Đề tài Lạm phát và chính sách điều hành lạm phát ở Việt Nam

MỤC LỤC:

Phần 1: Những vấn đề chung về lạm phát.

1.1 Các quan niệm về lạm phát

1.2 Khái niệm về lạm phát

1.3 Phân loại lạm phát

1.3.1 Căn cứ định lượng

1.3.2 Căn cứ định tính

1.4 Nguyên nhân lạm phát

1.4.1 Nguyên nhân chính

1.4.2 Nguyên nhân khác

1.5 Tác động của lạm phát

1.5.1 Tác động chung

1.5.2 Tác động tiêu cực

1.5.3 Tác động tích cực

1.6 Chính sách và biện pháp kiềm chế lạm phát

1.7 Lạm phát mục tiêu

1.8 Giơí thiệu giảm phát.

Phần 2: Chính sách điều hành lạm phát qua các thời kỳ ở Việt Nam.

2.1 Việt Nam thời kỳ 1986 – 1990

2.2 Việt Nam thời kỳ 1990 – đầu 2007

2.3 Việt Nam thời kỳ cuối 2007 -2008

2.4 Việt Nam thời kỳ 2009-2010

2.5 Tình hình lạm phát ở Việt Nam Qúi 1/2011

 

 

 

 

 

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát và chính sách điều hành lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao khi giá nguyên liệu đầu vào tăng hoặc giá lao động tăng.Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn . Lạm phát nguyên nhân tiền tệ (monetary inflation): Lạm phát do nguyên nhân tiền tệ xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Sự mất cân đối này sẽ làm cho đồng tiền bị mất giá. Công thức mối quan hệ giữa thu nhập danh nghĩa PY và lượng tiền M thể hiện qua công thức: MV = PY, công thức này biến đổi ra ta được : %ΔP = %ΔM +%ΔV - %ΔY (*) - %ΔP là % tăng lên của giá hàng hóa hay còn gọi là lạm phát π (lạm phát π được đo lượng bằng GDP deflator) - %ΔM tăng trưởng của cung tiền - %ΔV- Thay đổi trong vòng quay tiền - %ΔY - Tăng trưởng thực của nền kinh tế Qua công thức đó chúng ta sự tăng giá (%ΔP) vế trái của phương trình (*) phụ thuộc vào 3 biến số của vế phải, thay đổi cung tiền, thay đổi vòng quay tiền và tăng trưởng thực của nền kinh tế. 1.4.2 Các nguyên nhân khác: Lạm phát đẻ ra lạm phát (inflation spawned inflation): Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao ,từ đó lạm phát sẽ xảy ra .Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng ,cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thâm hụt ngân sách (budget deficit relative): Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt .Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát.Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền ,đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát .Tuy nhiên,đối với các nước đang phát triển ,việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế .Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất .Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn. Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ gây lạm phát. Tỷ giá hối đoái (exchange rate): Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ bị mất giá, khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái .Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên .Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Lạm phát do cơ cấu ( Inflation caused by structural): Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó. Lạm phát do xuất khẩu ( Inflation by exporting): Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. Lạm phát do nhập khẩu (Inflation due to imported): Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. Lạm phát do cầu thay đổi (inflation due to change of demand): Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát. 1.5 Tác động của lạm phát: 1.5.1 Tác động chung: Sự gia tăng mức giá chung hàm ý sự giảm sức mua của tiền tệ. Đó là bởi vì khi mức giá chung tăng, mỗi đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Ảnh hưởng của lạm phát được phân đều trong nền kinh tế, và kết quả là chi phí của một số mặt hàng và lợi nhuận của một số mặt hàng sẽ bị ẩn giấu bởi sự sụp giảm sức mua của tiền tệ này. Ví dụ: khi xảy ra lạm phát, với những chủ cho vay hoặc người gửi tiền, những người được trả một mức lãi suất cố định với những khoản cho vay hoặc khoản tiền gửi, sẽ bị giảm sức mua của những khoản tiền lãi suất của họ, trong khi những người vay họ lại được hưởng lợi. Những cá nhân hoặc tổ chức có tài sản tiền mặt sẽ bị giảm sức mua của những cổ phần họ nắm giữ. Tăng khoản tiền thanh toán cho công nhân và những người hưởng lương hưu thường chậm hơn tỷ lệ lạm phát, đặc biệt với những người được thanh toán những khoản tiền cố định. Tăng mức giá (lạm phát) làm giảm giá trị thực của tiền (đồng tiền chức năng) và những mặt hàng khác có bản chất tiền tệ (ví dụ các khoản vay và trái phiếu). Tuy nhiên, lạm phát không có ảnh hưởng đến giá trị thực của các khoản mục tiền tệ (ví dụ hàng hóa, vàng, bất động sản). 1.5.2 Tác động tiêu cực: Tác động đến lĩnh vực sản xuất: Tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. Khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lãi xuất giảm khuyến khích doanh nghiệp gia tăng vốn đầu tư để mở rộng sản xuất. Đồng thời cũng khuyến khích tiêu dùng làm cho hàng hóa được bán chạy hơn. Do đó, lúc này lạm phát sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Tác động đến lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trỏ nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng. Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền nhàn rỗi trong tay. Ngân hàng gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, người đi vay là những người có lợi từ sự mất giá của đồng tiền. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hang không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế. Tác động đến cán cân ngân sách-chính sách tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do đó, các khoản chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của nhà nước trong các ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện. Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định. 1.5.3 Tác động tích cực: Điều chỉnh thị trường lao động: Keynes cho rằng việc điều chỉnh tiền lương danh nghĩa xuống sẽ chậm. Nó có thể dẫn tới trạng thái mất cân bằng kéo dài và tỷ lệ thất nghiệp cao trong thị trường lao động. Bởi vì lạm phát sẽ làm giảm tiền lương thực tế khi tiền lương danh nghĩa được giữ ở mức ổn định, Keynes cho rằng một số lạm phát sẽ tốt cho nền kinh tế, bởi vì nó sẽ cho phép thị trường lao động đạt được trạng thái cân bằng nhanh hơn. Giảm nợ :Các chủ nợ, những người có khoản nợ với tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cố định sẽ bị giảm tỷ lệ lãi suất “thực tế” khi tỷ lệ lạm phát tăng. Tỷ lệ lãi suất “thực tế” của một khoản vay bằng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát.[tỷ giá không có thực – tỷ giá thảo luận] (R=n-i). Ví dụ, nếu bạn vay tiền với tỷ lệ lãi suất đưa ra là 6% và tỷ lệ lạm phát là 3%, tỷ lệ lãi suất thực tế mà bạn sẽ trả cho khoản vay là 3%. Điều này cũng sẽ đúng khi bạn vay tiền với tỷ lệ lãi suất cố định là 6% và tỷ lệ lạm phát tăng tới 20% bạn sẽ có tỷ lệ lãi suất thực tế là -14%. Các ngân hàng và các chủ cho vay khác điều chỉnh rủi ro lạm phát này hoặc bằng cách tính phí lạm phát trong chi phí cho vay tiền hoặc bằng cách tạo ra một tỷ lệ lãi suất ban đầu cao hơn hoặc bằng cách quy định một tỷ lệ lãi suất biến đổi. Phạm vi đề phòng:Những công cụ chủ yếu để kiểm soát cung tiền là khả năng xác định tỷ lệ chiết khấu, tỷ lệ mà ở đó các ngân hàng có thể mượn tiền của ngân hàng trung ương, các hoạt động thị trường mở, đó là sự can thiệp của ngân hàng trung ương vào thị trường trái phiếu với mục đích tác động đến tỷ lệ lãi suất danh nghĩa. Nếu một nền kinh tế tự thấy nó đang ở trong giai đoạn suy thoái với tỷ lệ lãi suất danh nghĩa thấp hoặc thậm chí bằng không, thì khi đó ngân hàng không thể giảm những tỷ lệ này (bởi vì tỷ lệ lãi suất danh nghĩa không thể âm) để kích thích nền kinh tế - tình trạng này được xem như là một bẫy tiền mặt. Một tỷ lệ lạm phát ở mức vừa phải sẽ đảm bảo rằng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa sẽ luôn lớn hơn không để nếu nhu cầu tăng thì ngân hàng vẫn có thể giảm tỷ lệ lãi suất danh nghĩa. Hiệu ứng Tobin:Nhà kinh tế học James Tobin, người đã từng đạt giải Nobel cho rằng một mức độ lạm phát vừa phải có thể tăng đầu tư trong một nền kinh tế , dẫn đến tăng trưởng nhanh hơn hoặc ít nhất cũng đạt được một mức thu nhập ổn định cao hơn. Đó là do thực tế lạm phát làm cho lợi nhuận từ những tài sản tiền tệ giảm so với lợi nhuận từ bất động sản chẳng hạn như vốn hiện vật. Để tránh lạm phát, các nhà đầu tư nên thay đổi từ việc nắm giữ các tài sản như tiền (hoặc một tài sản có dạng tương tự, nhạy cảm với lạm phát) sang đầu tư vào các dự án vốn thực tế. 1.6 Chính sách và biện pháp kiềm chế lạm phát: Phải kết hợp đồng bộ các chính sách về tiền tệ với chính sách tài khoá và chính sách tỉ giá để nâng cao hiệu quả đầu tư của kinh tế nhà nước, giảm bớt sức ép của chính sách tiền tệ đến hoạt động của các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp, bảo đảm các doanh nghiệp có nguồn tín dụng để mở rộng đầu tư, làm cho việc chống lạm phát không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng và việc làm. 1.6.1 Biện pháp đối phó với lạm phát: 1.6.1.1Những biện pháp tình thế: *Chính sách đóng băng tiền tệ : giảm lượng tiền trong nền kinh tế bằng cách ngưng phát hành tiền vào kênh lưu thông. Đồng thời, dừng các nghiệp vụ làm tăng lượng cung ứng tiền tệ như dừng các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng,dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Bên cạch đó còn có các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng như ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ , phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế để bù đắp cho thâm hụt ngân sách, tăng lãi suất tiền gửi *Tăng lượng hàng hóa tiêu dùng để cân đối với lượng tiền trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm thuế quan… *Đi vay hoặc xin viện trợ từ nước ngoài 1.6.1.2Những biện pháp chiến lược: *Biện pháp chiến lược hàng đầu để ổn định tiền tệ trong nền kinh tế là thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa vì khi nền sản xuất phát triển sẽ tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn đinh tiền tệ. *Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Đây là biện pháp nhằm giảm thiểu khoản thâm hụt ngân sách nhà nước. *Tăng cường công tác quản lý điều hành nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu một cách hợp lý, chống thất thu đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách. 1.6.2 Chính sách kiềm chế lạm phát: Chính sách tài khóa (fiscal policy): -Giảm thâm hụt để tiến tới cân bằng ngân sách. -Thắt chặt chi tiêu của chính phủ; kiểm soát chặt chẽ đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. -Giảm mạnh chi phí hành chính trong các cơ quan nhà nước nhằm giảm bớt sức ép về cầu nhất là các loại cầu không tạo ra hiệu quả. -Cần loại bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả, thắt chặt những khoản chi chưa thực sự cần thiết nhưng tạo mọi điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng. Chính sách tiền tệ (monetary policy): Xuất phát từ nhận định lạm phát thường xuất hiện khi lượng tiền trong lưu thông tăng, chúng ta cần hạn chế lượng tiền trong lưu thông bằng cách: -Tăng lãi suất cho vay vốn và lãi suất tái chiết khấu và hạn chế mức tăng tín dụng. -Quy định dự trữ bắt buộc hợp lí để vừa bảo đảm an toàn hệ thống đồng thời nâng cao được khả năng thanh khỏan trong hoạt động ngân hàng. -Phát hành tín phiếu và phân hạn mức mua cho các Ngân hàng Thương mại để rút bỏ bớt tiền khỏi lưu thông. Biện pháp cải cách tiền tệ (currency reform): Đây là biện pháp tình thế bắt buộc khi lạm phát ở mức độ cao mà việc vận dụng các biện pháp trên không đưa lại kết quả mong muốn. Ở đây nhà nước huỷ hoặc thu hồi tiền cũ, phát hành tiền mới để lập lại trật tự mới trong lưu thông tiền tệ. 1.7 Lạm phát mục tiêu: Giới thiệu lạm phát mục tiêu: Tại nhiều nước lạm phát được coi là vấn đề kinh tế - xã hội rất nghiêm trọng. Một khi nền kinh tế có lạm phát ở mức cao độ sẽ làm giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các nguồn vuốn trong nước sẽ chạy ra nước ngoài. Lạm phát còn làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn và tạo nên sự căng thẳng quốc gia. Trên thế giới có nhiều nước lấy khối lượng tiền (M2 hay M3) hoặc tỷ giá làm mục tiêu trung gian để điều hành Chính sách tiền tệ của quốc gia. Tuy nhiên sang những năm 90, nhiều nước công nghiệp phát triển đã phá lệ truyền thống trong việc xây dựng các mục tiêu trung gian tương tự mà tập trung tâm điểm vào chỉ số lạm phát. Cách tiếp cận mới này tập trung vào việc kiểm soát lạm phát và được gọi là lạm phát mục tiêu, một cơ chế điều hành chính sách tiền tệ tương đối mới. Đi đầu áp dụng là ở Niu – Dilân ( năm 1990). Vậy tại sao phải áp dụng lạm phát mục tiêu? Thực tế chỉ ra rằng việc mau chóng đạt được 1 vài mục tiêu ( tạo thêm việc làm hoặc tăng trưởng kinh tế…) với sự trợ giúp của chính sách tiền tệ mở rộng sẽ không tránh khỏi lạm phát gia tăng dẫn đến việc xung đột nguyên tắc ổn định giá. Từ đó nhận ra rằng đạt được ổn định giá mới là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hay nói cách khác mục tiêu cơ bản nhất của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, bên cạnh đó tập trung vào các mục tiêu kinh tế khác như tạo thêm việc làm, tạo sự nhịp nhàng giữa lao động sản xuất và việc làm trong ngắn hạn… nhưng không được xung đột với nguyên tắc cơ bản nhất là ổn định giá cả. Theo lời của nhà kinh tế học nổi tiếng F.Mishkin: “ Tập trung phát triển sức mạnh kinh tế sẽ đến sau khi thực hiện các phương pháp kiềm chế lạm phát, đối với các nước tiến hành kế hoạch hóa lạm phát… có thể kết luận rằng lạm phát mục tiêu sẽ củng cố quá trình phát triển kinh tế và thêm vào đó kiềm chế được lạm phát” Ưu việc cơ bản nhất của lạm phát mục tiêu là nó không bị can thiệp bởi các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3, tỷ giá). Một điểm khác biệt nữa so với các cơ chế điều hành khác là nó tạo cho NHTW một sự tự do và linh hoạt trong việc điều hành chính sách tiền tệ Đặc điểm của lạm phát mục tiêu: Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành chính sách tiền tệ dựa trên nền tảng việc sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục tiêu trung gian. Ngân hàng trung ương (NHTW) sẽ dự báo xu hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục tiêu ( là một con số cụ thể hay một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có trách nhiệm thực hiện bất kỳ một mục tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, NHTW có thể sử dụng bất kỳ công cụ nào để chỉ đạt một mục tiêu duy nhất là chỉ số lạm phát mục tiêu. Tuy nhiên không phải bất kỳ nước nào cũng có thể thực hiện được lạm phát mục tiêu. Kinh nhiệm từ các nước áp dụng lạm phát mục tiêu đã chỉ ra sự cần thiết phải có những điều kiện tối thiểu để áp dụng lạm phát mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ là: Lạm phát chỉ có thể áp dụng ở những nước mà ở đó có thể đảm bảo được lạm phát ở mức thấp không chỉ trên hình thức mà cả trên thực tế. NHTW cần có một mức độc lập tương đối để thực thi chính sách tiền tệ. Mắc dù trên thực tế không có một NHTW nào có thể hoàn toàn dộc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính phủ. Để thực hiện yêu cầu này, quốc gia cần từ bỏ nguyên tắc “ngân sách chi phối” cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khóa không được gây bất cứ ảnh hưởng nào đến chính sách tiền tệ và các thị trường tài chính trong nước phải có đủ độ sâu để “nuốt chửng” các đợt phát hành nợ của chính phủ. Chính phủ phải có cơ sở nguồn thu rộng rãi và không đưa vào hệ thống nguồn thu bù đắp của chính phủ là nguồn thu từ in tiền. NHTW phải có khả năng thực hiện lạm phát mục tiêu và không có trách nhiệm với bất kỳ mục tiêu khác như: tiền lương, mức thất nghiệp hay tỉ giá.. Lạm phát mục tiêu cũng có một số nhược điểm khi việc áp cụng không thỏa mãn một số điều kiện của nó: Khi năng lực điều tiết của chính sách tiền tệ không cao sẽ đẩy NHTW vào vòng lẩn quẩn trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lạm phát và khối lượng tiền) của chính sách tiền tệ. Khi áp dụng lạm phát mục tiêu , NHTW sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức trong việc thực hiện chính sách tiền tệ để đạt được chỉ số mục tiêu dựa trên dự báo chỉ số lạm phát do chính phủ đưa ra. Khi đó dự báo lạm phát được xem như là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ, vì vậy không ít người đã không đề cập đến lạm phát mục tiêu mà chỉ nói đến dự báo lạm phát mục tiêu. Quy trình thực hiện lạm phát mục tiêu: Quy trình của lạm phát mục tiêu khá đơn giản, bản chất của nó bao gồm: NHTW dự đoán xu hướng lạm phát năm sau, dự báo này được so với chỉ số mục tiêu mà NHTW mong muốn đạt được, khoảng cách chênh lệch giữa chỉ số dự báo và chỉ số mục tiêu sẽ nói lên mức độ mà chính sách tiền tệ cần điều chỉnh. Tuy nhiên trên thực tế vẫn đề kỹ thuật thực hiện quy trình này khá phức tạp và khác nhau ở các nước. Vấn đề kỹ thuật bao gồm: *Công bố mục tiêu lạm phát Khi tiếp cận với vấn đề công bố chỉ số lạm phát mục tiêu, có sự khác nhau rõ rệt giữa các quốc gia. Chỉ số lạm phát mục tiêu có thể do NHTW tự mình công bố như ở Phần Lan, Thụy Điển, Tây Ban Nha… cũng có thể là do thỏa thuận giữa NHTW và Bộ tài chính như ở Canada… Ở đâu tính độc lập của NHTW càng cao thì ở đó NHTW càng phải chịu trách nhiệm quản trị cơ chế lạm phát mục tiêu. Công bố lạm phát dự báo duy nhất sẽ giúp cho dư luận hiểu được sự mong muốn thực hiện được chính sách tiền tệ. Nếu không sẽ làm cho xã hội hiểu lầm về tính minh bạch của chính sách. *Xác định chỉ số lạm phát mục tiêu Tầm nhìn mục tiêu: Tầm nhìn mục tiêu chính là quãng thời gian mà quốc gia đó có thể đạt được và duy trì kế hoạch mục tiêu đã đề ra. Việc xác định tầm nhìn mục tiêu phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ lạm phát tại thời điểm bắt đầu thực hiện cơ chế lạm phát mục tiêu. Chỉ số giá cả: Hầu hết các nước áp dụng lạm phát mục tiêu đều dùng CPI làm công cụ nền tảng. Bởi CPI có những lợi thế riêng như : tính quãng bá rộng rãi đối với xã hội, được công bố và tính toán thường xuyên. 1.8Giới thiệu về giảm phát: Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm phát, do đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm. Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính thức, khi đề cập đến giảm phát, người ta vẫn đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn. 1.8.1 Nguyên nhân và tác hại: Nguyên nhân chính của giảm phát là do tổng cầu giảm, Có thể dùng sơ đồ AD-AS để minh họa điều này. Ban đầu tổng cầu tương ứng với đường AD. Điểm cân bằng của nền kinh tế là điểm E tại giao điểm của hai đường AD và đường AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng cầu giảm, đường AD dịch chuyển song song sang trái thành đường AD' cắt đường AS ở điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của nền kinh tế và so với điểm cân bằng cũ E, sản lượng và mức giá chung đều giảm. 1.8.2 Tác động tích cực và tiêu cực của giảm phát: Tác động tích cực: giảm phát tốt xảy ra trong môi trường cởi mở hơn , các mức giá bị nhà độc quyền đẩy lên cao nay phải giảm dưới áp lực cạnh tranh . - Một tình huống khác là trong thị trường tự do, những người sản xuất với năng suất cao hơn sẽ vươn lên , giá thành sản phẩm sẽ giảm xuống, giá hang giảm làm người tiêu dùng mua nhiều hơn, kết quả là giá thành mỗi đơn vị sản phẩm càng giảm. Tác động tiêu cực: giảm phát không tốt xảy ra khi giá giảm nhưng số hàng bán được không tăng. Các công ty phải giảm quy mô sản xuất và sa thải bớt công nhân. Trước nguy cơ mất việc, mọi người sẽ tiết kiệm nhiều hơn và chi tiêu ít hơn. Kết quả là giảm phát trở nên trầm trọng. -Dạng giảm phát tồi tệ hơn là khi các doanh nghiệp kém hiệu quả được trợ giá để tiếp tục hoạt động. Để cạnh tranh với các doanh nghiệp này, các công ty khỏe mạnh phải hạ giá bán và chẳng mấy chốc cũng trở nên ốm yếu. -giảm phát là tồi tệ nhất khi quá nhiều vốn và vốn vay ào ạt đổ vào một cách lạc quan , làm cho cung vượt xa cầu. Hàng không bán được nhưng nợ vẫn phải trả, cả các công ty tốt cũng có nguy cơ phá sản. 1.8.3Phòng và chống giảm phát: Để thoát khỏi tình trạng giảm phát, cần thực hiện chính sách tái khuếch trương tiền tệ thông qua các biện pháp như tăng lượng cung tiền, giảm thuế, hay điều chỉnh lãi suất. Phần 2. Lạm phát và chính sách điều hành lạm phát ở Việt Nam. (inflation and inflationary policies operating in VietNam) Trong những thập kỷ qua, đặc biệt là sau năm 1970, hầu hết các nuớc công nghiệp phát triển đều phải đuơng đầu với tình trạng lạm phát cao kéo dài trong một số năm và một số buớc kém phát triển thậm chí còn trải qua siêu lạm phát. Một loạt các nuớc Mỹ La- Tinh đã lâm vào lạm phát rất cao trong những năm 1980 do ảnh huởng của khủng hoảng nợ bùng nổ vào năm 1982. Việt Nam cũng như phần lớn các nuớc trong giai đoạn sau 1975 và đầu của quá trình chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị truờng đều trải qua lạm phát cao. Năm Tỷ lệ lạm phát (%) Tỷ lệ tăng trưởng (%) Năm Tỷ lệ lạm phát (%) Tỷ lệ tăng trưởng (%) 1986 774,7 2,84 1998 9,2 5,76 1987 223,1 3,63 1999 0,1 4,77 1988 393,8 6,01 2000 -0,6 6,79 1989 34,7 4,68 2001 0,8 6,89 1990 67,1 5,09 2002 4,0 7,08 1991 67,5 5,81 2003 3,0 7,34 1992 17,5 8,70 2004 9,5 7,79 1993 5,2 8,08 2005 8,4 8,4 1994 14,4 8,83 2006 6,6 8,2 1995 12,7 9,54 2007 12,6 8,5 1996 4,5 9,34 2008 22,97 6,23 1997 3,6 8,15 2.1 Lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 1986 -2008 2.2 lạm phát và tăng trưởng kinh tế việt nam 1991-2008 2.1 Việt Nam thời kỳ 1986 – 1990: Lạm phát ở Việt Nam đã có từ lâu song ở đây chúng tôi muốn nói đến thời kỳ 1981-1988 trong thời kỳ 1976-1980, lạm phát ở Việt Nam “ ngầm”, nghĩa là tuy chỉ số giá cả do nhà nước ấn định tăng không nhiều, nhưng chỉ số giá cả ở thị trường tự do tăng khá cao, mức tăng giá cả đã vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng, cũng như thu nhập quốc dân. 2.1.1 Thực trạng: Bước vào những năm 80, lạm phát đã bột phát “công khai”, và trở thànhlạm phát phi mã với mức tăng giá 3 chữ số. Lạm phát ở Việt Nam đã ở mức phi mã, năm cao nhất đã đạt tới chỉ sốtăng giá 557% vượt qua mức lạm phát phi mã. Song những biểu hiện và tác hại của nó không kém gì siêu lạm phát. Thứ nhất : từ bảng 2.1 ta thấy lạm phát ở việt nam thời kỳ này tăng cao và không ổn định. Thứ hai:tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh vì dân chúng không ai muốn giữ tiền, người ta bán xong hàng phải mua ngay hàng khác, hoặc vàng hoặc đô la, không ai dám giữ tiền lâu trong tay, vì tốc độ mất giá của nó quá nhanh. Thứ ba: Nhưng tiền lươ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthuyet_trinh_lam_phat_va_chinh_sach_dieu_hanh_lam_phat_o_viet_nam_20_5.doc
Tài liệu liên quan