MỤC LỤC
A.Lời mở đầu 1
B. NộI dung 2
I. Cơ sở lý luận 2
1. Lý luận chung về lạm phát 2
1.1. Thế nào là lạm phát: 2
1.2. Quan điểm của các trường phái khác nhau về lạm phát: 2
1.3. Thước đo của lạm phát. 2
1.4. Hậu quả của lạm phát: 2
2. Lạm phát vớI các biến số vĩ mô trong nền kinh tế: 2
2.1. Lạm phát và tăng trưởng: 2
2.2. Lạm phát vớI đầu tư và thu chi ngân sách nhà nước: 2
2.3. Lạm phát vớI việc làm: 2
2.4. Lạm phát vớI sản xuất và thương mạI: 2
2.5. Lạm phát vớI lãi suất: 2
2.6. Lạm phát vớI tín dụng: 2
2.7. Lạm phát vớI tỷ giá hốI đoái: 2
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát : 2
II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 2
1.Tổng quan lạm phát ở Việt Nam 2
1.1.ThờI kỳ trước đổI mớI (trước 1986) 2
1.2. ThờI kỳ bắt đầu đổI mớI: 2
1.3. Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định (1990-1995) 2
1.4. ThờI kỳ kinh tế có dấu hiệu trì trệ: (1996-2000). 2
1.5. ThờI kỳ kinh tế có bước phát triển mớI (2001-2005). 2
2.Những thành tựu Việt Nam đạt được trong kiềm chế lạm phát 2
3. Lạm phát ở Việt Nam hiện nay 2
3.1.Tình hình lạm phát: 2
3.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát: 2
III.GiảI pháp và kiến nghị để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay 2
1 Giải pháp 2
1.1.Những vấn đề chung 2
1.2. ĐổI mớI và điều hành linh hoạt các công cụ của chính sách tài chính tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay. 2
1.3. Các chính sách tài khoá. 2
1.4. Các giảI pháp thương mại. 2
1.5. Phấn đấu từng bước ổn định đồng tiền, củng cố sức mua của đồng tiền, thực hiện kinh doanh tiền tệ có hiệu quả. 2
1.6. Các giảI pháp khác. 2
2. Kiến nghị 2
C. Kết luận 2
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12890 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát và các giảI pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang thu nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm từ lợI nhuận cao hơn, tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Mức đầu tư và tiết kiệm sẽ tăng lên. Kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế.
Còn khi lạm phát ở mức cao và luôn biến đổI thì đầu tư khu vực ngoài quốc doanh sẽ dồn sang đầu tư thu lợI nhuận nhanh và giảm đầu tư dài hạn. Do đó, chất lượng đầu tư giảm sút. Hơn nữa, khi lạm phát cao một mặt, vốn trong nước dư thừa nhưng ít có đầu tư dài hạn vì rủI ro lớn. Mặt khác, vốn ngoài nước sẽ khan hiếm do không có đầu tư nước ngoài lạI mạo hiểm đầu tư vào. Đồng thờI, sự mất giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ gia hốI đoái tăng, trong khi nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm dẫn đến làm cán cân thương mạI bị thâm hụt trầm trọng. Kết quả làm cho nền kinh tế bị rốI loạn làm cho tăng trưởng kinh tế giảm sút.
Đồng thờI, nếu lạm phát quá thấp: Ở mức bằng không hoặc âm và kéo dài thì nguy cơ tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp cũng có thể xảy ra, dẫn đến trì trệ của nền kinh tế. BởI vì, khi lạm phát xuống quá thấp thì tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lạI và thất nghiệp có thể tăng ở các nước đang phát triển, nếu lạm phát xuống thấp thì biểu hiện dấu hiệu cắt giảm chi tiêu, thắt chặt tiền tệ, làm vốn đầu tư hạn chế, nên các nhà sản xuất khó có thể đầu tư mở rộng năng lực sản xuất và cuốI cùng khi năng lực sản xuất không tăng, sản xuất đình đốn thì tăng trưởng của nền kinh tế cũng giảm theo và đây là thờI kỳ nền kinh tế trì trệ, thụt lùi.
2.2. Lạm phát vớI đầu tư và thu chi ngân sách nhà nước:
Ở trên chúng ta đã nói về những nguyên nhân chung gây ra lạm phát. Vì thế, khi xét mốI quan hệ giữa lạm phát vớI đầu tư và thu chi ngân sách nhà nước chúng ta sẽ hiểu hơn một phần nào căn nguyên gây ra lạm phát.
Trước hết, xét mốI quan hệ đầu tư và lạm phát: Đầu tư và lạm phát có mốI quan hệ khăng khít vớI nhau. Nếu không tăng đầu tư sẽ dẫn đến tăng trưởng kinh tế chậm và tỷ lệ lạm phát cũng giảm. Việc đầu tư nó tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Khi đầu tư kém thì việc mở rộng năng lực sản xuất kém dẫn đến nền kinh tế tăng trưởng kém. Còn nếu tăng đầu tư qúa mức và nếu đầu tư không hiệu quả thì cũng dễ dẫn đến lạm phát.
Một trong những yếu tố để khuyến khích đầu tư phát triển là sự ổn định nền kinh tế. Mặt khác, ta cũng thấy rằng: Nguồn đầu tư lớn đó là thu ngân sách nhà nước. Vì trong cơ cấu chi ngân sách nhà nước thì đầu tư tăng chiếm tỷ trọng lớn. Vậy, thu chi ngân sách nhà nước tác động đến đầu tư và cũng tác động đến lạm phát. Vì thế, ngân sách nhà nước có mốI quan hệ nhân quả vớI lạm phát. Nếu thâm hụt ngân sách nhà nước quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao, để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước thì thường thực hiện việc phát hành tiền. Mà việc bơm vào lưu thông một lượng tiền lớn thì đó là yếu tố dẫn đến lạm phát. Còn ngược lạI, nếu thắt chặt chi tiêu ngân sách nhà nước tránh thâm hụt thì có thể dẫn đến thiểu phát và không giảI quyết được các vấn đề xã hộI cần thiết. Còn nếu tăng chi ngân sách nhà nước để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư tăng và tăng đầu tư phát triển dẫn đến tăng trưởng cao. Nếu chi quá mức dẫn đến thâm hụt trở lạI vòng luẩn quẩn trên. Do vậy, cần chi tiêu ngân sách nhà nước một cách hiệu quả và phù hợp để đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp.
2.3. Lạm phát vớI việc làm:
Một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trong mà đa số chính phủ các nước theo đuổI cũng thường gây nên lạm phát, đó là mục tiêu công ăn việc làm cao. Như chúng ta đã biết: Sức lao động là hàng hoá thì thất nghiệp là một căn bệnh kinh niên. Và để đạt được mục tiêu trên thì chính sách tiền tệ hướng vào tác động đến đầu tư sản xuất, mở rộng hoạt động kinh tế, chống suy thoái để đạt được mức tăng trưởng ổn định. Khi xem xét tổng quát thì giữa lạm phát, tăng trưởng kinh tế, và việc làm có mốI quan hệ tỷ lệ nghịch. Đó là:
- Khi khống chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế giảm, dễ dẫn đến suy thoái và thất nghiệp
- Ngược lạI, khi mở rộng đầu tư, khắc phục suy thoái, tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế thì lạI khó khống chế lạm phát.
Các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng nền kinh tế thị trường luôn có những thăng trầm, biến động mang tính chu kỳ của nó: Từ tăng trưởng kinh tế quá mức đến lạm phát, rồI từ lạm phát nền kinh tế dễ rơi vào ngưng trệ, rồI suy thoái, rồI lạI phục hưng và phục hưng lạI trở nên tăng trưởng mạnh.
Vì thế, vấn đề đặt ra đốI vớI từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ phảI tìm giảI pháp để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà được các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nhà nước.
2.4. Lạm phát vớI sản xuất và thương mạI:
Như đã phân tích ở mục trên, một trong những nguyên nhân chung gây ra lạm phát là: Mất cân đốI giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá. Mà nguyên nhân gây ra mất cân đốI đó là quá trình sản xuất và lưu thông. Đồng thờI, lạm phát nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất và thương mại. Vì thế, lạm phát với sản xuất và thương mạI có mốI quan hệ chặt chẽ.
Khi sản xuất trì trệ có hai khả năng: Lạm phát cao hoặc thiểu phát, bởi lẽ lúc này mất cần bằng trầm trọng giữa cung cầu. Cầu cao hơn cung dẫn đến lạm phát, cầu thấp hơn cung gây ra bảo hoà và thiểu phát. Đồng thời, khi sản xuất trì trệ nó tác động trực tiếp đến thu ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, thì khi hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là xuất khẩu làm cho nền kinh tế lành mạnh và tăng trưởng tốt, đưa đến nền kinh tế ổn định và giúp làm cho tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức chấp nhận được. Còn khi nền kinh tế chủ yếu nhập khẩu thì sẽ làm thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế dẫn đến lạm phát.
Tóm lạI, để khống chế được lạm phát ở mức hợp lý và hạn chế được thiểu phát thì phảI đẩy mạnh sản xuất đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm. BởI vì nó chiếm tỷ trọng lớn trong chỉ số giá tiêu dùng.
2.5. Lạm phát vớI lãi suất:
Như chúng ta đã biết, lãi suất là giá tiền tệ, lạm phát là sự mất giá của tiền tệ. Vì thế, khi sử dụng đồng tiền một thờI gian nhất định nào đó phảI cho ngườI ta nhận được lợI nhuận tính theo đồng tiền tức là lãi suất trừ đi lạm phát phảI là con số dương nào đó thì mớI có thể nói sử dụng đồng tiền có hiệu quả. Nói cách khác, lãi suất dương là sự bảo toàn giá trị đồng tiền và lãi suất dương là giá thực tế của đồng tiền. Khi lãi suất thấp, tương ứng vớI chính sách tiền tệ mở rộng. Theo hướng này, chính sách tiền tệ nhằm tăng lượng cung tiền, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Khi đó tổng cung tiền tệ cao hơn tổng cầu tiền tệ, và tổng cầu hàng hoá dịch vụ tăng lên, dẫn đến tổng cung hàng hoá thấp hơn tổng cầu. Kết quả này làm giá cả hàng hoá dịch vụ tăng vọt và nếu tiến trình này đồng loạt xảy ra thì kéo theo lạm phát.
Còn khi lãi suất tăng lên thì đồng nghĩa vớI việc đồng tiền được coi trọng hơn hay tổng cung tiền tệ thấp hơn tổng cầu tiền tệ. Nhưng nếu lãi suất tăng quá cao thì hiệu quả hay lợI nhuận do đồng tiền tạo ra sẽ thấp đi và nhu cầu sử dụng đồng tiền sẽ giảm. Và ít ngườI muốn đầu tư. Nó được sử dụng là công cụ chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu chống lạm phát và khắc phục tình trạng ”quá nóng” của nền kinh tế.
2.6. Lạm phát vớI tín dụng:
Trong mốI quan hệ này, cái mà chúng ta quan tâm là vấn đề tăng cung tiền là tác nhân quan trọng gây nên lạm phát. Khi cung ứng tiền tệ tăng, tức là tổng phương diện thanh toán tăng lên do nhà nước phát hành thêm tiền và do hệ số tạo tiền tăng lên. Thực tế, tiền cung ứng tăng lên sẽ dẫn đến tăng tín dụng cho nền kinh tế, tăng cho vay chính phủ nên làm tổng phương diện thanh toán tăng lên. Mà khi tổng phương diện thanh toán tăng mà không có hàng hoá và dịch vụ tăng lên tương thích thì đưa đến cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ, kết quả của vấn đề này là giá cả tăng lên và dẫn đến lạm phát.
Đồng thờI, hạn mức tín dụng là mức dư nợ tốI đa mà ngân hàng nhà nước buộc các ngân hàng thương mạI phảI tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Nó được sử dụng là một công cụ điều tiết trực tiếp lượng tiền cung ứng. Và nó thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng.
2.7. Lạm phát vớI tỷ giá hốI đoái:
Khi nghiên cứu các chính sách kinh tế mà nhà nước đã điều hành và sử dụng trong hơn 20 năm đổI mớI của đất nước, thì có thể nói việc điều hành, cảI cách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là một thành công lớn, vì nó phù hợp với quá trình cảI cách nền kinh tế nói chung và quá trình cảI cách nền tài chính tiền tệ nói riêng. Chính sách tỷ giá hối đoái đã góp phần kiềm chế lạm phát , thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cảI thiện cán cân thanh toán quốc tế, góp phần loạI trừ tách động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á.
Lạm phát và tỷ giá có quan hệ vớI nhau, nhưng là quan hệ gián tiếp có độ trễ nhất định, cho nên sự thay đổI của lạm phát chưa gây tác động đến tỷ giá hối đoái và ngược lại. Tuy nhiên, khi đồng tiền mất giá (Tỷ giá cao), thì giá cả hàng hoá tăng, giá hàng nhập tăng dẫn đến lạm phát tăng lên. Ngược lạI, khi lạm phát tăng cao, đồng tiền nộI tệ mất giá so vớI hành hóa trong nước thì đưa đến đồng tiền nộI tệ cũng giảm giá so vớI ngoạI tệ dẫn đến tỷ giá tăng cao lên.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát :
Qua phân tích và nghiên cứu ở trên, chúng ta đã thấy được phần nào những nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát. Sau đây là tổng hợp giúp ngườI đọc có cái nhìn tổng quan hơn về những nguyên nhân gây nên lạm phát .
Cung ứng tiền tệ và lạm phát:
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc trường phái tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài sẽ làm cho giá cả tăng kéo dài và gây ra lạm phát.
Chỉ tiêu công ăn việc làm cao và lạm phát:
Có hai loạI lạm phát là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao, đó là: Lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo.
- Lạm phát chi phí đẩy: Xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên. Chúng ta sử dụng mô hình đường tổng cung và tổng cầu để giảI thích.
Tổng mức giá
Lúc đầu, nền kinh tế ở tạI điểm 1, giao của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1, vớI mức sản lượng tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Do muốn cuộc sống được nâng cao, những ngườI công nhân đòi tăng lương dẫn đến đường tổng cung AS1 dịch chuyển đến AS2 dẫn đến nền kinh tế ở điểm 1’ (giao của AS2 và AD1), sản lượng giảm dướI mức sản lượng tự nhiên Y’, thất nghiệp cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên, giá tăng P1’. Vì mục tiêu duy trì công ăn việc làm cao, chính phủ sẽ thực hiện các chính sách điều chỉnh năng động nhằm tác động lên tổng cầu, dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Nền kinh tế trở lạI mức sản lượng tự nhiên và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, giá cân bằng mới P2. Nếu giá cả tiếp tục như vậy, sẽ dẫn đến tăng liên tục của mức giá cả. Đây chính là tình trạng lạm phát chi phí đẩy.
AS2
1'
AS1
P'1
P2
P1
1
AD2
AD1
Yn
Y'
Tổng sản phẩm
Lạm phát phí đẩy
- Lạm phát cầu kéo: Nếu các nhà hoạch định chính sách sẽ hoạch định và theo đuổI một tỷ lệ thất nghiệp dướI mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Để đạt được mục tiêu này thì phảI đưa ra những biện pháp tác động làm tăng tổng cầu, tức làm đường tổng cầu dịch chuyển đến AD2, nền kinh tế ở giao điểm mớI (AD2 và AS1) vớI mức giá P’2 >P1, cũng như ở trên dẫn đến thất nghiệp.
Thâm hụt ngân sách và lạm phát:
Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có thể khắc phục bằng việc phát hành trái phiếu ra công chúng, nếu sử dụng biện pháp này sẽ ko dẫn đến lạm phát. Còn nếu chính phủ bù đắp thâm hụt ngân sách bằng việc phát hành tiền, thì nó tiếp tục làm tăng thêm cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ dẫn đến làm tăng tỷ lệ lạm phát.
Lạm phát theo tỷ giá hối đoái:
Khi tỷ giá tăng, đồng nộI tệ mất giá, trước hết nó tác động lên tâm lý của những ngườI sản xuất trong nước, muốn kéo giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá dẫn đến lạm phát.
Đồng thờI, khi tỷ giá tăng, giá nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu tăng cao, giá bán hàng hoá tăng theo để bù đắp chi phí và có lợI nhuận.
Tóm lạI, có rất nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, trên đây là những nguyên nhân chính, thường tồn tạI ở các nước phát triển.
II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
1.Tổng quan lạm phát ở Việt Nam
Nền kinh tế nước ta đã trảI qua nhiều bước thăng trầm từ khủng hoảng trầm trọng vớI tăng trưởng kinh tế thấp, đờI sống nhân dân khó khăn, tỷ lệ lạm phát phi mã, rồI lạI đứng trước nguy cơ tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước trên thế giớI và trong khu vực vớI tăng trưởng kinh tế chậm có nguy cơ suy thoái, rồI lạI đến thờI kỳ phục hưng, phát triển vớI mức tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát ở mức vừa phải. Ứng vớI mỗI giai đoạn phát triển, từng bốI cảnh cụ thể là từng giai đoạn diễn biến khác nhau của lạm phát, và ứng vớI nó là những nguyên nhân khác nhau. Vì thế, cần phảI xác định rõ nguyên nhân cũng như các lý thuyết trọng tâm để khống chế và đẩy lùi lạm phát. Để có cái nhìn tổng quan vê lạm phát, cũng như hiểu rõ nó, ta chia lạm phát theo từng thờI kỳ ứng vớI những đặc điểm của nó.
1.1.ThờI kỳ trước đổI mớI (trước 1986)
Trước đổI mớI, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, nên vấn đề giá cả chưa chịu tác động của qui luật thị trường, mà được định ra theo những mệnh lệnh và những qui định, do vậy lạm phát chưa xuất hiện. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn 1976-1985 nền kinh tế đã có nhiều dấu hiệu suy thoái, khủng hoảng và lạm phát, sản xuất đình đốn, kinh doanh kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, đờI sống của ngườI dân giảm sút, giá cả thị trường chính thức và giá cả chợ đen có khoảng cách khá xa. Sản xuât nông nghiệp bình quân tăng 3,8%/năm, công nghiệp cũng chỉ tăng 5,2%/năm.
Dịch vụ hầu như không phát triển, xuất khẩu thì vớI số lượng nhỏ bé chỉ đạt khoảng 746 triệu USD năm 1985, thâm hụt cán cân thương mạI lớn 844 triệu USD trong năm 1985, BộI chi ngân hàng nhà nước năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% GDP. Đây là tình trạng đất nước làm không đủ ăn, tình hình kinh tế xã hộI vô cùng khó khăn.
1.2. ThờI kỳ bắt đầu đổI mớI:
Trước tình hình kinh tế, xã hộI rốI ren, không lốI thoát. VớI cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, điều chỉnh bằng những mệnh lệnh và qui định càng làm cho nền kinh tế. xã hộI đi vào khủng hoảng. Vì thế, sau khi ĐạI hộI Đảng lần thứ VI, thì Đảng ta đề ra đường lốI đổI mớI: Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hộI, kinh tế tăng trưởng chậm vớI và không ổn định, bình quân thờI kỳ 1986-1990, công nghiệp tăng 6,2%, và tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 3,9%, trong khi dân số tăng 2,3%. Ở giai đoạn này, hầu hết các cân đốI lớn đều căng thẳng , thâm hụt ngân sách nhà nước ở mức độ 8% so vớI GDP, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt ở mức thấp và chỉ bằng 54% kim ngạch nhập khẩu, Năm 1986, kim ngạch xuất khẩu đạt 494 triệu USD, đến năm 1990 cũng chỉ đạt 1731 triệu USD. Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến hiện tượng lạm phát phi mã vớI mức đỉnh điểm là 774,7 vào năm 1986, 223,1% (1987) và 393,8% vào năm 1988.
Ở giai đoạn này, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác, song hiện tượng siêu lạm phát ở Việt Nam thờI kỳ này gắn chặt vớI sự gia tăng kỷ lục về tốc độ tăng trưởng lượng tiền trong lưu thông (CU)tương ưng là 272,7% năm 1987 và 399,55năm 1988,cũng như là sự gia tăng quá mức của tăng trưởng cung tiền mở rộng M2 tương ứng là 320,5% năm1987 và gần 445,45năm1988cho tiến hành bù đắp thăm hụt ngân sách nhà nước sách nhà nước bằng cách phát hành tiền.Trên thực tế,co khoảng 63% tổng mức thâm hụtcán cân ngân sách nhà nước sách nhà nước được bù đắp dướI dạng phát hành tiền mặt qua ngân sách nhà nước hàng thương mại.Không nhưng thế, tốc độ lưu thông tiền tệ(v) trong nền kinh tế cũng cao kỷ lục, đạt mức 6,09 lần và 6 lần trong 2 năm liên tiếp 1987 va 1988.Mức tín dụng cũng trong tình trạng quá nóng vớI tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt 429% và 394,9% trong năm 1987 và 1988.
Hầu hết tín dụng trong nước ở thờI kỳ này đều dành phân bổ cho các doanh nghiệp quốc doanh vớI hậu quả đầu tư thấp,năng suất không cao.
Cũng trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam không chỉ chứng kiến hiện tượng lạm phát phi mã. Mà còn ghi nhận sự thàng công trong việc chống và kiềm chế lạm phát xuống mức 34,7%vào năm 1989. Để đốI phó vớI tình hình này , nhiều chương trình và chính sách cảI cách đã được tiến hành vớI các mức độ ảnh hưởng khác nhau tớI việc chống lạm phát. Đặc biệt là cảI cách trong hệ thống ngân hàng, giữa năm 1988, hệ thống ngân hàng Việt Nam được hình thành hai cấp, tách biệt giữa việc quản lý và kinh doanh tiền tệ, chính điều này đã hạn chế đáng kể mức cung ứng tín dụng nóng cho các doanh nghiệp nhà nước theo kiểu kế hoạch chỉ tiêu rót trước và tốc độ tăng trưởng tín dụng trong nước đã được kiểm chế tụt xuống chỉ còn khoảng gần 155,1%. Đồng thờI, ngân hàng nhà nước cũng điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt dần và tăng mạnh lãi suất tiền gửI tiết kiệm bảo đảm bằng vàng theo nghị định số 59/CT ngày 10/3/1989, và quyết định số 39/HĐBT ngày 10/4/1989 nhằm thu bớt lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền nhàn rỗI dân cư, góp phần đáng kể vào giảm tốc độ tăng trưởng của lượng tiền mặt trong lưu thông xuống còn 129,69% năm 1989…Thêm vào đó, ngân hàng nhà nước chủ trương phá giá mạnh đồng nộI tệ từ tháng 3 năm 1989 và đính chính tỷ giá theo sát tín hiệu thị trường.
Nhờ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt dần mà tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn khoảng 34,7% năm 1989. Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đều tăng dần. Đồng thời, mở ra một thời kỳ mới cho nền kinh tế Việt Nam: Thời kỳ ổn định và phát triển.
1.3. Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định (1990-1995)
Bước sang giai đoạn từ 1991-1995, tình hình kinh tế xã hộI nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế bước đầu vượt qua khủng hoảng để đi vào thế ổn định. Tổng sản phẩm trong nước thờI kỳ này bình quân tăng 8,2%/ năm, tăng dần theo các năm 1991 là 6%, năm 1993 là 8,1% và năm 1995 là 9,5%, sản lượng lương thực thực phẩm hàng năm tăng 4%, là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giớI, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là khoảng 13%…Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đờI sống của nhân dân.
Đây được đánh giá là giai đoạn thành công trong việc tăng trưởng kinh tế đi đôi với kiểm soát lạm phát. Lạm phát bước đầu đã được ngăn chặn, chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,1% năm 1990 xuống 12,7% năm 1995.
Mặc dù chỉ số giá vẫn còn mức hai con số, nhưng đây là chỉ số nhỏ bé so vớI các năm trước đó, tình hình kinh tế khởI sắc, đời sống của nhân dân ngày càng được cảI thiện, tăng sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Để có được thành công đó, ở thời kỳ này khi đã có sự nhận thức về những nguyên nhân gây nên lạm phát như: Sản xuất chậm phát triển, cơ cấu kinh tế không hiệu quả. Thì hàng loạt biện pháp đổI mới mạnh bạo hơn đã được áp dụng và bước đầu đi vào cuộc sống. Đặc biệt, đáng chú ý là các chính sách kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, như chính sách tiền tệ thắt chặt trong giai đoạn này khá hiệu quả vớI mục tiêu chống và kiềm chế lạm phát.Và kể từ tháng 6/1992,chính sách lãi suất được điều chỉnh lạI nhằm bảo đảm lãi suất thực dương,và chính sự điều chỉnh này đã giúp thu hút đáng kể lượng tiền mặt trong lưu thông.Bên cạnh đó,việc hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp và thực sự đi vào hoạt động từ năm1992,điều này đã góp phần quan trọng vào quyết định giảm dần và tiến tớI chấm dứt viêc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước vào năm 1993 của ngân hàng nhà nước. Đồng thờI, gia tăng hoạt động tín dụng cho các khu vực khác ngoài khu vực các doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là đã gia tăng từ mức 65,53% từ 1991 lên tớI 177,91% năm 1993. Đây được xem là khu vực năng động, có hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và tỷ suất sinh lờI khá trong cơ chế thị trường.
1.4. ThờI kỳ kinh tế có dấu hiệu trì trệ: (1996-2000).
Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế xã hộI đã đi vào thế ổn định và phát triển, đây là giai đoạn được xác định là bước rất quan trọng của thờI kỳ phát triển mớI- đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đạI hoá đất nước (CNH-HĐH). Đây là giai đoạn mà có sự kế thừa những thành quả đã đạt được trong giai đoạn trước, tình hình kinh tế xã hộI tiếp tục có những chuyển biến tích cực đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao (9,3%). Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế khu vực đã có những tác động lớn đến nền kinh tế nước ta. Đồng thờI, nền kinh tế nước ta đã phảI đốI mặt vớI những thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợI bên ngoài và thiên tai liên tiếp ở trong nước. Bên cạnh đó, lạI có nhiều yếu kém từ nộI tạI nền kinh tế bộc lộ ra: Thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, sản xuất một số ngành trì trệ…Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ đã có nhiều giảI pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế sự giảm sút, duy trì và ốn định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP theo các năm có giảm chút ít và năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên, chặn được đà giảm sút của những năm trước đó: Năm 1996 tăng 9, 34%, năm 1999 tăng 4,77%, năm 2000 tăng 6,79%, và GDP bình quân tăng 7%/năm.
Trong giai đoạn này, điều đặc biệt làm chúng ta quan tâm là đi cùng vớI tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có chiều hướng chững lạI và đi xuống thì tỷ lệ lạm phát được kiểm soát, có năm giảm xuống mức thấp đáng kể và chuyển giai đoạn thiểu phát. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Tỷ lệ lạm phát năm 1995 là 12,7%, năm 1997 là 3,6%, năm 1999 là 0,1% và năm 2000 tỷ lệ này là –0,6%. ThờI kỳ này, chính sách tiền tệ thắt chặt vẫn tiếp tục được tiến hành làm cho mức tăng trưởng cung tiền M2 xuống chỉ còn 25,6% năm 1998. Và thờI kỳ này cũng ghi nhận việc sử dụng khá linh hoạt các công cụ kiểm soát cung tiền của ngân hàng nhà nước. Thay vì, chính sách lãi suất thực dương vớI khung lãi suất cho vay tốI đa và lãi suất tiền gửI tốI thiểu cho đến cuốI tháng 12 năm 1995. Kể từ tháng 1 năm 1996, ngân hàng nhà nước đã tiến hành quá trình tự do hoá lãi suất tiền gửI, lãi suất cho vay được quản lý và kiểm soát theo cơ chế trần lãi suất. Tiếp đến, tháng 8 năm 2000 thì ngân hàng nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đốI vớI đồng nộI tệ, còn ngoạI tệ thì áp dụng lãi suất tự do hoá hoàn toàn. Cũng chính trong giai đoạn này, nghiệp vụ thị trường mở mớI chính thức đi vào hoạt động ngày 12 tháng 7 năm 2000 nhằm điều tiết lượng cung tiền trong nền kinh tế. Việc triển khai nghiệp vụ này đã đánh dấu một bước khá quan trong về chuyển biến trong điêu hành chính sách tiền tệ của Việt Nam, từ việc chủ yếu sử dụng công cụ trực tiếp sang công cụ sử dụng gián tiếp của ngân hàng nhà nước dựa trên tín hiệu của thị trường tiền tệ.
Tóm lạI, diễn biến tình hình lạm phát và tăng trưởng trong giai đoạn 1996-2000 là không tốt đốI vớI nền kinh tế, chính bởI lẽ đó gần cuốI giai đoạn này chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp kích cầu để đẩy tăng trưởng kinh tế lên.
1.5. ThờI kỳ kinh tế có bước phát triển mớI (2001-2005).
VớI những vấn đề nêu trên, những năm đầu của giai đoạn này, chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát, kích cầu nhằm đưa tỷ lệ lạm phát lên một mức hợp lý và để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. VớI mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và ổn định. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả quan: Năm 2001, tăng trưởng đạt 6,89%, năm 2003:7,24%, năm 2004: 7,26%, năm 2005:7,8%. Trong 5 năm qua, nền kinh tế tăng trưởng vớI tốc độ tương đốI cao, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH, đờI sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.. MọI mặt của đờI sống xã hộI đã được cảI thiện và phát triển. Tỷ lệ lạm phát trong các năm này cũng tăng dần. Năm 2000 là –0,6%, năm 2002: 4%, 2004: 9,5%.
Ở giai đoạn này, bên cạnh thực hiện các biện pháp kích cầu như thực thi chính sách nớI lỏng tiền tệ, các công cụ lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng… Được sử dụng hết sức nhạy bén phù hợp vớI diễn biến cung- cầu hàng hoá và giá cả thị trường. Nhưng đến năm 2004, tình hình biến động trên thị trường thế giớI cũng như trong nước, lạm phát lạI như một “bóng ma”, một lần nữa rình rập gây bất ổn nền kinh tế. VớI chỉ số giá 9,5% là một ranh giớI mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát được và lạm phát cao. Vì thế, nhà nước lạI tíêp tục thực hiện những biện pháp nhằm giữ lạm phát ở mức kiểm soát được.
Thực tế sau 20 năm điều hành điều hành nền kinh tế và những thực tiễn sinh động chống lạm phát đã có thể kết luận rằng: Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn của mọI nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Lạm phát thường xuất hiện bởI những nguyên nhân chung, nhưng trong mỗI giai đoạn khi lạm phát xuất hiện thì lạI mang nhiều hình thức và dáng vẻ khác nhau. Vấn đề chính là phảI tìm ra những nguyên nhân gây ra lạm phát và chống lạm phát bằng cách nào. Để có thành công trong chống lạm phát phần lớn là nhờ vào sự điều hành thông minh, linh hoạt và sáng tạo của chính phủ mỗI nước.
2.Những thành tựu Việt Nam đạt được trong kiềm chế lạm phát
Qua nghiên cứu về tổng quan lạm phát ở Việt Nam, vớI những đặc điểm khác nhau của nó trong mỗI thờI kỳ đều mang đặc điểm riêng vớI những n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26342.doc