không còn là cơ sở bảo đảm trực tiếp cho tiền giấy lưu thông trong nước nữa thì các biện pháp ổn định và kiềm chế lạm phát đã có sự thay đổi quan trọng. Ổn định tiền tệ ngày nay là ổn định sức mua của tiền giấy trên cơ sở ngăn chặn leo thang của giá cả hàng hóa bằng các giải quyết các vấn đề của mối quan hệ giữa tiền và hàng. Nhưng dù có áp dụng biện pháp gì đi nữa thì các mục tiêu cơ bản vẫn phải đạt được, nếu không thì chính sách tiền tệ và kiềm chế lạm phát sẽ không có đầy đủ ý nghĩa của nó. Những mục tiêu đó là ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm…Như vậy việc áp dụng các biện pháp đó có thể bao gồm các biện pháp có tính chất chiến lược cùng các biện pháp cấp bách trước mắt.
Những biện pháp cơ bản chiến lược
Biện pháp cơ bản chíến lược nhằm tác động đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền kinh tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh vào tiềm lực nền kinh tế của đất nước. Một quốc gia có nền kinh tế phát triển tốt và ổn định thì ở đó đồng tiền được ổn định vững chắc, lạm phát ít có cơ hội để phát triển bộc phát. Những biện pháp cơ bản chiến lược chưa thể phát huy tác dụng ngay, nhưng nếu không áp dụng biện pháp đó thì tình trạng lạm phát, tình trạng rối loạn của lưu thông tiền tệ sẽ xảy ra triền mien không lối thóat.
Những biện pháp cơ bản chiến lược có thể bao gồm những biện pháp như:
-Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn:
Ở Việt Nam, kể từ khi đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có điều tiết, đã có tác dụng rất to lớn.
-Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển ngành mũi nhọn:
Ổn định cơ cấu kinh tế nhằm đáp ứng được nhu cầu cơ bản về đời sống và việc làm của người lao động, do đó tùy hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia mà có những chiến lược điều chỉnh cơ cấu kinh tế khác nhau. Ở Việt Nam cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa, trước mắt nông-lâm-ngư nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng, phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ (ngân hàng-bưu điện-du lịch…)
Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo cho nền kinh tế phát triển mạnh và chắc chắn. Ngoài ra, còn phát triển ngành kinh tế mũi nhọn xuất khẩu, bởi vì trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế thì hoạt động ngoại thương nói chung và xuất khẩu nói riêng có vị trí quan trọng, nó vừa tạo ra nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia vừa tác động đến các hoạt động của các ngành kinh tế khác, ổn định lưu thông tiền tệ trong nước.
-Nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước:
Vai trò của Nhà nước đối với quản lý kinh tế rất to lớn.Nhà nước là nguời duy nhất đảm bảo tính công bằng và ổn định kinh tế, đồng thời Nhà nước có thể tác động thúc đẩy hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Bằng các công cụ về pháp luật, tài chính, giá cả, tiền tệ…đã tác động đến mọi mặt hoạt động của nền kinh tế xã hội, do đó việc nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước được coi như là biện pháp mang tính chiến lược để ổn định tiền tệ, tinh giảm biên chế, kiệm toàn bộ máy quản lý hành chính.
Những biện pháp cấp bách trước mắt
Biện pháp cấp bách trước mắt để ổn định tiền tệ và chống lại lạm phát được thực hiện trong hoàn cảnh lạm phát xảy ra nghiêm trọng, cơn sốt lạm phát cao thì có tác dụng nhưng chóng hơn.Những biện pháp như vậy được gọi là biện pháp tình thế để đối phó với thực trạng báo động của tình hình tiền tệ, giá cả.
-Biện pháp tiền tệ tín dụng: Xuất phát từ quan điểm cho rằng lạm phát bao giờ cũng là hiện tượng của tiền tệ, năm biện pháp ổn định tiền tệ và chống lạm phát phải bắt đầu từ lĩnh vực tiền tệ-tín dụng:
Quản lý chặt chẽ việc cung ứng tiền.
Quản lý và hạn chế thật mạnh khả năng “tạo tiền” của ngân hàng thương thương mại bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xiết chặt tín dụng.
Nâng cao lãi suất tín dụng để thu hút tiền mặt trong nền kinh tế-xã hội, làm giảm lượng tiền cung ứng, mặt khác, nâng cao lãi suất tín dụng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, phát hành tiền mới thu hồi tiền cũ, lập lại trật tự trong lưu thông tiền tệ.
-Biện pháp với tài chính ngân sách: áp dụng biện pháp về tài chính ngân sách có ý nghĩa quan trọng và then chốt, bởi vì người ta đều đồng ý rằng sau khủng hoảng của hệ thống tài chính Nhà Nước, ngân sách bị thâm hụt là nguyên nhân chính của lạm phát, do đó nếu dập tắt được nguyên nhân này thì tiền tệ sẽ ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Trước hết phải tìm cách để giảm dần bội chi tiền tạo thăng bằng thu chi ngân sách bằng cách tiết kiệm chi, nhất là những khoản chi cho bộ máy quản lý hành chính, những khoản chi chưa thật cấp thiết cũng cần phải cắt bớt hoặc giảm thiểu để làm giảm sự căng thẳng của ngân sách.
Tăng cường bồi dưỡng và mở rộng các khoản thu từ nền kinh tế, chống thất thu thuế, đồng thời phải thực hiện thu đúng, thu đủ, công bằng để không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống.
Sử dụng tín dụng nhà nước bằng cách vay trong nước và nước ngoài.
Trong nước phát hành trái khoán Nhà nước ngắn hạn, trung và dài hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ…Tăng các khoản vay và viện trợ từ bên ngoài với các điều kiện ưu đãi.
-Ngăn chặn sự leo thang của giá cả: Sự leo thang của giá cả do tác động bởi nhiều yếu tố như sản xuất xuất kém, cung cầu hàng hóa trên thị trường mất cân đối làm giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao, cũng có thể do lượng tiền cung ứng tăng cao hơn tố độ tăng của sản xuất, ngoài ra còn có yếu tố tâm lý, đầu cơ…
Việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự leo thang của giá cả trước hết cần phải giải quyết ở khâu lưu thông phân phối như thực hiện mậu dịch tự do, nới lỏng hàng rào thuế quan để đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa.
Có thể can thiệp bằng vàng và ngoại tệ bằng cách bán ra để ổn định giá vàng, giá ngoại tệ, từ đó tạo tâm lý ổn địn giá cả các loại mặt hàng khác. Mặt khác, quản lý thị trường tốt, chống buôn lậu, chống độc quyền, tranh mua tranh bán…
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
Tổng quan về tình hình lạm phát ở Việt Nam
2.1.1 Từ 1951 đến 1988
2.1.1.1. Từ 1951 đến 1976
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ tịch đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, nhưng chính phủ không quốc hữu hóa được Ngân hàng Đông Dương và cũng không thành lập mới được Ngân hàng cho chính quyền cách mạng.
Đến năm 1951 Ngân hàng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập.
Đến năm 1954 Hiệp định GENEVE chia Việt Nam thành hai vùng với hai chế độ chính trị và kinh tế khác nhau:
Kinh tế Việt Nam Cộng hòa
Chỉ giá chung của nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa tương đối ổn định trong thời kỳ trước 1965. Những năm 1957-1958 và 1960, chỉ giá chung không những không tăng mà còn giảm (hiện tượng giảm phát). Sang thời kỳ chiến tranh leo thang, chỉ giá chung của nền kinh tế cũng leo thang mà nguyên nhân là chính quyền phải phát hành tiền nhiều hơn để chi tiêu cho chiến tranh và để đổi cho quân đội Mỹ và đồng minh chiến đấu tại Việt Nam Cộng hòa. Trước xu hướng lạm phát tăng tốc, chính quyền đã triển khai một số biện pháp kìm chế, trong đó có biện pháp phá giá tiền tệ đồng thời đẩy mạnh bán ngoại tệ trong dự trữ ngoại hối nhà nước để có thể thu hồi được nhiều hơn số tiền trong lưu thông về ngân khố quốc gia (biện pháp ngày 17-6-1966), tăng thuế (biện pháp ngày 23-10-1969), tăng lãi suất ngân hàng và áp dụng chế độ tỷ giá song song (biện pháp ngày 5-10-1970).
Biểu đồ 2.1 Tỷ lệ lạm phát (%) ở VNCH (áp dụng riêng cho tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động). giai đoạn 1955-1973
Nguồn:
Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Sau khi thành lập Ngân hàng, Ngân hàng của Việt Nam Dân chủ cộng hòa hoạt độngc hủ yếu là nhằm phục vụ cho công cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc.Giai đoạn này được xem là giai đoạn không có lạm phát theo quan niệm chính thống của các nước Xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
2.1.1.2 Từ năm 1976 đến 1988
Là giai đoạn được coi là không có lạm phát theo quan niệm kinh tế chính trị phổ biến trong các nước xã hội chủ nghĩa đương thời và không được phản ánh trong các thống kê chính thức .Tuy nhiên, trên thực tế ở việt nam khi đó vẵn có lạm phát, thể hiện ỏ sự khan hiếm hàng hoá ,dịch vụ và sự giảm sút của chúng, đồng thời được hi nhận trong sự diễn biến gia tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường xã hội trên dưới 20% trên một năm và đó là lạm phát của nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế , nơi độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung dưỡng bởi các chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả các lĩnh vực. Vào thời kỳ này khu vực kinh tế nhà nước chiếm khoảng 85 - 87% vốn cố định, 95% lao động lành nghềmà chỉ tạo ra 30 – 37% tổng sản phẩm xã hội. Trong khi đó khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 13,2% sức lao động xã hội và suốt thời kỳ dài trước năm 1986 bị nhiều sức ép kiềm chế , song lại sản xuất ra tới 32 – 43% tổng sản phẩm xã hội và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất so với khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã.
Mặt khác lạm phát ở việt nam diễn ra trong suốt nền kinh tế đóng cửa phụ thuộc nhiều vào nguồn viện trợ bên ngoài.Trên thực tế , trước năm 1988 không có đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Các biên giới đều bị khép lại với chế độ xuất nhập cảnh cũng như lưu thông hàng hoá rất nghiêm ngặt, phiền phức .Cơ cấu chủ yếu có tính hướng nội ,khép kín ,thay thế hàng nhập khẩu và không khuyết khích xuất khẩu . Cùng với chính sách định hướng phát triển và đầu tư có nhiều bất cập , nên cơ cấu kinh tế Việt Nam bị mất cân đối và không hợp lý nghiêm trọng giữa công nghiệp – nông nghiệp , công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, nhất là ngành sản xuất hàng tiêu dùng , giữa sản xuất – dịch vụ .
Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ, tăng chi phí sản xuất, thiếu hụt ngân sách thiền miên , tăng mức cung tiền không tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ…và do đó gây ra lạm phát .
Biểu đồ 2.2 Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1976 - 1986
Nguồn:
Để thực hiện chính sách cai cách giá-lương-tiền của chính phủ ban hành ở quí III năm 1985, Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam đã tiến hành đổi tiền tháng 9 năm 1985, việc thu đổi tiền tệ nhằm thực hiện cơ chế cải cách giá-lương-tiền và giảm thiểu tỷ lệ lạm phát đang trên đà leo thang ỏ mức phi mã. Nhưng kết quả của công cuộc đổi tiền lại không như dự kiến và gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát sau khi đổi tiền lại tăng lên tới mức 3 con số vào năm 1986
Vào đầu những năm đổi mới 1986-1988, có sự đổi mới về cơ cấu tổ chức Ngân Hàng và Tài Chính nhưng chưa có hệ thống luật pháp chặt chẽ quy định các hoạt động Tài Chính-Ngân Hàng. Tiền tệ tiếp tục mất giá nhanh. lạm phát vẫn ở mức 3 con số (năm 1986 là 774,7%; năm 1987 là 323,1%, năm 1988 là 393%), các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn. Nạn sốt giá, nhất là giá vàng vào quý I/1989 tăng gấp 3,2 lần so với đầu năm 1988 (5 triệu đồng/lạng đầu năm 1989 so với 1,6 triệu đồng/lạng năm 1988). Hiện tượng nhập lậu và ế thừa hàng hoá cũng đã xuất hiện ngay trong điều kiện lạm phát. Người nông dân, công nhân càng sản xuất càng lỗ, người gửi tiết kiệm từ những năm 1986, 1987, 1988 nếu rút ra vào các năm sau tương ứng thì cộng cả gốc và lãi cũng không có ý nghĩa gì đáng kể về “hiệu quả” tiết kiệm! Trong dân gian vào những năm đó đã từng có câu châm ngôn: “Bán trâu tậu gà” - nghĩa là ai đó bán 1 con trâu đi để gửi tiết kiệm vào ngân hàng thì 1 năm sau rút ra cả gốc và lãi chỉ còn đủ để tậu 1 con gà!
Một đặc điểm làm cho thị trường bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng là việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với hầu hết những mặt hàng bao cấp hiện vật bằng tem phiếu định lượng trong thời kỳ trước, tạo ra mặt bằng giá chung mới cao hơn nhiều.
Đến năm 1987 do thiên tai, sản lượng lương thực cuối năm giảm 3,5% và đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc bị đói, giá cả lên cao, lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn. .Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hoá , lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%
Biểu đồ 2.3 tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1984-1988
Nguồn: wi.wikipedia.org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam
2.1.2 Từ 1988 đến nay
2.1.2.1 Giai đoạn 1988-1992
Đầu năm 1988 một số địa phương miền Bắc lạm phát chi phí đẩy lại tiếp diễn. Đứng trước tình hình đó, dân chúng tích trữ hàng hoá , lương thực, vàng và đô la càng nhièu vì lo sợ rằng đồng Việt Nam sẽ còn mất giá tạo nên cầu giả tạo, giá cả tăng cao dẫn đến lạm phát cầu kéo, với tỉ lệ lạm phát là 223,1%, mức tăng trưởng GDP chỉ là 3,78%.
Chúng ta thấy tình hình kinh tế của nước ta từ năm 1988 đã có những bước khả quan hơn, lạm phát đã giảm từ mức siêu lạm phát xuống còn hai chữ số, đặc biệt từ năm 1992 giảm xuống 17,6% và đến năm 1993 tỉ lệ lạm phát giảm xuống một chữ số là 5,2%. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp tương đối có hiệu quả để kiềm chế và kiểm soát lạm phát cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Từ năm 1989 đến năm 1991, lạm phát tuy có giảm nhưng vẫn còn khá cao với mức tăng 67% liên tiếp trong hai năm 1990 và 1991, phải từ năm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995. Bắt đầu từ năm 1991, thâm hụt ngân sách được trang trải bằng cách phát hành trái phiếu thay vì in thêm tiền như trước đây. Vì thế, mức cung ứng tiền giảm xuống, lạm phát cũng giảm đi. Năm 1992 tỉ lệ lạm phát chỉ là 17,6% so với năm 1991, đặc biệt là năm 1993 chỉ còn lại là 5,2%.
Bảng 2.1 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1988-1992 ở Việt Nam
Năm
1988
1989
1990
1991
1992
Lạm phát(%)
394
34,7
67,4
67,6
17,6
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.
Biểu đồ 2.4
Nguồn :
2.1.2.2 Giai đoạn 1993-2002
Trong năm 1993 , mặc dù lạm phát đã giảm xuống một chữ số nhưng những tiến bộ vượt bậc đó đã không thể duy trì được và củng cố bằng những chính sách tài chính và chính sách tiền tệ thận trọng nên đén năm 1994 tỉ lệ lạm phát lại tăng lên mức 14,4%.
Cuộc khủng hoảng tài chính -tiền tệ Châu Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 làm cho nước ta chịu sức ép ngày càng tăng. Kinh tế trải qua hiện tượng giảm giá liên tục, sức mua giảm sút, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, tỉ lệ thất nghiệp ra tăng ... Một trong những biểu hiện của sự suy giảm nền kinh tế là hiện tượng giảm phát.
Năm 1999 giá cả thị trưòng có nhiều diễn biến bất thường : giá cả liên tục giảm trong 8 tháng liền, từ tháng 3 đến tháng 12. Đặc biệt tháng 10 năm 1999 CPI giảm 0,8% so với tháng 12 năm 1998. Chỉ số giá lương thực tháng 10 năm 1999 sút giảm 10,5% so với tháng 12 năm 1998 , sự sụt giảm giá lương thực làm cho CPI chung hầu như không tăng.
+ Năm 2000, CPI cả năm giảm 0,6% so với năm 1999.
+ Sáu tháng đầu năm 2001 CPI vẫn giảm , CPI tháng 6/2001 giảm 0,3% so với tháng 6/2000 và giảm 0,7% so với tháng 12/2000. CPI giảm liên tục trong 3 tháng liên tiếp,tháng 3 giảm 0,7%, tháng 4 giảm 0,5%, tháng 5 giảm 0,2%. Kết quả là đến cuối năm 2001 nhờ nhiều nỗ lực , chúng ta đã đẩy được tỉ lệ lạm phát lên 0,8%.
Từ năm 1990 đến năm 2003 lạm phát được cải thiện, tỷ lệ lạm phát giảm thấp, CPI ở mức một con số và đạt mức độ mong đợi của Chính Phủ Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn 1993-2003.
Bảng 2.2 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1993-2003 ở Việt Nam
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Lạm phát (%)
5,3
14,4
12,5
4,5
4,0
9,1
1,8
1,0
0,8
4,0
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.
sss Biểu đồ 2.5
Nguồn :
2.1.2.3 Giai đoạn 2002 đến nay
Tình hình kinh tế năm 2002 có nhiều sự khởi sắc mới , nhờ có sự cố gắng , nỗ lực của các nghành, các cấp năm 2002 chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế .
Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng nước ta vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,04%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai trong khu vực Á chỉ sau có Trung Quốc(8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Lạm phát trong năm 2002 là 4%, một tỉ lệ lạm phát chấp nhận được mặc dù cao hơn so với mục tiêu 35 của chúng ta đã đề ra.
Tình hình giá cả đầu năm 2002 của chúng ta đã tăng lên tương đối nhanh, 6 tháng đầu năm giá cả đã tăng 2,9%, khi đó rất nhiều nhà kinh tế đã lo ngại rằng nếu chúng ta không kiểm soát được lạm phát thì rất có thể tỉ lệ lạm phát của nước ta sẽ lên tới 6%. Trước tình hình đó nhà nước đã có những chính sách nhằm ổn định giá cả trên thị trưòng một cách hợp lý , nhờ đó đến cuối năm tỉ lệ lạm phát của chúng ta chỉ là 4%.
Trước tình hình đó, nguy cơ giá cả tăng cao rất dễ xảy ra, thực tế trong hai tháng đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%,vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đã đề ra là tỉ lệ lạm phát không quá 5%.
Hai tháng đầu năm 2003 giá cả các mặt hàng của chúng ta đã tăng 3%,vì vậy có nhiều người lo ngại là chúng ta không thể đạt được mục tiêu về lạm phát đã đề ra là tỉ lệ lạm phát không quá 5%.
Bảng 2.3 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 2004-2011 ở Việt Nam
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Lạm phát(%)
3,0
9,5
8,4
6,6
12,63
19,9
6,5
11,75
Dự báo 19
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.
Biểu đồ 2.6
Nguồn :
2.2 .Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam
2.2.1 Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các nước “mới nổi” ở khu vực Châu Á , nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng. Như vậy, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95% kể từ đầu năm 2007 đến tháng 3/2008 và đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước tới nay.
Biểu đồ 2.7
Nguồn :
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng: xuất phát từ quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh diễn ra liên tiếp, cùng với những năm tăng trưởng kinh tế mạnh trên thế giới – là những năm quá trình công nghiệp hoá được đẩy mạnh khiến diện tích đất sử dụng cho trồng trọt, chăn nuôi bị thu hẹp. Tất cả những điều trên làm sản lượng lương thực – thực phẩm ngày càng giảm mạnh. Ngoài ra, giá năng lượng tăng cao đã khiến nhiều nước sử dụng một sản lượng lớn ngũ cốc chuyển sang sản xuất nhiên liệu sinh học càng làm cho nguồn cung lương thực đã giảm càng giảm sút.
Biểu đồ 2.8 Giá một số mặt hàng thực phẩm tháng 7/2010 và tháng 6 năm 2011.
Nguồn số liệu: Cục Thống kê Hà Nội
Thứ ba: Một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu: Trước việc giá dầu và giá lương thực – thực phẩm liên tục leo thang đã tạo nên cú sốc cung rất lớn đẩy lạm phát toàn cầu tăng cao, tình hình này đã buộc các NHTW phải tăng các mức lãi suất chủ chốt để kiềm chế lạm phát, cụ thể: Nhật Bản tăng 1 lần từ 0,25%- 0,5%/năm; khu vực đồng Euro tăng 2 lần từ 3,5%-3,75%-4,0%/năm; Anh tăng 3 lần từ 5%-5,5%/năm (trong đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm.
Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực – thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao.
Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác?
2.2.2 Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu – là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất.
Bảng 2.4 Cán cân thương mại của Việt Nam và các nước trong khu vực
Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu, nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao.
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá lương thực, thực phẩm thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng mạnh
Thứ ba: Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%.
Bảng 2.5 Tăng trưởng cung tiền tệ Việt Nam và các nước trong khu vực
Nguồn: IMF Financial Data Statistics và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai tieu luan chinh thuc lttctt.docx