Lời nói đầu 1
Phần 1: Lý luận chung về lạm phát. 2
1. Khái niệm 2
2. Phân loai lạm phát 2
2.1. Lạm phát vừa phải 2
2.2. Lạm phát phi mã 2
2.3. Siêu lạm phát 3
3. Sự phát triển của khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện đại 3
4. Nguyên nhân của lạm phát trong điều kiện hiên đại 4
4.1. Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách 4
4.2. Lạm phát do nguyên nhân chi phí 5
4.3. Lạm phát ỳ 7
4.4. Lạm phát cầu kéo: 8
4.5. Lạm phát chi phí đẩy 10
Phần 2: Lạm phát với tăng trưởng kinh tế trong thực tiễn
kinh tế ở Việt Nam 12
1. Lạm phát với tăng trưởng kinh tế trong những năm qua. 12
1.1.Giai đoạn 1988-1995. 12
1.2.Giai đoạn 1996-1999. 16
2. Vấn đề mới nảy sinh: giảm phát và ảnh hưởng của nó đối
với tăng trưởng kinh tế 17
2.1- Thực trạng vấn đề giảm phát 17
2.2- Nguyên nhân giảm phát 18
2.3- Các giải pháp kích cầu và hiệu quả áp dụng 20
Kết luận 23
Tài liệu tham khảo
25 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát và mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đôi khi được những kẻ bóc lột lợi dụng để bóc lột nhiều hơn nữa những người làm công ăn lương. Điều dễ dàng thấy nhất là khi lạm phát gia tăng, gía cả hàng hoá tăng nhanh hơn gia tăng tiền lương vì vậy mà các tư bản dễ dàng kiếm được lợi lộc do bán hàng. Đặc biệt để chạy đua vũ trang. Bù đắp chi phí quân sự thì các tổ hợp công nghiệp sản xuất vũ khí là có lợi nhiều nhất. Tuy nhiên không nhất thiết là lạm phát phải có lợi duy nhất cho những người bóc lột, và đôi khi nó lại là chính sách kích thích sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối lượng tiền trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất, kích thích sự tiêu dùng của Chính phủ và nhân dân. Vìvậynó kích thích sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên việc sử dụng chính sách như vậy là cần phait thận trọng vì nó dẫn đến sự quá đà đưa lạm phát tiến lên với tốc độ cao
4. Nguyên nhân của lạm phát trong điều kiện hiên đại
Lạm phát có nhiều nguyên nhân không giống nhau, vì vậy khái niệm về lạm phát cũng khác nhau
4.1. Lạm phát để bù đắp các thiếu hụt của ngân sách
Đây là nguyên nhân thông thường nhất do sự thiếu hụt ngân sách chi tiêu của Nhà nước (y tế, giáo dục, quốc phòng) và do nhu cầu khuếch trương nền kinh tế. Nhà nước của một quốc gia chủ trương phát hành thêm tiền vào lưu thông để bù đắp cho các chi phí nói trên đang thiếu hụt.
ở đây chúng ta thấy vốn đầu tư và chi tiêu của Chính phủ được bù đắp bằng phát hành, kể cả tăng mức thuế nó sẽ đẩy nền kinh tế đi vào một thế mất cân đối vựợt quá sản lượng tiềm năng của nó. Và khi tổng mức cần của nền kinh tế vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh tế (vì các yếu tố sản xuất của một nền kinh tế là có giới hạn) lúc đó cầu của đồng tiền sẽ vượt quá khả năng cung ứng hàng hoá và lạm phát sẽ xẩy ra, gía cả hàng hoá tăng lên nhanh chóng.
Nguyên nhân của lạm phát ở đây được xác định là lạm phát do cầu hàng hoá vượt khả năng cung. Hàng hoá bị săn đuổi bởi lượng chi tiêu quá lớn. Lạm phát do nguyên nhân cầu được thể hiện trên đồ thị của cung và cầu như sau:
P Q’
S
D’
D
P’ e‘
D1
P E
D1
S’
Sản lượng tiềm năng Q
Hình 1: Lạm phát do nguyên nhân cầu tăng vượt số lượng tiềm năng đường cầu DD1 vượt quá khỏi số lượng tiềm năng. Gía cả tăng từ P lên P’. Đường cung SS’ có độ dốc lớn và cân bằng cung cầu được lập lại ở một thế mới với gía cả là P’ đường cầu là D’D’1.
Bản chất của lạm phát do nguyên nhân cầu là chi tiêu quá nhiều trong lúc lượng cung hàng hoá bị hạn chế.
4.2. Lạm phát do nguyên nhân chi phí
Trong điều kiện cơ chế thị trường, không có quốc gia nào lại có thể
duy trì được trong một thời gian dài với công ăn viêc làm đầy đủ cho mọi người, gía cả ổn định và có một thị trường hoàn toàn tự do.
Trong điều kiện hiện nay, xu hướng tăng gía cả các loại hàng hoá và tiền lương công nhân luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn việc làm nhất định. Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy gía cả tăng lên ngay cả trong các yếu tố sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, lạm phát xẩy ra.
Lạm phát như vậy có nguyên nhân là do sức đẩy của chi phí sản xuất.
Vấn đề tại sao chi phí lại tăng lên? nhiều nhà kinh tế cho rằng tăng tiền lương là một nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên. Một số nhà kinh tế tư bản cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác cho rằng chính công đoàn ở nước tư bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc đoọ tăng của lạm phát và giữ không cho lạm phát giảm xuống quá nhanh khi nó giảm (A). Vì các hợp đồng lương của các công đoàn thuờng là dài hạn và khó thay đổi.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy rằng nếu tốc độ tăng tiền lương nhanh hơn tốc độ tăng của năng suất lao động sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên có nghĩa là chi phí tiền công trong một đơn vị sản phẩm tăng lên đã đẩy giá cả hàng hoá tăng lên. Thực chất ở các nền kinh tế tư bản khi các cuộc đấu tranh của công đoàn dạt được một thoả thuận về mức lương mới, thì các nhà tư bản lại tìm cách lấy lại khoản mà họ đã mất đi do tăng tiền lương cho công nhân bằng cách nâng giá bán hàng hoá lên.
Ngoài ra các cuộc khủng hoảng về các loai nguyên liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép...đã làm cho giá cả của nó tăng lên (vì hiếm đi) và điều đó đã đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Nói chung việc tăng chi phí sản xuất do nghiều nguyên nhân, ngay cả việc tăng chi phí quản lý hành chính như tiếp khách hay những chi phí ngoài sản xuất khác cũng làm cho chi phí sản xuất tăng lên và do vậy nó đẩy gía cả tăng lên.
Có thể nói nguyên nhân ở đây là sản xuất không có hiệu quả, vốn bỏ ra nhiều hơn nhưng sản phẩm thu lại không tăng lên hoặc tăng rất chậm so với tốc độ tăng của chi phí, lạm phát do sức đẩy chi phí được thể hiện trên đồ thị 2 như sau:
P s’1
D
s1
P’ e ’
S’
P e
D’
S
Số lượng tiềm năng Q
Hình 2. Trên sơ đồ ta thấy là cầu chưa đạt được đến sản phẩm tiềm năng. Đường cong cung có xu hướng di chuyển đi lên từ SS1 lên S’S’1 làm cho gía cả tăng lên.
4.3. Lạm phát ỳ
Lạm phát ỳ là một khái niệm của các nhà kinh tế tư bản, là lạm phát chỉ tăng với một tỷ lệ không đổi hàng năm trong một thời gian dài. ở những nước có lạm phát ỳ xẩy ra, có nghĩa là nền kinh tế ở nước đó có một sự cân bằng mong đợi, tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ được trông đợi và dược đưa vào các hợp đồng và các thoả thuận không chính thức. Tỷ lệ lạm phát đó được Ngân hàng Trung ương, chính sách tài chính của Nhà nước, giới tư bản và cả giới lao động thừa nhận và phê chuẩn nó. Đó là một sự lạm phát nằm trong kết cấu biểu hiện một sự cân bằng trung hoà và nó chỉ biến đổi khi có sự chấn động kinh tế xảy ra (tỷ lệ ỳ tăng hoặc giảm). Nếu như không có sự chấn động nào về cung hoặc cầu thì lạm phát có xu hướng tiếp tục theo tỷ lệ cũ.
P
D“
S”2
D ’
P’ e” s’1
D e ’’’
P’ S” e” s’1
S’
P e d”1
S
d’1
D1
Số lượng tiềm năng Q
(Hình 3)
Bằng hình ảnh trên đồ thị, chúng ta giả sử rằng sự tăng trưởng củatỏng sản phẩm quốc dân là không có. Thì khi lạm phát tăng với tỷ lệ hàng năm là 7% thì chi phí trung bình cũng tăng lên 7%. Chi phí tăng lên đẩy đến đường cung tăng lên dẫn đến gía cả và tiền lương tăng lên theo vòng xoáy trôn ốc
Lạm phát ỳ dẫn tới gía cả tăng lên hàng năm với một tốc độ như cũ (0,7%). Đường cong DD và SS cùng dịch chuyển lên trên với một tốc độ giống nhau hàng năm và kinh tế vĩ mô nhận những điểm cân bằng mới là E’ rồi EE”, EE’”...
4.4. Lạm phát cầu kéo:
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản lượng đã đạt hoặc vượt quá tiềm năng. Khi xảy ra lạm phát cầu kéo người ta thường nhận thấy lượng tiền không lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hóa. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng.
P1
P2
P3
P4
1’
2
3
4
Tổng sản phẩm Y
Yn
AD1
AD2
AD3
AD4
AS4
AS3
AS2
AS1
Y’
1
2’
3’
Chính sách tiền tệ lạm phát có thể xảy ra khi mục tiêu công ăn việc làm cao. Ngay khi công ăn việc làm đẩy đủ, thất nghiệp lúc nào cũng tồn tại do những xung đột trên thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp khi có công ăn việc làm đẩy đủ (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) sẽ lớn hơn 0. Nếu ấn định một chỉ tiêu thất nghiệp thấp dưới tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên sẽ tạo ra một địa bàn cho một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn và lạm phát phát sinh.
Tổng mức giá cả
Nếu những nhà hoạch định chính sách có chỉ tiêu thất nghiệp (giả sử 4%) thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (6%) thì họ sẽ cố gắng đạt được một chỉ tiêu sản phẩm lớn hơn mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm ký hiệu Y1. Giả sử ban đầu ở điểm 1, nền kinh tế ở mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm nhưng dưới mức chỉ tiêu sản phẩm Y1. Để đạt chỉ tiêu thất nghiệp 4%, các nhà hoạch định chính sách ban hành các chinh sách để tăng tổng cầu làm đường tổng cầu di chuyển đến AD2, nền kinh tế chuyển đến điểm 1’, sản phẩm ở tại Y1 và đạt mục tiêu thất nghiệp 4%. Vì tại Y1 tỷ lệ 4% thất nghiệp là dưới mức tỷ lệ tự nhiên nên lương sẽ tăng lên và đường tổng cung di chuyển vào đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang điểm 2. Nền kinh tế lại sẽ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 6% nhưng ở mức giá cả P2 cao hơn. Do thất nghiệp lại cao hơn mức chỉ tiêu, các nhà hoạch định chính sách sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt chỉ tiêu sản phẩm đến điểm 2’, toàn bộ quá trính ẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn. Kết quả là mức giá cả tăng đều dần và lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách không thể tiếp tục di chuyển đường tổng cầu thông qua chính sách tài chính do những giới hạn trong việc chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Do đó họ phải áp dụng chính sách tiền tệ bành trướng, do đó gây nên tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao.
Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tương đương là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm phát.
4.5. Lạm phát chi phí đẩy:
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy ra lạm phất ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình trệ”.
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản: xăng, dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng lên và sản lượng giảm xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân như thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh tế...
Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên.
Tổng mức giá cả
Tổng sản phẩm Y
AS1
AS2
AS3
AS4
AD4
AD3
AD2
AD1
4
3
2
1
P1
P2
P3
P4
2’
3’
1’
Yn
Y’
Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1. Giả định công nhân đòi tăng lương do họ muốn tăng lương thực tế hoặc do họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao nên đòi tăng lương để khớp với mức lạm phát. ảnh hưởng của việc tăng đó tương tự như một cú sốc cung tiêu cực làm đường tổng cung di chuyển vào đến AS2. Nếu chính sách tài chính, tiền tệ không thay đổi thì nền kinh tế chuyển tới điểm 1’ sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự
Mỹ do có thị trường chứng khoán nhà nước phát triển tốt nên có thể phát hành nhiều trái khoán để tài trợ thâm hụt. Tuy nhiên không phải thâm hụt tại Mỹ không có nguy cơ lạm phát bởi Fed có thể có mục tiêu ngăn chặn lãi suất cao. Khi chính phủ phát hành trái khoán để tài trợ thâm hụt có thể gây nên áp lực với lãi suất. Khi đó Fed có thể mua trái khoán để nâng giá trái khoán và ngăn chặn lãi suất tăng, kết quả là cung tiền tăng lên và gây phát sinh lạm phát.
Phần II. Lạm phát với tăng trưởng kinh tế
trong thực tiễn kinh tế ở Việt Nam
1. Lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong những năm qua.
1.1. Giai đoạn 1988-1995
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một gian đoạn mới, đó là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi, khống chế ở mức hợp lý. Liên tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm chế, đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn 1 chữ số. Đây là kết quả của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo xuống thì kinh tế vẫn tăng trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7 – 8%.
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát (tỷ lệ %)
Năm
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
Tăng trưởng
5,1
8,0
5,1
6,0
8,6
8,1
8,8
9,5
Lạm phát
410,9
34,8
67,2
67,4
17,2
5,2
14,4
12,7
Công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào những vấn đề: Nối lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hóa tiến trình ra các quyết định về kinh tế, thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung cầu ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu đồng thời thi hành một chính sách lãi suất thực dương, kết hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ương. Các giải pháp lúc đầu được tiếp nối với sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ tài chính đã nhanh chóng đem lại nhiều thành quả đáng khích lệ trong điều kiện kiểm soát được lạm phát. Cụ thể:
- Lòng tin của dân chúng vào đồng tiền Việt Nam đã từng bước được khôi phục. Tiền tệ ổn định khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tăng nhanh. Tích lũy đầu tư của cả nước năm 1993 bằng 17,6% GDP, tăng đáng kể so với tỷ lệ tích lũy 11 – 12% những năm trước.
Năm
GDP/người (Tr đồng)
Tốc độ tăng GDP (%)
Tốc độ tăng tiêu dùng (%)
Tỷ lệ tích lũy/GDP (%)
Tỷ lệ để dành/GDP (%)
1989
1990
1991
1992
1993
95
98
109
131
163
8,0
5,1
6,0
8,6
8,1
8,1
8,3
3,6
5,4
4,4
11,6
12,6
15,0
17,6
20,5
7,2
-
-
6,9
15,0
Nguồn: Tổng cục thống kê 1994
- Trong tổng số tích lũy năm 1993, tích lũy Nhà nước chiếm 43%, đầu tư trực tiếp nước ngoài 40%. Tỷ lệ đầu tư nước ngoài này tương đương tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào Singapo một nền kinh tế được coi là mở cửa rộng nhất ở Châu á hiện nay.
- Tỷ lệ tiền để dành của cả nền kinh tế trên GDP năm 1992 là 6,9%, năm 1993 là 15% GDP. Đây là một bước ngoặt lớn về tích lũy so với trước đây.
- Năm 1989, khi các cơ sở sản xuất nông nghiệp được phi tập trung hóa và giá nông sản được thả nổi, cùng với tác động của các yếu tố khác, chỉ trong vòng 1 năm Việt Nam đã từ chỗ phải nhập khẩu gạo đã trở thành một nước xuất khẩu gạo, thu nhập của nông dân tăng lên.
- Công cuộc chống lạm phát và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế đã được tạo điều kiện hết sức thuận lợi qua việc môi trường pháp lý đã từng bước được kiện toàn, đầu tư trong nước và nước ngoài tăng mạnh số doanh nghiệp làm ăn thu lỗ đã giảm hơn, tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế nhà nước không ngừng được nâng cao.
Mức độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm qua có được là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi và bị khống chế ở mức hợp lý. Điều này trái ngược hẳn với một số quốc gia khi chống lạm phát thường làm kinh tế suy thoái.
Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng nảy sinh nhiều khó khăn mới:
- Lạm phát giảm trong điều kiện nhập siêu vốn nước ngoài (chủ yếu là vay nợ) đã làm cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng lên giá so với một số đồng tiền khác, ảnh hưởng bất lợi đến việc khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong khi đó sản xuất trong nước bị chèn ép, cạnh tranh mảnh bời hàng nhập đặc biệt là hàng nhập lậu. Năm 1992 tỷ lệ hàng tích lũy phải nhập lên tới 63,7%, tỷ lệ sản phẩm trung gian dùng trong sản xuất phải nhập lên tới 25%. Cán cân thương mại do đó tiếp tục thâm hụt trong điều kiện đó việc tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ kích thích lạm phát gia tăng, gây khó khăn cho việc duy trì thành quả đạt được. Do đó giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế phải được tiếp tục. Năm 1994, mức lạm phát do quốc hội thông qua là 10% nhưng do một số nguyên nhân khách quan như giá cả thị trường thế giới tăng ảnh hưởng đến trong nước, thiên tai, bội chi ngân sách... đã khiến lạm phát vượt mức dự kiến 14,4%. Pphân tích đã chỉ ra rằng năm 1994 lạm phát tăng chủ yếu thuộc về khâu cung ứng hàng hóa, trong đó lương thực chiếm phần quan trọng. Trong một thời gian dài giá lương thực đã đứng mở mức thấp so với giá cả các mặt hàng khác nên gía lương thực tăng lên ở chừng mực nhất định là hợp lý và phản ánh đúng thực tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi gắn với nhiều bất ổn nên mức lạm phát có thể vượt quá so với mức dự kiến hàng năm. Mức lạm phát năm 1994 tuy không đạt kế hoạch nhưng có yếu tố có thể chấp nhận được. Nhiều nhà kinh tế cho rằng cần phải xác lập một tỷ lệ nhất định giữa tăng trưởng và lạm phát. Có ý kiến cho rằng phải kiềm chế lạm phát thấp, ổn định giá cả để phát triển kinh tế dù ở nhịp độ thấp nhưng ổn định lâu dài (các nước nhân NICS). Ngược lại có ý kiến lại cho rằng khuyến khích lạm phát mới tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và xuất phát điểm rất thấp so với các nước khác nên để tránh khỏi tụt hậu, kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm. Muốn vậy, Việt Nam có thể phải duy trì tỷ lệ lạm phát vài năm đầu cao hơn mức tăng trưởng trong nước một chút, kéo dần xuống những năm sau. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi hoàn toàn lạm phát. Tỷ lệ lạm phát ở mức dự tính hợp lý và có khả năng kiểm soát được để làm cơ sở cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ hàng năm nhằm giải quyết cùng lúc 2 mục tiêu là ổn định tiền tệ và đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, lâu dài.
1.2. Giai đoạn 1996-1999:
Những thành tựu kinh tế đạt được trong giai đoạn trước đặc biệt là tăng trưởng và lạm phát đã ghi nhận những kết quả đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ suy thoái, đạt mức tăng trưởng cao, liên tục và tương đối toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991-1995 là 8,2% và có khả năng tiếp tục tăng mạnh khi năm 1995 đạt tỷ lệ tăng trưởng 9,5% đã khiến các nhà hoạch định chính sách nghĩ đến việc phải kiềm chế tốc độ tăng trưởng cao quá đáng và đề ra những giải pháp cấp bách để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên từ năm 1996, cụ thể hơn từ 1997, xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức lạm phát của Việt Nam đã liên tục giảm. Đáng lưu ý là đã có mầm mống xuất hiện hiện tượng giảm phát thông qua chỉ số giá âm ở một vài tháng trong các năm 1996, 1997 và 1999. Tuy nhiên xét về chung và dài hạn, tuy tốc độ tăng trưởng có giảm sút song nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu ở xu hướng lạm phát với mức độ vừa phải, bình quân 6%/năm kể từ 1995-1999.
Năm
Tăng trưởng (GDP %)
Lạm phát (CPI)(%).
1995
9,5
12,7
1996
9,3
4,5
1997
8,2
3,7
1998
5,8
9,2
1999
4,8
0,1
2. Vấn đề mới nảy sinh: Giảm phát và ảnh hưởng của nó đối với tăng trưởng kinh tế:
2.1. Thực trạng vấn đề giảm phát:
Một điều có vẻ không bình thường là trong khi đang là giai đoạn phục hồi của các nền kinh tế bị khủng hoảng nặng ở Châu á thì kinh tế Việt Nam lại đang trên đà đi xuống. Việc đi xuống này rất khó hãm lại và việc đưa nền kinh tế trở lại mức tăng trưởng dù chỉ ở mức trên dưới 6% đã rất khó khăn. Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 1999 chỉ đạt 4,3 % trong khi chỉ số giá giảm liên tục. Mức lạm phát 9 tháng chỉ là 0,2% trong 6 tháng đầu năm 1999, trừ 2 tháng 1 và 2 là hai tháng giáp tết, giá cả diễn biến hợp quy luật, 4 tháng còn lại chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tiếp mang dấu âm.
Tháng 1: 1,7% Tháng 4: -0,6%
Tháng 2: 1,9%; Tháng 5: - 0,4%
Tháng 3: - 0,7%; Tháng 6: -0,3%
Mức lạm phát 6 tháng đầu năm 1999 là 1,6% thấp hơn nhiều cùng kỳ năm 1998 (6%). Giảm phát xuất hiện đã gây thêm khó khăn cho nền kinh tế vốn đang trì trệ. Trong khoảng 7/99, các hoạt động kinh tế chưa có sự chuyển biến tích cực. Chỉ số giá cả tháng 7 tiếp tục giảm 0,4% làm cho tỷ lệ lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 chỉ ở mức 1,2%.
Giảm phát sẽ gây ra nguy hại cho nền kinh tế nếu nguyên nhân do mức cầu giảm năng lực sản xuất dư thừa và mức cung ứng tiền thu hẹp. Khi ấy giảm phát sẽ gây ra những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ trì hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm lý này sẽ làm giảm mức cầu xã hội buộc các nhà sản xuất phải liên tục giảm giá hàng. Nếu kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng kéo ngân hàng đến bờ phá sản. Nó còn làm các khoản thu ngân sách giảm sút, kìm hãm tốc độ trăng trưởng kinh tế. Nguy hại hơn là giảm phát có thể vô hiệu quá chính sách lãi suất một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2. Nguyên nhân giảm phát.
Giảm phát là hiện tượng thị trường bị chi phối bởi hai yếu tố cung và cầu. Thực chất của nó trong trường hợp Việt Nam tại thời điểm năm 1999 là tình trạng cung ngày càng vượt xa cầu.
a.Các nguyên nhân về phía cung:
Trước hết cần khẳng định rẳng không hề có sự dư thừa cung nói chung mà chỉ là sự dư thừa cung trong cơ cấu. Tình trạng ứ đọng sản phẩm sản xuất cầm chừng không xảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế, với tất cả các ngnàh, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi khu vực mà chỉ xảy ra cho một số sản phẩm, một số ngành hẹp và tập trung vào một số doanh nghiệp thuộc một vài khu vực nhất định. Khi bị đẩy tới mức nghiêm trọng thì hiệu ứng của nó lan tỏa sang toàn bộ nền kinh tế khi đó nó gây ra cảm giác dư thừa cung toàn bộ. Cụ thể nhiều sản phẩm bị tồn kho nhiều nhât chính là những ngành được ưu tiên phát triển trong những năm gần đây như xi măng, đường, thép, gạch ốp lát. Những ngành sản phẩm bắt đầu bị ứ đọng từ năm 1988 thì sang 1999 duy trì mức tăng trưởng thuộc loaị cao nhất, làm cho cung cầu thị trường đối với chúng trở nên gay gắt hơn. Hầu hết những doanh nghiệp chịu hậu quả nặng nề nhất thuộc khu vực kinh tế nhà nước. Hiện tượng “thừa cung” trong lĩnh vực dịch vụ là hậu quả trực tiếp của tình trạng “thiếu cầu” do mức thu nhập dân cư trong nước giảm và do tác động của khủng hoảng. Như vậy nguyên nhân ách tắc thị trường năm 1999 là do sự mất cân đối mang tính cơ cấu, chiến lược đầu tư không phù hợp, phản ứng chính sách chưa kịp thời vẫn tiếp tục duy trì mức đầu tư, tăng trưởng cao cho những sản phẩm khó tiêu thụ, làm gia tăng thêm tình trạng mất cân đối cung cầu.
Ngoài ra cũng có những nguyên nhân bên ngoài như xu hướng giảm giá toàn cầu trong đó có giá các sản phẩm xuất khẩu và thay thế nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng giảm phát của nước ta trong năm 1999.
b. Các nguyên nhân về phía cầu:
Tổng cầu suy giảm là nguyên nhân làm tăng thêm tình trạng mất cân đối thị trường. Nó bắt nguồn từ một số lý do.
Thứ nhất: số lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng nhanh là yếu tố quan trọng hàng đầu làm giảm thu nhập dân cư đặc biệt là trong ngành than (8 vạn lao động không đủ việc làm) và ngành mía đường (40 vạn lao động bị ảnh hưởng về việc làm và thu nhập).
Thứ hai: mức giá nông sản nội địa giảm nhanh hơn mức tăng sản lượng làm chi phí sản xuất của nông dân tăng nhanh hơn thu nhập. Cả tổng thu nhập và hiệu quả hoạt động trong nông dân đều giảm.
Thứ ba: sự giảm sút thu nhập làm cho việc chi tiêu của dân cư có xu hướng tăng tỷ phần chi tiêu vào các mặt hàng tiêu dùng tối thiểu với giá rẻ, chất lượng phải chăng làm giảm sức mua đối với các sản phẩm cao cấp hoặc mang tính đầu tư, mua hàng nhập lậu tăng.
Thứ tư: trong điều kiện thu nhập giảm người dân vẫn gửi tiền tiết kiệm vào các ngân hàng hơn là giữ lại để chi tiêu. Do lòng tin vào triển vọng kinh tế ít sáng sủa trong thời gian tới thúc đẩy dân cư gửi tiền như các bảo đảm cho tương lai hơn là mua hàng để tiêu dùng hiện tại.
Ngoài những nguyên nhân kể trên, một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó là việc đề ra và thực hiện các giải pháp để đối phó với tình trạng giảm phát nêu trên thường ít chú ý đến tính hệ thống và phản ứng dây chuyền, dễ triệt tiêu lẫn nhau. Vì vậy tình hình không được khắc phục mà tiếp diễn trong suốt thời gian khá dài. Điểm này sẽ được xem xét kỹ hơn trong mục tiếp theo: “Các giải pháp kích cầu và hiệu quả áp dụng”.
2..3. Các giải pháp "kích cầu" và hiệu quả áp dụng:
Trong năm 1999, nỗ lực chính sách lớn nhất là áp dụng các giải pháp “kích cầu” nhằm khắc phục tình trạng giảm phát. Những giải pháp được coi là mạnh nhất trong số đó là 4 lần giảm lãi suất, tăng đầu tư nhà nước, tăng lương cho người lao động trong khu vực nhà nước bằng cách giảm ngày làm việc. Tuy nhiên thực tế cho thấy hiệu quả áp dụng các giải pháp này là rất thấp. Thị trtường hầu như không có phản ứng gì tích cực đối với các giải pháp vốn được coi là hết sức nhạy cảm trong điều kiện bình thường của kinh tế thị trường.
Năm 1999, ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất trần 4 lần và nới lỏng các điều kiện tín dụng. Mục đích của hành động này về cơ bản là xuất phát từ động cơ kích cầu (khuyến khích vay để chi tiêu và đầu tư). Mặt khác hạ lãi suất trước hết là phản ứng thuần túy thị trường khi mức lạm phát giảm mạnh. Vì vậy việc hạ lãi suất bị động cơ khách quan (giảm mức lạm phát) triệt tiêu sức kích thích của động cơ chủ quan (khuyến khích vay). Đây là lý do đầu tiên giải thích tại sao sau những lần hạ lãi suất khối lượng vay ngân hàng của các doanh nghiệp hầu như không tăng, vốn vẫn ùn đọng trong hệ thống ngân hàng, dân chúng vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng.
Về phía các doanh nghiệp đa số doanh nghiệp đang thực sự thiếu cơ hội đầu tư hơn là thiếu vốn. Sự ách tắc thị trường đã đến mức làm triệt tiêu đáng kể cơ hội và mong muốn gia tăng đầu tư để thoát khỏi tình thế bế tắc trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy điều cần suy nghĩ là giảm lãi suất có phải là một công cụ mạnh để tăng cơ hội đầu tư của doanh nghiệp hay không. Việc ngân hàng hạ lãi suất trần 4 lần song kết quả vẫn chưa thu được là bao chứng tỏ nguyên nhân không phải ở lĩnh vực tiền tệ, do đó công cụ lãi suất hoạt động không có hiệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0813.doc