MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT 2
I. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT 2
1. Khái niệm 2
2. Phân loại lạm phát 3
3. Nguyên nhân của lạm phát. 7
II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT. 17
1. Lạm phát và lãi suất thị trường: 17
2. Lạm phát và thu nhập thực tế. 17
3. Lạm phát và phân phối thu nhập. 18
4. Tác động khác của lạm phát: 18
III. NHỮNG BIỆN PHÁP KÌM CHẾ VÀ KHẮC PHỤC LAM PHÁT. 19
PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LẠM PHÁT TRONG
CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 19
I. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT ĐÃ XẢY RA CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI. 19
1. Lạm phát ở các nước Châu Mỹ Latinh: 19
2. Siêu lạm phát của Đức 1921 - 1923: 21
3. Lạm phát ở các nước thuộc khối OCED: 22
4. Lạm phát ở các nước Châu Á: 23
5. Lạm phát ở Pháp: 24
6. Lạm phát ở Mỹ: 24
7. Lạm phát ở Việt Nam: 25
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT ĐÃ THỰC HIỆN
Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI. 30
1. Thái Lan: 30
2. Nhật Bản: 31
3. Mỹ: 32
4. Bốn con rồng Châu Á: 32
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM -
NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC 36
1. Một số biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam: 36
2. Những thành tựu đạt được: 39
KẾT LUẬN
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4559 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát và một số biện pháp khắc phục lạm phát trên thế giới và ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền tệ kéo cả lạm phát và lãi suất xuống khi không có sự can thiệp của ngân hàng trung ương. Nhưng cái giá phải trả là tiềm năng sản xuất bị lãng phí, số việc làm giảm và đời sống nhân dân thêm khó khăn.
2. Lạm phát và thu nhập thực tế.
Lạm phát tăng cao làm giảm thu nhập thực tế của người lao động, giảm giá trị của tài sản không sinh lãi. Có lạm phát không cân bằng, lạm phát làm giảm giá trị của những tài sản sinh lãi.
Giả sử ta có 1.000.000đ cho vay (gửi ngân hàng, mua trái phiếu Chính phủ) với i = 10%/năm, tổng số thuế thu nhập 30%.
Giả sử tỷ lệ lạm phát = 0 ị lãi suất thực tế = 10%, thuế thu nhập từ tiền lãi là 10% x 1.000.000đ = 100.000đ, thu nhập thực tế sau thuế là:
100.000đ - 30% x 100.000đ = 70.000đ
Giả sử tỷ lệ lạm phát = 10% khi đó:
ã Lãi suất danh nghĩa 20%, thu nhập danh nghĩa từ tiền lãi là 200.000đ, thuế thu nhập = 30% x 200.000đ = 60.000đ, thu nhập danh nghĩa sau thuế 200.000đ-60.000đ = 140.000đ ị thu nhập thực tế sau thuế = 140.000đ - 10% x 1.000.000đ = 40.000đ.
ã Lãi suất thực tế 10% ị thu nhập thực 100.000đ, thuế thu nhập 30% x 100.000đ = 30.000đ ị thu nhập thực sau thuế là 70.000đ.
Bởi vì mức thuế thì được ấn định cho cả năm hoặc nhiều năm nên trong thời gian ngắn nó rất khó điều chỉnh, trong khi lạm phát có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Vì vậy, vô hình chung, khi lạm phát xảy ra càng chất thêm gánh nặng thuế thu nhập và các loại thuế khác lên người bạn. Kết quả là lạm phát càng cao, thu nhập thực tế của nhân dân càng giảm, đời sống của họ khó khăn hơn ngay cả khi lãi suất và tiền lương được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát.
3. Lạm phát và phân phối thu nhập.
Lạm phát gây ra tình trạng phân phối thu nhập không bình đẳng trong xã hội. Ví dụ: ta có 1.000.000đ cho vay:
+ Lạm phát dự tính là 10%, i = 20%, thì sang năm ta rút về được 1.000.000đ + 1.000.000đ x 20% = 1.200.000đ, mua hàng hoá với giá như năm trước là 1.100.000đ do đó lãi 100.000đ.
+ Lạm phát dự toán là 30%, i = 20%, người cho vay bị thiệt 100.000đ, người đi vay mua hàng hoá được 100.000đ.
Thông thường đối tượng đi vay là các nhà doanh nghiệp, thành phần cho vay cuối cùng là nhân dân với các khoản tiền tiết kiệm nhỏ bé của họ. Lạm phát làm cho các nhà kinh doanh có được phần thu nhập tăng thêm do thiệt hại của các thành phần nhân dân nghèo. Đời sống nhân dân lao động đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Những người thừa tiền và giàu có thì sao? Lạm phát bất thường kéo họ vào thị trường đầu cơ tài sản và hàng hoá. Trong khi người dân không có tiền để mua sắm hàng hoá tiêu dùng cho một tháng thì những người thừa tiền và giàu có có thể mua hàng núi hàng hoá để tích trữ, chờ giá lên tung ra bán. Chính sự đầu cơ này càng làm cho cung hàng hoá khan hiếm một cách giả tạo và giá cả càng lên cơn sốt. Cuối cùng là nhân dân lao động không mua nổi ngay cả hàng tiêu dùng cần thiết để sống trong khi những kẻ đầu cơ bán ra hàng hoá với giá rất cao và càng trở lên giàu có hơn.
Lạm phát như thế có thể dẫn đến rối loạn kinh tế và làm cho hố ngăn cách giàu nghèo lại càng mở to hơn. Quá trình phân phối lại thu nhập do lạm phát thường là không hợp lý và làm tăng thêm sự bất bình đẳng.
4. Tác động khác của lạm phát:
Làm tăng khoản nợ quốc gia, biến động kinh tế xã hội, gây ra tâm lý bất ổn định trong nhân dân,...
III. Những biện pháp kìm chế và khắc phục lam phát.
Để đấu tranh chống hiện tượng lạm phát, người ta có thể tác động vào quan hệ cung cầu, vào chi phí và các phản ứng tâm lý. Tác động vào quan hệ cung cầu: muốn chống lạm phát phải quản lý cầu, để cân đối tiền hàng trong nền kinh tế thường được thực hiện bằng việc tăng cung (khuyến khích sản xuất, khuyến khích cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng của sản xuất,...) hoặc điều tiết khống chế cầu, hoặc đồng thời cả hai biện pháp đó. Song việc tăng cung rất khó khăn và đòi hỏi phải có thời gian dài, trong khi lạm phát luôn ở trạng thái động và luôn tạo ra hiện tượng cầu ngày càng lớn hơn cung, do đó biện pháp có tính khả thi nhanh chóng là khống chế và điều tiết cầu. Khống chế và điều tiết cầu bằng cách giảm chi ngân sách, thắt chặt tín dụng, tăng thuế, khuyến khích tiết kiệm.
Tác động vào chi phí: thực hiện việc đa dạng hoá các nguồn cung ứng vật tư, tiết kiệm nguyên liệu, thực hiện việc kiểm soát giá cả và tiền lương.
Tác động vào tâm lý: thông tin đầy đủ cho nhân dân về giá cả và chất lượng hàng hoá, công bố các biện pháp tác động của ngân hàng và Chính phủ.
Lạm phát là hiện tượng kinh tế phức tạp, đa nhân tố và luôn ở trạng thái động. Do các biện pháp chống lạm phát phải là một hệ thống đồng bộ bao gồm các biện pháp về kinh tế hành chính, tâm lý,... các biện pháp cấp bách và lâu dài.
phần II
những vấn đề về lạm phát trong các nước trên thế giới
I. Tình hình lạm phát đã xảy ra của một số nước trên thế giới.
Lịch sử phát triển kinh tế xã hội đã đạt được những thành tựu vượt bậc trong thế kỷ XX này, nhưng cũng đồng thời thế kỷ XX đã xuất hiện những cuộc lạm phát điển hình mà xã hội loài người đã phải đối đầu.
1. Lạm phát ở các nước Châu Mỹ Latinh:
Những đợt có lạm phát lớn nhất là những thời kỳ siêu lạm phát, Chilê đã có siêu lạm phát vào những giai đoạn cuối của Chính phủ Agienle trong cuối những năm 1970 và mức lạm phát của Bolivia đã lên tới 11.000% vào năm 1985. Quả là những thời kỳ lạm phát run người.
Đồ thị đã phác hoạ tỷ lệ lạm phát bình quân của một nhóm nước Châu Mỹ Latinh trong thời kỳ 10 năm (1980-1990) đối lại với mức tăng trưởng tiền tệ bình quân cũng trong thời kỳ đó. Đồ thị chứng minh rằng lạm phát cao tại những nước đó nói chung là đi liền với mức tăng trưởng tiền tệ cao.
Hình 3
Người ta tin một cách phổ biến rằng có một cái gì đó về cơ cấu trong nền kinh tế Châu Mỹ Latinh (Liên đoàn lao động chiến đấu, hệ thống chính trị) không ổn định gây lên lạm phát cao. Thực tế lạm phát ở Châu Mỹ Latinh là đa dạng: một số nước Châu Mỹ Latinh như Hondura, có tỷ lệ lạm phát bình quân năm dưới 10% trong thời kỳ đó, trong khi tại các nước khác như Argentine, Brazin, Peru, tỷ lệ lạm phát là trên 200%. Tỷ lệ lạm phát ở các nước Châu Mỹ Latinh đổi lại với mức tăng trưởng cung tiền tệ cho thấy là những nước có tỷ lệ lạm phát rất cao cũng có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất. Chứng cứ về các nước Châu Mỹ Latinh cũng như các nước khác trên thế giới dường như bảo vệ cho ý kiến rằng: lạm phát cực kỳ cao là kết quả của tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao. Tuy nhiên cũng lưu ý rằng ta đang nhìn vào một chứng cứ rút gọn, nó chỉ nhằm vào mối tương quan giữa hai biến số: tăng trưởng tiền tệ và tỷ lệ lạm phát. Lạm phát gây nên tăng trưởng cung tiền tệ hoặc một nhân tố thứ ba thúc đẩy cả tăng trưởng tiền tệ và lạm phát.
Ta có thể nhìn vào những giai đoạn lịch sử mà lúc đó mức tăng trưởng tiền tệ tăng lên thể hiện là một sự kiện ngoại sinh, do vậy một tỷ lệ lạm phát cho một thời kỳ kéo dài đi tiếp theo sau mức tăng của tăng trưởng tiền tệ sẽ cho ta biết tăng trưởng tiền tệ cao là một động lực đằng sau lạm phát.
2. Siêu lạm phát của Đức 1921 - 1923:
Đức đã thất bại trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, kinh tế bị tàn phá nặng lề với mức sản lượng thấp và nguồn thu thấp từ thuế, đã gia tăng thêm bởi những khoản bồi thường mà Đức phải nộp cho các nước thắng trận. Lạm phát đã bùng ra ngay sau khi chiến tranh chấm dứt. Rồi đến quân đội Pháp chiếm đóng vùng Ruhr (3-1923) làm nảy ra cuộc "kháng cự thụ động" cũng là yếu tố làm cho đồng tiền của Đức mất giá nhanh. Chỉ trong vài tháng đồng Mác của Đức đã mất toàn bộ giá trị trên thị trường hối đoái.
Từ 1921 đồng Mác không còn được dùng làm tiền dự trữ có giá trị, cuối năm 1922 mở ra giai đoạn 2. Đồng Mác không còn là đơn vị đo lường giá trị, đồng Đôla đang dần chiếm vị trí của đồng Mác trước đây. Đồng Mác chỉ còn giữ lại phần nào chức năng tối thiểu làm trung gian trong việc trao đổi.
Cuối cùng năm 1922 người ta không tính bằng đồng Mác mà căn cứ vào số lượng vật chất của hàng hoá, đến tháng 8-1923 chẳng còn ai nghĩ đến chuyện đầu tư góp vốn, nạn thất nghiệp tràn lan. Thực tế ngày 5-11-1923, 1 đồng Đôla Mỹ trị giá 42.109 Mác, tốc độ lưu hành nhanh đến mức tiền lưu thông tính bằng Mác - vàng trở thành con số không, từ 6 tỷ Mác vàng năm 1913 đến tháng 10 năm 1923 chỉ còn là 0,3 tỷ.
Ta có thể biểu diễn tình hình lạm phát của Đức bằng biểu sau:
Hình 4
Nguồn: số liệu trích từ CIH Die Deutsche 1914 - 1923 Walterde Gruyter-1980
Chính phủ Đức có thể tăng thu để chi trả cho chi tiêu tăng lên đó bằng cách tăng thuế nhưng biện pháp này như thường thấy, về mặt chính trị là không hợp lòng dân và đòi hỏi nhiều thời gian để thực hiện. Chính phủ cũng có thể vay của công chúng để trang trải cho chi tiêu đó nhưng số tiền cần vay vượt quá khả năng cho vay. Chỉ còn lại con đường duy nhất đó là máy in tiền, Chính phủ có thể trang trải cho những chi tiêu của mình một cách đơn giản bằng cách in thêm được nhiều tiền giấy (tăng cung tiền tệ) và dùng tiền đó để trả cho các cá nhân hoặc công ty đã cung cấp cho Chính phủ hàng hoá và dịch vụ.
Cuối năm 1921, cung tiền tệ bắt đầu tăng nhanh và mức giá cả cũng vậy. Năm 1923 tình hình ngân sách của Chính phủ Đức lại càng xấu đi hơn nữa. Đó là nhân quả ngược rất vô lý và rất khó mà hình dung được một nhân tố thứ ba có thể có một động lực thúc đẩy đằng sau lạm phát và sự bùng nổ cung tiền tệ.
3. Lạm phát ở các nước thuộc khối OCED:
Nửa sau thế kỷ XX thì lạm phát lại xảy ra ở các nước thuộc khối OCED, ở các nước này lạm phát đều ở dưới hai con số, ở tỷ lệ thấp. Nguyên nhân hầu hết của các cuộc lạm phát ở giai đoạn đỉnh điểm (những năm cuối thập kỷ 70) là đều do giá dầu mỏ tăng cao. Dưới đây là bảng lạm phát trong một số nước chủ yếu thuộc khối OCED (1953 - 1991).
Các nước
1953-1959
1960-1968
1968-1973
1973-1979
1979-1983
1983-1986
1987
1988
1989
1990
1991
Mỹ
2,1
2,4
5,1
7,6
7,5
3,4
3,1
3,3
4,1
4,2
4,5
Nhật
3,4
5,2
6,9
7,8
1,9
1,3
-0,3
0,6
1,5
2,7
2,6
Đức
1,8
3,1
6,3
4,7
4,1
2,6
2,0
1,5
2,5
3,0
3,4
Pháp
4,8
4,0
6,4
10,5
11,6
6,7
2,8
3,0
3,4
3,3
2,8
Anh
3,4
3,7
7,5
16,0
10,8
4,6
5,0
6,5
6,7
4,9
5,6
Italia
2,4
4,3
7,2
17,0
18,0
10,6
6,1
6,1
6,3
5,9
5,5
Canada
1,6
2,6
5,3
10,1
9,4
3,6
4,1
4,1
4,8
4,1
4,2
Chung
2,7
3,1
5,9
8,6
7,6
3,8
2,9
2,9
3,7
3,8
3,9
Nguồn: - Tài liệu gốc - OCED tạp chí kinh tế tháng 1 - 1983.
- Viễn cảnh kinh tế của OCED, 5-1986, 12-1987, 6-1990.
4. Lạm phát ở các nước Châu á:
Các nước ở Châu á thuộc nhóm các nước ASEAN đã áp dụng các biện pháp tài chính tín dụng mềm dẻo, linh hoạt đã góp phần hạn chế tốc độ lạm phát; nhờ vậy nền kinh tế ở các nước này đang dần đi vào ổn định và phát triển. Lạm phát ở Thái Lan năm 1980 là 20%, đến năm 1981 là 12,7%, năm 1983 là 3,8%, năm 1995 là 5,4% và theo dự đoán đến năm 1996 là 5,3%.
Lạm phát ở Inđônêsia năm 1967 là 650% giảm xuống còn 9% năm 1990; 9,25% năm 1995, dự đoán 8,45% năm 1996.
Lạm phát ở Philipin năm 1990 là 12,5%; 8,55 năm 1995; dự đoán 7,8% năm 1996.
Lạm phát ở Singapor là 2,4% năm 1990, dự đoán vẫn giữ mức lạm phát 2,4% năm 1996.
Có thể tự hào với sự ổn định của mức lạm phát của các nước trong nhóm ASEAN, đó là nhờ các nước này áp dụng rất nhiều các biện pháp hòng đẩy lùi lạm phát như Malaysia đề ra biện pháp chống lạm phát: tăng tỷ lệ lãi suất tiền gửi và tiền cho vay ngân hàng, ấn định số lượng tiền mặt dự trữ, giới hạn tín dụng cao nhất đối với các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính, khuyến khích hạn chế tiêu dùng,... Còn ở Thái Lan năm 1990 đề ra giải pháp là ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng thương mại giảm mức cho vay ngân hàng, lãi suất chiết khấu lên tới 12% và tiếp tục tăng lãi suất trần lên 16,5%. Đó cũng là những giải pháp hay mà Việt Nam cần nghiên cứu và học tập.
5. Lạm phát ở Pháp:
Do thiếu thốn sau lạm phát ngay sau chiến tranh, sự căng thẳng của giá nguyên liệu do chiến tranh Triều Tiên gây lên làm lạm phát tăng vọt 1951-1952. Tiền lương danh nghĩa tăng tiếp tục với một nhịp điệu nhanh ở Pháp vào năm 1982 (khoảng 15% trung bình trong thập niên 1973-1982). Lãi hiệu suất vẫn kém vào đầu những năm 80, giá đơn vị nhân công tắc khoảng 12% năm 1982, tức bằng khoảng 2 lần ở Mỹ, 3 lần ở Đức, trong lúc đó ở Nhật giảm.
Nhưng từ năm 1983 thay đổi chính sách kinh tế "theo đường lối cứng rắn" của Chính phủ cánh tả theo đuổi, sẽ giảm đáng kể việc tăng lương khoảng 3,5% năm 1989-1990 so với gần 15% giữa 1973 và 1982. Trong trường hợp nước Pháp, người ta thấy rằng giảm lạm phát được giải thích hầu như chỉ bằng hai biến lượng này (bằng 91% tổng chi phí sản xuất).
6. Lạm phát ở Mỹ:
Dẫn chứng về tình hình lạm phát tăng năm 1960-1980. Đầu thời kỳ thì tỷ lệ lạm phát là 1%, còn vào những năm cuối 1970 thì trung bình vào khoảng 8%. Những tư tưởng của các "nhà kinh tế cung ứng" như Laffer, Feldstein, Boskin ở thời chính sách tổng thống Reagan:
- Lạm phát là do một sự tăng lên không ngừng của thâm hụt công cộng, dẫn đến phát hành tiền tệ quá nhiều và sự tăng dần thuế khoá. Nhưng việc này sẽ làm giảm khả năng cung ứng sẵn có. Thật vậy, những người cung cấp các yếu tố sản xuất sẽ kém hứng thú sản xuất nếu họ phải đóng thuế nhiều hơn, đặc biệt những người làm công ăn lương thích nhàn rỗi hoặc làm việc nhà hơn. Hơn nữa, chính sách thuế đụng chạm đến tiền lãi tiết kiệm, điều này sẽ làm cho người ta rút tiền ra tiêu ngay và do đó làm cho lượng tiền để dành sẵn có giảm đi. Vì vậy, việc cấp vốn cho đầu tư sản xuất sẽ trở nên khó khăn và đắt đỏ hơn.
- Sự phình chi tiêu của Nhà nước do chuyển một phần của cải vào những công việc không sinh lợi hoặc ít sinh lợi (chỉ tiêu hành chính, chuyển dịch xã hội, cứu tế, tài trợ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn) mà phần này cứ tăng dần lên. Nếu Nhà nước không áp dụng những biện pháp thu bắt buộc để cấp vốn cho những việc đó thì người ta sẽ tìm đến những khu vực cạnh tranh tư nhân để được cung ứng những hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn cho mọi người.
- Việc giảm thuế không những chỉ giảm chi phí sản xuất của các doanh nghiệp; nó cũng tạo ra một trạng thái tâm lý mới trong những gia đình ít được cứu tế; họ biết rằng từ nay, mức sống của họ phụ thuộc trực tiếp hơn vào lượng lao động họ bỏ ra và vào chính sự năng động của họ: khả năng tự đào tạo, quay vòng, thay đổi hoạt động hoặc thay đổi vùng.
7. Lạm phát ở Việt Nam:
Lạm phát ở Việt Nam là lạm phát "ngầm", nghĩa là tuy chỉ số giá cả do Nhà nước ấn định tăng không nhiều nhưng chỉ số giá cả thị trường tự do tăng khá cao. Đó là do đất nước phát triển theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, giá cả được phân phối theo tem phiếu; Vì vậy, lạm phát hầu như không bộc lộ trong thời gian 1976-1980 giá tổng sản lượng tính theo giá năm 1982 là 58%, thu nhập quốc dân tăng 262 lần, mức tăng giá đã vượt quá xa mức tăng giá trị tổng sản lượng cũng như thu nhập quốc dân.
Thời kỳ sau năm 1980 lạm phát bắt đầu bộc lộ rõ, cho thấy mức lạm phát "ngầm" của nước ta ở mức rất cao, chúng bộc lộ ở mức phi mã tới mức ba con số, để thấy rõ mức tăng lạm phát trong giai đoạn này, ta xem xét chỉ số bán lẻ sau đây:
Năm
Thị trường Nhà nước kiểm soát
Thị trường tự do
1981
202,0
147,4
1982
207,2
156,0
1983
142,8
157,7
1984
155,8
176,3
1985
210,9
154,7
1986
557,4
682,3
1987
389,9
429,2
1988
313,2
400,0
Giá cả thị trường ở đây do Nhà nước quy định, thị trường do Nhà nước quản lý đã tồn tại ở nước ta từ lâu ở một số mặt hàng. Theo bảng số liệu này ta thấy từ năm 1981-1988 lạm phát ở nước ta luôn đạt ở mức ba con số, mới chỉ là một mức lạm phát phi mã nhưng xét về tác hại của chúng không kém gì siêu lạm phát.
+ Thứ nhất: lạm phát của ta luôn cao hơn 100%
+ Thứ hai: mức tăng giảm thất thường, năm 1981 là 202,0%, 1983 là 143%, năm 1986 là 113,2%.
Đây là một dạng lạm phát đáng sợ nó làm mất lòng tin của dân vào giá trị của đồng tiền, bản thân đồng tiền bị mất giá; tốc độ lưu thông tiền mặt tăng lên, tiền lương thực tế của dân cự bị giảm mạnh ở Việt Nam năm 1988 trong khi mức giá vẫn cứ tăng hàng năm. Trước năm 1985 mức giá tăng do Nhà nước quy định không lớn tuy mức giá ở thị trường tự do cao hơn, Nhà nước lại không bù giá vào lương lên tiền lương thực tế bù vào giá càng giảm. Còn từ 1986 Nhà nước lại không kiểm soát được giá cả trên thị trường tự do, nó luôn tăng cao hơn mức giá mà Nhà nước bù giá. Hơn nữa Nhà nước lại không cung cấp đủ hàng hoá theo giá Nhà nước, chính vì vậy nhân dân phải mua chúng trên thị trường với giá cao hơn. Còn việc bù giá vào lương chỉ giải quyết được cho những người làm việc Nhà nước, còn số đông dân cư không được bù giá như vậy.
Còn với những người đi vay tiền và những người gửi tiền thì chịu tác động của lạm phát ra sao? ở nước ta thì lạm phát tăng nhanh không ổn định nên với những gửi tiền hay có tiền cho vay đều bị tước đoạt vì lãi suất thực tế luôn thấp hơn lạm phát.
Ta có thể tham khảo bảng sau:
Lãi suất trung bình qua các năm tính bằng %
(Theo niên giám thống kê - NXB Hà Nội, 1990)
Lãi suất vay vốn lưu động
Năm
Trong kế hoạch
Ngoài kế hoạch
Thương nghiệp
Lãi suất ký gửi
Lãi suất tiết kiệm
Lạm phát mức tăng giá
1983
5,2
6,7
7,0
2,1
14-24
142,8
1984
5,2
6,7
7,0
2,1
24-36
155,8
1985
5,7
6,7
7,0
2,1
29-36
210,9
1986
16,6
18,0
18,0
8,9
96
557,4
1987
23,2
34,8
27,7
10,8
96
389,9
Ta nhận thấy lãi suất trước 1985 là lãi suất cố định mặc dù giá cả, mức lạm phát vẫn tăng lên, sau 1985 lãi suất đã được điều chỉnh nhưng mức tăng của lãi suất danh nghĩa thấp hơn mức tăng của lạm phát rất nhiều. Năm 1985-1986 lãi suất tăng từ 5,7% - 16,6% trong khi lạm phát tăng từ 210,9%-557,4%. Vì vậy người ta tính rằng nếu một người gửi tiền vào ngân hàng hay giữ tiền 1.000đ vào năm 1987 sau một năm chỉ còn giá trị là 318đ. Như vậy những người cho vay phải chịu thiệt thòi nhất, Nhà nước là chủ nợ lớn nhất nên phải gánh chịu thiệt hại nhất. Còn những người đi vay lại rất có lợi, và các xí nghiệp lại là con nợ lớn nhất nên lợi nhất nhưng họ lại bị thua lỗ nên suốt ngày xin Nhà nước cấp vốn.
Còn các yếu tố về thị trường Việt Nam bị thổi phồng, bóp méo. Do giá cả Nhà nước đưa ra không phải là giá cả của thị trường, luôn bị thấp hơn giá cả tự do, lại tăng theo từng chu kỳ lên thực chất nó có tác dụng kích thích việc đầu tư tích luỹ hàng hoá để kiếm lợi, không cần sản xuất, nhận tích trữ các nhu yếu phẩm hàng hoá, giá cả tăng lên từng ngày. Bức tranh kinh tế thật là ảm đạm, các xí nghiệp kinh doanh luôn ở tình trạng lãi giả, lỗ thật, Nhà nước liên tục phải bội chi ngân sách để bù lỗ và lạm phát tiếp tục tăng cao.
Trên đây là bức tranh kinh tế từ những năm 1988 về trước, còn những năm 1988-1993 tình hình lạm phát ở nước ta diễn ra như thế nào?
Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
(Theo niên giám thống kê 1992 và tạp chí thống kê 1993)
Năm
Cả năm
Bình quân một tháng
1988
396,8
14,2
1989
34,7
2,5
1990
67,4
4,4
1991
67,6
4,4
1992
17,6
1,3
1993
5,2
0,45
Bước sang năm 1989 cùng với công cuộc sửa đổi cơ cấu Nhà nước xã hội, trong đó nhờ thực hiện một số biện pháp kiềm chế lạm phát bước đầu đã có hiệu quả lạm phát từ ở mức phi mã (>200%) giảm xuống còn hai con số một năm và giảm xuống từ 2-1 con số một tháng. Đời sống của nhân dân được cải thiện từng bước. Và cũng bắt đầu tư đây, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu khởi sắc. Trong năm 1989 giá cả thị trường đã tăng bình quân hàng tháng là 2,5% so với mức 15% bình quân tháng trong năm 1988, đó là một bước tiến bộ nổi bật. Có thể thấy mức tăng giá hàng tháng của năm 1988 trong 6 tháng đầu luôn ở mức 2 con số (tháng 1 là 18,3% - tháng 6 là 16,8%) còn năm 1989 đã giảm chỉ còn 1 con số trong cả năm thậm trí còn đạt ở mức tăng âm (tháng 5 là -0,2%, tháng 6 là -2,9%á -1,5%) từ tháng 8 trở đi mức giá tăng dần. Kể từ quí II năm 1989 mức giá ở thị trường Việt Nam đã đi vào ổn định chưa từng có, nó chỉ dao động từ khoảng -1,5%á3%. Năm 1989 cũng là năm đầu tiên Việt Nam không phải nhập khẩu lương thực và còn xuất khẩu được 1,4 triệu tấn lương thực đồng thời trên thị trường hiện tượng khan hiếm hàng hoá không còn nữa, cung vượt cầu đã làm thay đổi bộ mặt của người dân Việt Nam không còn cảnh tem phiếu chen lấn xếp hàng,... mà ở đây khách hàng thực sự là "thượng đế".
Bước sang năm 1990-1991: do biến động về chính trị ở Đông Âu và Liên Xô cũ tạo nên những thị trường lớn của nước ta không còn nữa, lúc đó lạm phát ở nước ta lại có nguy cơ lại gia tăng,...
Cuối quí II đầu quí III năm 1990 do những biến động của các nước XHCN giá cả phần lớn các vật tư đầu vào quan trọng của nhiều ngành sản xuất kinh doanh ở nước ta buộc phải kinh doanh theo mức giá thị trường quốc tế với mức bình quân gấp đôi trước đây tính theo đồng rup chuyển nhượng, đẩy mặt bằng giá của thị trường tăng lên.
Từ quí III năm 1990: lúc này thị trường thế giới giá cả biến động, nhất là sự tăng giá của dầu mỏ do chiến tranh vùng Vịnh, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng giá dầu mỏ tăng ảnh hưởng đến dây chuyền giá điện, cước phí vận tải và giá các loại hàng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thêm vào đó những sơ hở trong thể chế kinh tế nói chung chậm khắc phục, nhiều cái buông trôi nhất là tầm quản lý kinh tế vĩ mô, khi tình hình trở lên nguy ngập thì lại dùng các biện pháp cũ để đối phó theo lối chữa cháy làm cho cung và cầu nhiều loại sản phẩm trên thị trường xã hội vốn đã căng thẳng nay lại càng trở lên mất cân đối nghiêm trọng,... Tình hình trên cộng thêm sự bất hợp lý trong tổ chức hệ thống lưu thông vật tư - Hàng hoá cũng như trong chính sách thuế mới bắt đầu thi hành từ tháng 1-1990 đã góp phần đẩy giá một số mặt hàng tăng vọt. Dẫn đến kết quả lạm phát lạigia tăng nhanh. Giá trung bình hàng tháng tăng từ 2,4% vào quí II năm 1990 lên 4,5% trong quí III - 1990 tới 7,5% trong quí IV - 1990 và dừng ở mức này. Đến quí I năm 1991 giá tăng lên 13,2% vào tháng 1 và tụt xuống còn 0,5% vào tháng 3, sang tháng 4 giá lại tăng tới 2,4% và tiếp tục tăng vào các tháng sau. Trung bình 1 tháng % CPI tăng lên năm 1991 là 4,4%, giá vàng và USD tăng lên tới đỉnh cao, 645.000VNĐ/chỉ; 14.300VNĐ/1USD.
Năm 1992: với những cố gắng sử dụng các giải pháp hữu hiệu để chống lạm phát ta đã giảm lạm phát đi 50% từ 67,7% năm 1991 còn lại 17,6% năm 1992. Nhưng tổng sản lượng trong nước GDP đạt mức tăng cao nhất từ trước đến thời điểm đó là 8,1% hoàn toàn trái ngược với lý thuết của Okun, đời sống nhân dân ổn định dần.
Năm 1993: mặc dù chúng ta chỉ dự kiến giảm lạm phát xuống dưới 15% nhưng thực tế chúng ta đã đạt kỷ lục: lần đầu tiên giảm lạm phát xuống hàng 1 con số ằ 5,2% so với mức CPI tăng trung bình hàng tháng 0,45%. Tỷ lệ lạm phát tính theo CPI trong năm 1993 giữa các vùng, các thành phố trong cả nước không còn chênh lệch so với các năm trước.
Năm
Cả nước
Hà Nội
TP. Hồ Chí Minh
1992
117,2
114,06
123,46
1993
105,2
105,7
105,9
Điều này chứng tỏ nền kinh tế của nước ta đang có những bước phát triển về lĩnh vực đầu tư, giao lưu thông tin, kinh tế trong cả nước, tạo khối kinh tế thống nhất trong cả nước. Từ đó đã tạo ra tâm lý giữ vàng và USD nhờ một phương tiện cất giữ được giải toả nhiều. Giá vàng trong nước được tiếp cận thị trường quốc tế do có sự biến động của giá vàng được xem như diễn biến bình thường của thị trường không gây tâm lý đầu cơ thành những cơn sốt vàng như trước. Năm 1992 đánh dấu thời điểm Nhà nước chấm dứt dùng tiền để bù cho bội chi ngân sách. Điều hành ngân sách Nhà nước trên đã chuyển biến tích cực như mức huy động vốn vào ngân sách Nhà nước khoảng 21-22% GDP, nguồn thu Nhà nước đáp ứng đủ chi thường xuyên ở mức độ tăng hơn năm trước 71,1%. Ngoài ra còn dùng chỉ cho phát triển 4,8%. Mức độ bội chi ngân sách giảm 3,6% so với dự kiến. Tỷ lệ vay dần để trang trải bội chi ngân sách năm 1993 tăng hơn hai lần so với năm trước. Tổng số vốn đầu tư năm 1993 khoảng 32.000 tỷ đồng, vốn đầu tư của nhân dân và các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 13.000 tỷ đồng, còn lại là vốn nước ngoài.
(Một số ý kiến về định hướng kinh tế xã hội hai năm 1994-1995 - tin KTXH số 4 trang 9).
Tỷ lệ giao dịch tiền tài khoản trong chu chuyển kinh tế tăng lên đáng kể nhờ sự năng động trong hoạt động ngân hàng. Các loại séc thanh toán, dịch vụ chuyển tiền được sử dụng rộng rãi, hoạt động nhanh hơn. Nhiều công nghệ ngân hàng hiện nay đang được sử dụng ở hệ thống ngân hàng nước ta như làm đầu mối thanh toán cho các tổ chức Việt Nam tiếp nhận thanh toán các loại thư tín do ngân hàng nước ngoài phát hành (Visa, Card, Master card,...) và bắt đầu phát hành thể thanh toán bằng đồng Việt Nam của ngân hàng ngoại thương nước ta: VCB card. Đồng thời kết hợp kiểm soát nghiêm ngặt hệ thống ngân hàng với việc cung ứng tiền và vẫn kiên quyết mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế nhằm giúp cho việc phát triển sản xuất giao lưu hàng hoá thuận tiện hơn.
Bước sang năm 1994 trên đà phát triển năm 1993, chúng ta vẫn giữ vững được tỷ lệ lạm phát tương đối ổn định ở mức 10% nhưng đến quí 4/1994 và đầu 1995 do thiên tai và một số nguyên nhân khác đã dẫn tới tình hình lạm phát bắt đầu gia tăng.
Sang năm 1995 nền kinh tế và xã hội nước ta có nhiều biến đổi, sự mở rộng ngoại giao với Mỹ, xoá bỏ cấm vận nước ta giúp cho việc đầu tư, sản xuất ở nước ta có nhiều thay đổi, tuy nhiên lạm phát có tăng lên một chút là 12,7%.
Chỉ số giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng năm 1995 (tháng 12 năm 1994 là 100).
Nói chung giá trị hầu hết các m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72484.doc