Đề tài Lạm phát và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam thời gian vừa qua

Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta đã được đưa ra nhiều từ giữa năm 2007. Có thể thấy, liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau đều cao hơn năm trước và năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, cũng đã có sự cảnh báo về sự tăng trưởng nóng, về sự bền vững của tăng trưởng.

 Trước tình hình và diễn biến của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên số hàng đầu.

Giá cả leo thang làm cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp điêu đứng. Không chỉ giá lương thực thực phẩm leo lên vùn vụt, mà giá than, giá vật liệu xây dựng và giá một số dịch vụ cũng tăng lên. Hiện tượng mức giá chung tăng đều đặn được gọi là lạm phát. Người ta dùng nhiều chỉ số để đo lạm phát và chỉ số quen thuộc nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI).

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát và các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam thời gian vừa qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững của nền kinh tế. Xét trên giác độ này, ngân hàng trung ương đã không thực hiện được chức năng định hướng các ngân hàng chuyên doanh hoạt động hiệu quả. Thực tế là, ngân hàng trung ương có rất ít mối quan hệ với các ngân hàng chuyên doanh. Mối quan hệ tương tác xét trên bình diện quản lý kinh tế thực sự là chưa được xác lập. Bằng chứng là, các hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng chuyên doanh, về cơ bản không có mối liên hệ nào với ngân hàng trung ương. Rõ ràng là các hoạt động tín dụng của ngân hàng vì mục tiêu đầu cơ trong TTCK và thị trường bất động sản đã tồn tại trong một thời gian dài, trong khi ngân hàng trung uơng thực ra chỉ tồn tại bên cạnh nó như một cơ quan quản lý hành chính bất lực trước các hoạt động đầu cơ của các ngân hàng chuyên doanh. Với một hệ thống ngân hàng như vậy, lạm phát chỉ là vấn đề thời gian ngay cả trong trường hợp giá nguyên liệu thế giới cũng như giá lương thực thực phẩm không tăng. Nói khác đi, lạm phát nhất định sẽ xảy ra mà không phụ thuộc vào tăng giá lương thực, thực phẩm cũng như tăng giá nguyên liệu trên thị trường thế giới ở mức độ nào. 1.5. Thứ năm là Lạm phát do chính sách tiền tệ: Lạm phát có được bước nhảy vọt ngoặt mục như thế phần lớn từ chính sách thiếu đồng bộ giữa ngân hàng và bộ tài chính. Vấn đề nhảy vọt có nguyên nhân khá rõ ràng. Ngân hàng (NH) phải mua vào số lượng lớn ngoại tệ (đầu tư trực tiếp và đặc biệt là đầu tư vào TTCK.Thời báo Kinh tế Sàigòn (số 10/2008) đã đưa thông tin rất quan trọng cho biết, Ngân hàng Nhà  nước (NHNN) nửa đầu năm 2007 đã tung ra 105 ngàn tỉ đồng để mua vào 6,5 tỉ USD làm dự trữ ngoại tệ, sau đó lại tung thêm 40 ngàn tỉ đồng để mua thêm 2,5 tỉ USD . Như vậy tổng số tiền tung ra mua 9 tỉ USD ngoại tệ là 145 ngàn tỉ đồng. Muốn tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi phải thúc đẩy đầu tư mạnh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều, như vậy lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát tiền tệ cũng sẽ nảy sinh. Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến (gồm cả đầu tư và kiều hối), từ đó buộc Ngân hàng nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng. Việc mua đó đồng nghĩa với tung thêm tiền đồng Viêt Nam vào lưu thông, nhưng không thể không mua được vì một mặt để tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho nhập khẩu, mặt khác là để thu hút luồng vốn từ bên ngoài vào phát triển kinh tế.  Nhưng theo các nhà kinh tế, không mua USD vào còn tồi tệ hơn, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư trong nước. Bởi vậy, hoạt động nghiệp vụ tiền tệ thu gom hơn 90 000 tỉ đồng trong năm 2007 là giải pháp đúng của Ngân hàng nhà nước. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm 2007 và hai tháng đầu năm 2008 là do nhiều nguyên nhân, thậm chí có cả nguyên nhân tích tụ từ lâu do đầu tư kém hiệu quả (hệ số ICOR tăng), cuối cùng thể hiện ở chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn rộng trong vòng 3 năm qua. Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6-2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể. 1.6. Thứ sáu là Lạm phát do tỉ giá hối đoái VND: Neo tỷ giá cứng nhắc với USD dẫn đến cung tiền tăng mạnh Kinh tế Việt Nam trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về cơ hội đầu tư do vậy sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007 đã tới 20 tỉ USD). Về nguyên tắc khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, Việt Nam Đồng (VNĐ) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, với chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VNĐ mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VNĐ với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VNĐ yếu có thể coi là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong những điều kiện kinh tế thế giới nhất định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải tung VNĐ ra mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại một phần cung tiền. Neo tỷ giá với USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí cho sản xuất trong nước tăng Tuy nhiên tỷ giá của VND trong thời gian này hầu như không biến đổi so với USD (tính đến cuối tháng 2/2008 chỉ tăng 0.24% so với 2006). Do đó qua việc neo tỉ giá, VNĐ cũng giảm trung bình 15% so với các ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VNĐ yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng đồng thời lại góp phần “nhập khẩu lạm phát “vào Viet Nam. Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy mócSự mất giá của USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VNĐ dưới chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn do vậy lạm phát phi mã là không tránh khỏi. 1.7. Thứ bảy Lạm phát do bội chi ngân sách: Theo đánh giá của IMF thì bội chi ngân sách của Việt Nam là 6,6%GDP lớn hơn mức độ bội chi tối đa cho phép là 5%. Chính phủ có thể hồi phục sự ổn định tương đối nhanh chóng bằng kiểm soát chi tiêu công và tiền vay của doanh nghiệp nhà nước. Vào đầu những năm 90, lo lắng vì hoạt động kém hiệu quả của các công ty nhà nước khiến chính phủ quyết định thành lập các tổng công ty và tập đoàn kinh tế, theo hình mẫu keiretsu của Nhật và chaebol của Hàn Quốc. Ý định ban đầu là quy mô lớn sẽ giúp các công ty cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các NHTM đang phải huy động vốn trong dân với lãi suất từ 10-11%/năm. Trong khi bị bắt buộc mua tín phiếu của NHNN với lãi suất 7,8%. Điều này đồng nghĩa với việc chi phí sản xuất sẽ tăng cao, có nghĩa là giá thành sản phẩm sẽ không thể nào giảm được. Giá cả vì thế lại tiếp tục leo thang. Như vậy, nếu tình trạng này kéo dài, cuộc chiến chống lạm phát do NHNN khởi xướng với những công cụ tưởng như rất kịp thời và đúng tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô, giảm thiểu gánh nặng lạm phát cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống người dân về bản chất đang trở thành cuộc đùn đẩy trách nhiệm và chi phí chống lạm phát sang cho chính họ (doanh nghiệp và người dân). Chống lạm phát như thế có thể được ngay hiệu quả trước mắt nhưng về lâu dài sẽ để lại hậu quả thật khó lường. Sản xuất đóng băng, tăng trưởng suy giảm, nền kinh tế rất dễ sa vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng và đời sống người dân ngày càng chật vật. 2.THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Vấn đề lạm phát của nền kinh tế nước ta đã được đưa ra nhiều từ giữa năm 2007. Có thể thấy, liên tục từ 1998 đến nay, tốc độ tăng trưởng GDP năm sau đều cao hơn năm trước và năm 2007 đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, cũng đã có sự cảnh báo về sự tăng trưởng nóng, về sự bền vững của tăng trưởng.  Trước tình hình và diễn biến của nền kinh tế - xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên số hàng đầu. Giá cả leo thang làm cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp điêu đứng. Không chỉ giá lương thực thực phẩm leo lên vùn vụt, mà giá than, giá vật liệu xây dựng và giá một số dịch vụ cũng tăng lên. Hiện tượng mức giá chung tăng đều đặn được gọi là lạm phát. Người ta dùng nhiều chỉ số để đo lạm phát và chỉ số quen thuộc nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Chỉ số này được tính trên cơ sở theo dõi biến động giá theo thời gian của các mặt hàng nhất định (từ 2005 rổ hàng hoá này gồm gần 500 hàng hoá và dịch vụ). Chỉ số CPI đã liên tục tăng suốt 4 năm qua: Bắt đầu là 9,5% năm 2004; 8,4 % năm 2005; 6,6% năm 2006; 12,6% năm 2007 và trong 4 tháng đầu năm 2008 đã tăng 11%. Chỉ số CPI từ 2000 đến quí 1/2008 ( Nguồn: Tổng cục thống kê) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Quý1/2008 CPI -0.6 8 4 3 9.5 8.4 6.6 12.6 11 Thông qua bảng dữ liệu trên có thể rút ra nhận xét :            Thứ nhất, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn quá yếu. Bằng chứng, cùng chịu chung áp lực biến động giá trên thị trường thế giới, nhưng 2 tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng ở các nước trong khu vực tăng không đáng kể: Thái Lan – 1,7%, Malaysia – 2,2%, Indonesia – 1,8%, Trung Quốc – 2,9%, trong khi con số này ở ta là – 6,19%.1 Dễ nhận thấy nhất là ở hiệu quả sản xuất. Trong khi những yếu tố lợi thế như lao động rẻ hay giá năng lượng thấp vẫn chưa được khai thác triệt để thì các chi phí khác lại quá cao. Nhiều chi phí cao đến mức phi lý như: chi phí thuê đất, chi phí vận tải, đặc biệt là các chi phí “bôi trơn”; công nghệ sản xuất thì lạc hậu (đi sau so các nước trong khu vực khoảng chừng 20-30 năm); cơ sở hạ tầng còn yếu, nền công nghiệp lệ thuộc gần như hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu... cộng thêm với năng lực quản lý còn yếu, quan liêu, tham nhũng (đặc biệt ở các DNNN). Tất cả đã đẩy giá thành các sản phẩm trong nước lên tới mức trần, có nghĩa là không còn khoảng trống an toàn để dự phòng về giá. Chính vì vậy, khi một yếu tố sản xuất nào đó thay đổi, ngay lập tức tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam kém năng động bởi vì khi nhìn vào phản ứng của các chủ thể kinh tế cơ bản sẽ thấy Ngân hàng Nhà nước, cơ quan chịu trách nhiệm chính trong kiểm soát lạm phát, trước lượng tiền đầu tư nước ngoài tăng hơn dự kiến (7 tỷ USD trong 6 tháng) đã tỏ ra bối rối. Khi một quốc gia được các nhà đầu tư “ưu ái” bơm tiền - đó là cơ hội lớn. Nhiệm vụ của chúng ta là làm thế nào để hấp thụ lượng tiền này, biến nó thành sản phẩm, thành giá trị gia tăng thúc đẩy kinh tế phát triển. Các doanh nghiệp cũng vậy, trước áp lực lạm phát, vẫn giữ một chiêu duy nhất – tăng giá bán, khá hơn một chút là thực hành tiết kiệm Tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2008 đã và đang có những diễn biến bất lợi. Tăng trưởng kinh tế vẫn cao, nhưng không đạt mục tiêu đề ra, tăng trưởng của công nghiệp - xây dựng thấp. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có biểu hiện xấu.Giá tiêu dùng liên tiếp tăng và tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đã là 9,19%, nêu tính cả tháng 4 đã là trên 11%, ảnh hưởng rất bất lợi đến sản xuất kinh doanh, đến đầu tư phát triển và tác động xấu đến đời sống nhân dân. Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán có nhiều biến động bất thường, nhập siêu tăng cao, cán cân thương mại và cán cân thanh toán thiếu vững chắc,mới đây nhất là việc giá dầu tăng cao kỉ lục 128 USD/thùng .Nhóm hàng lương thực đã tăng 15,02%,nhóm hàng thực phẩm tăng 10,06% ,nhà ở và xây dựng tăng 11,01%... và chỉ có riêng nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm được 2,91%. Một số chỉ tiêu chủ yếu 10 tháng năm 2008 (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm trước (%) Giá trị sản xuất công nghiệp +15,8 Tổng kim ngạch xuất khẩu +36,7 Tổng kim ngạch nhập khẩu +42,6 Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng +30,7 Khách quốc tế đến Việt Nam +3,5 Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước thực hiện (so với kế hoạch 2008) 77,1 Chỉ số giá tiêu dùng 10 tháng năm 2008 so với 10 tháng năm 2007 +23,15 ( Nguồn: Tổng cục thống kê) Lạm phát tháng 10 giảm còn 26,7%.Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam tăng 26,7% trong tháng 10/2008 so với cùng kỳ năm ngoái,chỉ số này thấp hơn 0,2% theo chỉ số so sánh lạm phát từng tháng và cũng thấp hơn tỉ lệ lạm phát so sánh theo năm, ở mức 27,9% được công bố hồi tháng 9/2008. Tổng cục Thống kê cũng cho biết chỉ số tính theo tháng giảm phản ánh giá năng lượng và nguyên vật liệu đầu vào trên thế giới thấp hơn. Điều này cũng được giải thích như là hệ quả của việc cắt giảm giá năng lượng, nhiên liệu trong nước và là hệ quả của các biện pháp thắt chặt tín dụng của hệ thống ngân hàng quốc nội. Điều tiết tín dụng, ngân hàng là một trong loạt giải pháp đồng bộ đã được Chính phủ thực thi nhiều tháng qua nhằm kiềm chế lạm phát. Đầu năm nay, vẫn theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu thụ của Việt Nam đã tăng 21,6% và tuần trước, Thủ tướng Chính Nguyễn Tuấn Dũng, dự báo lạm phát cả năm 2008 ở mức 24%. Tăng giảm các chỉ số Nhóm chỉ số giá thực phẩm đã tăng lên 40,6% vào tháng Mười nhưng đã hạ 0,4% so với tháng Chín vừa qua, vẫn theo Tổng cục Thống kê. Nhóm chỉ số giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 22,8% theo so sánh cùng kỳ theo năm và giảm 1,1% theo tháng. Trong khi đó, giá thức uống và thuốc lá tăng 13,3% so với tháng 10/2007, nhưng giảm 0,7% so với tháng trước. Tình trạng lạm phát với hai chữ số diễn ra trong thời gian dài đã tấn công trực tiếp vào khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 10 năm 2008 % CÁC CHỈ SỐ GIÁ Tháng 10 năm 2008 so với Chỉ số giá 10 tháng 2008 so với cùng kỳ năm 2007 Kỳ gốc 2005 Tháng 10 năm 2007 Tháng 12 năm 2007 Tháng 9 năm 2008 CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG 148,20 126,72 121,64 99,81 123,15 Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 172,14 140,56 132,12 99,58 136.95 Trong đó: Lương thực 201,99 160,06 151,41 98.09 149.58 Thực phẩm 161,16 132,82 124,44 100.01 133.05 Đồ uống và thuốc lá 128,32 113,27 111,34 100,67 110.21 May mặc, giày dép và mũ nón 126,05 112,55 110,82 100,70 109.81 Nhà ở và vật liệu xây dựng 148,40 122,84 116,76 98,92 122.39 Thiết bị và đồ dùng gia đình 125,94 111,99 111,26 100,73 108.36 Dược phẩm, y tế 123,00 109,76 108,75 100,58 108.72 Phương tiện đi lại, bưu điện 138,44 124,82 119,56 99,06 116.66 Trong đó: Bưu chính, viễn thông 83,46 89,21 90,39 99.82 88.44 Giáo dục 115,02 106,71 106,56 100.69 103.63 Văn hoá, thể thao, giải trí 115,74 109,50 109,30 100,38 105.03 Đồ dùng và dịch vụ khác 132,35 114,65 111,69 100,85 113.11 CHỈ SỐ GIÁ VÀNG 206,76 125,15 112,53 103,21 137,43 CHỈ SỐ GIÁ ĐÔLA MỸ 104,45 102,46 102,95 99,95 101,71 Giá tiêu dùng Giá tiêu dùng tháng 10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước, là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu một mặt do 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng; mặt khác do giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới giảm đã tác động đến giá tiêu dùng trong nước. Các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm là: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,42% (lương thực giảm 1,91%); nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 1,08%; phương tiện đi lại, bưu điện giảm 0,94%. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng nhẹ ở mức dưới 1%: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,67%; may măc, giày dép và mũ nón tăng 0,7%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,73%; dược phẩm, y tế tăng 0,58%; giáo dục tăng 0,69%; văn hoá, thể thao, giải trí tăng 0,38%. So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 26,72%; so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 21,64%. Giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2008 so với 10 tháng năm 2007 tăng 23,15%.                3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát là bài toán luôn thường trực trên bàn nghị sự của các Chính phủ nhưng cũng là bài toán khó giải nhất đối với tất cả các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế thị trường phát triển. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy thời gian chưa nhiều, đủ để phát hiện và khảo sát tính chu kỳ của nền kinh tế, song những biểu hiện của nó đã xuất hiện tương đối rõ. Kể từ năm 1986 đến nay, tăng trưởng kinh tế đã trải qua 4 giai đoạn thăng trầm: năm 1986 – 1991 chỉ tăng trưởng 4,7%/năm; năm 1992 – 1997 tăng trưởng tới 8,7%/năm mà đỉnh cao là năm 1995 với GDP tăng 9,5%; năm 1998 – 2001 lại hạ xuống còn khoảng 6%/năm và năm 2002 – 2005 phục hồi với trên 7,6%/năm. Bài toán khó giải nhất hiện nay là kiềm chế tăng giá trong khi vẫn phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Theo quy luật kinh tế chung, tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát tăng thường song hành với nhau. Kinh nghiệm cho thấy lạm phát chỉ cản trở tăng trưởng khi lên đến mức 2 con số, do đó, trong giai đoạn năm 2006 – 2010 nói chung, năm 2008 nói riêng cần cân nhắc phương án đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu lạm phát, Về bản chất, chính sách tài khoá tác động rất mạnh tới tăng trưởng và lạm phát, đặc biệt là đối với mô hình kinh tế như của Việt Nam hiện nay, từ cả phía thu ngân sách, chi ngân sách cũng như qui mô bội chi ngân sách nhà nước và cách thức bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước luôn được coi là nguyên nhân trực tiếp, cơ bản dẫn đến lạm phát. Bên cạnh đó, nếu chính sách tài khoá là công cụ vĩ mô tương đối cứng nhắc, thiếu độ linh hoạt vì mỗi sự thay đổi dự toán chi ngân sách hay thay đổi thuế suất từng sắc thuế đều phải thực hiện theo những quy trình tương đối phức tạp, thì ngược lại, chính sách tiền tệ lại đặc trưng bởi mức độ linh hoạt rất cao, thậm chí trong trường hợp “cố định” chính sách tài khoá thì chính sách tiền tệ trở thành công cụ duy nhất, hữu hiệu nhất để thúc đẩy tăng trưởng trong khi vẫn kiểm soát được lạm phát. Một điểm đáng ngạc nhiên từ năm 2004 đến nay là, để kìm hãm tốc độ tăng giá có dấu hiệu vượt khỏi tầm kiểm soát, chúng ta đã chủ trương đặt trọng tâm vào các công cụ tài chính giá cả như cắt giảm thuế nhập khẩu, tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, hạn chế điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý giá, hạn chế điều chỉnh tiền lương tối thiểu, cắt giảm chi phí sản xuất,trong khi hầu như “cố định” các công cụ của chính sách tiền tệ, chỉ điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mà không có động thái rõ ràng nào đối với chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái. Hiệu quả của chủ trương này như thế nào còn cần thời gian để kiểm chứng song nó cho thấy dường như chúng ta quen sử dụng các công cụ can thiệp của Nhà nước hơn là các công cụ thị trường linh hoạt. Trong khi đó tất cả các nước có nền kinh tế thị trường đều thừa nhận vai trò quyết định của điều chỉnh lãi suất mỗi khi muốn kiểm soát tốc độ tăng giá và lạm phát, chỉ riêng nước ta dường như lại có cách làm khác. Trong hoạch định chính sách tài chính tiền tệ cũng cần tính tới “tính lây truyền” của lạm phát trên thế giới khi mức độ mở cửa thị trường tăng và thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế - tài chính quốc tế. Theo một nghiên cứu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đối với nhóm 23 nền kinh tế thị trường mới nổi trong giai đoạn năm 1970 – 1999, tốc độ lạm phát ở nhóm quốc gia này có mối quan hệ chặt chẽ với lạm phát toàn cầu không kém mối quan hệ với thâm hụt ngân sách. Những biến động giá cả từ đầu năm 2004 tới nay cho thấy phần nào những chính sách điều tiết vĩ mô của chúng ta dường như chưa theo kịp tốc độ hội nhập mở cửa nên không thể giải quyết một cách nhất quán và hiệu quả những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Cũng cùng sức ép từ biến động giá quốc tế, thậm chí cường độ tác động còn mạnh hơn do mức độ mở cửa cao hơn, song hầu hết các nước quanh chúng ta đều kiểm soát tốt giá cả và lạm phát trong khi duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, đặc biệt là Trung Quốc. Rõ ràng, chúng ta cần rút ra những bài học kinh nghiệm về kiềm chế lạm phát từ thực tế này. Nên tập trung trí tuệ và sức lực vào việc tìm ra giải pháp kiềm chế tốc độ tăng giá hiện nay nhằm ổn định kinh tế vĩ mô của chúng ta trong “hệ quy chiếu” thị trường, hội nhập và mở cửa kinh tế. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm 8 – 8,5% trong khi kiềm chế tốc độ lạm phát dưới 2 con số hiện tại là không thể. Thực tế diễn biến thị trường quốc tế năm 2004 – 2007 không thuận lợi cho mục tiêu tăng trưởng cao của chúng ta nên việc theo dõi thị trường và kịp thời điều chỉnh chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng hay thắt chặt trong từng giai đoạn phát triển là chìa khoá đối phó hữu hiệu với những cú sốc trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập của Việt Nam. 4. Giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua Chính phủ thống nhất xác định nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu từ nay tới hết năm 2008 là kiềm chế lạm phát. Chính phủ đề nghị Quốc hội điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng cả năm 2008 ở mức khoảng 7% và xem xét các giải pháp tổng hợp để đưa tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần. Chính phủ đã xác định 8 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt trong thời gian tới. Thủ tướng nhấn mạnh 4 nội dung: Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, hiệu quả; Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh phát triển sản xuất, dịch vụ và thu hút đầu tư; Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu; bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa; tăng cường quản lý thị trường, giá cả; chống đầu cơ, buôn lậu; Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Thứ nhất, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. Thứ hai, tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng. Thứ ba, yêu cầu các bộ, ngành dứt khoát phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả: không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá. Đồng thời, yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá các mặt hàng. Thứ tư, tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu, không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Chính phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công thương nghiên cứu hạn chế nhập siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ tùng xe máy... phấn đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới cân bằng cán cân thương mại. Thứ năm, tập trung ưu tiên tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất công-nông nghiệp và dịch vụ. Nhanh chóng khắc phục khó khăn do hạn hán, rét đậm vừa qua gây ra để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tăng cường các biện pháp phòng chống, kiểm soát và khống chế dịch bệnh bùng phát và lan rộng. Sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng các dự án công trình mang lại sản phẩm lớn cho xã hội như điện, xi măng, thép... Thứ sáu, đề nghị các bộ, ngành rà soát các chương trình, chính sách hỗ trợ người có thu nhập thấp, người nghèo để tiếp tục hỗ trợ tích cực các đối tượng này nhằm đảm bảo an sinh xã hội trong tình hình giá cả tăng cao. Thứ bảy, cung cấp thông tin, tuyên truyền phải tạo sự nhất trí, đồng thuận, cùng nhau chung sức hợp tác chặt chẽ vượt qua khó khăn, thực hiện đồng bộ và quyết liệt các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh khó khăn toàn cầu. Thứ tám, phát triển mạnh sản xuất và dịch vụ Chính phủ sẽ kiểm tra chặt chẽ việc đầu tư không thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư kinh doanh tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản. Phát triển mạnh sản xuất và dịch vụ được xem là giải pháp cơ bản, tạo hiệu quả trực tiếp, nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung các hàng hóa và dịch vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần thiết thực kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu. Tiếp tục thu hút mạnh và giải ngân nhanh các nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao và có giá trị xuất khẩu lớn. Chính phủ tăng mạnh đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trước mắt tập trung chỉ đạo chăm sóc tốt các vụ lúa chưa thu hoạch, không để xảy ra dịch bệnh trên diện rộng; đảm bảo đủ giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi... Tiếp tục làm tốt công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng vật nuôi, nhất là dịch cúm gia cầm H5N1 và dịch lợn tai xanh. Huy động đủ nguồn lực, á

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5984.doc
Tài liệu liên quan