Đề tài Lao động và việc sử dụng lao động trong các trang trại

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Phần 1: Những vấn đề chung 2

về kinh tế trang trại 2

1. Quá trình hình thành và phát triển KTTT 2

1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển KTTT trên thế giới 2

1.2. Lịch sử phát triển trang trại ở Việt Nam. 4

2. Khái niệm đặc trưng và vai trò của kinh tế trang trại 5

2.1. Khái niệm kinh tế trang trại 5

2.2. Đặc trưng của KTTT 7

2.3. Vai trò của KTTT 8

3. Kinh tế trang trại ở Việt Nam hiện nay 9

3.1. Số lượng trang trại 9

3.2. Cơ cấu kinh tế trang trại 11

3.3. Tổ chức sản xuất trong trang trại 13

3.4. Các chỉ tiêu đánh giá và phân loại trang trại ở Việt Nam 14

Phần 2: Phân tích lao động nông nghiệp 16

1. Phân tích thực trạng lao động ở Việt Nam 16

1.1. Sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động ở nông thôn 16

1.2. Lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. 16

2. Phân tích lao động trong trang trại Việt Nam 17

2.1. Đặc điểm của lao động trong trang trại 17

2.2. Phân tích số lượng chất lượng lao động trong trang trại 18

2.3. Lao động và trả công lao động 20

2.4. Phân tích điều kiện lao động trang trại 23

2.5. Phân tích quỹ thời gian và việc sử dụng quỹ thời gian trong trang trại 24

2.6. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong trang trại 25

Kết luận 27

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lao động và việc sử dụng lao động trong các trang trại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, vừa, lớn và có thể là rất nhỏ. Với việc ứng dụng những kỹ thuật công nghệ sản xuất khác nhau từ thô sơ đến phức tạp, liên kết với nhiều loại hình kinh tế, sản xuất với nhiều loại cây trồng vật nuôi mục đích tạo hiệu quả kinh tế cao. 2.2.4. Tạo năng lực sản xuất cao về nông sản hàng hoá Do các đặc điểm về tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của trang trại quyết định chủ trang trại chủ doanh nghiệp nông nghiệp là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, cũng như kinh doanh trong cơ chế thị trường. Trang trại gia đình tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh thích hợp, tiến bộ sử dụng có hiệu quả các tư liệu sản xuất, lựa chọn và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, tạo ra năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế cao của trang trại. 2.3. Vai trò của KTTT Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất quan trọng trong nền nông nghiệp thế giới, ngày nay trang trại gia đình là loại hình trang trại chủ yếu trong nền nông nghiệp các nước, ở các nước đang phát triển trang trại gia đình có vai trò to lớn quyết định trong sản xuất nông nghiệp, ở đây tuyệt đại bộ phận nông sản hàng hoá cung cấp cho xã hội được sản xuất ra từ các trang trại gia đình. ở nước ta KTTT mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây. song vai trò tích cực và quan trọng của KTTT đã thể hiện khá rõ nét cả về mặt kinh tế cũng như vèe mặt xã hội và môi trường. 2.3.1.Giải quyết việc làm , nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều nông sản hàng hoá. KTTT có vai trò tích cực trong việc thu hút lao động nông nghiệp nhàn rỗi. Là một nghành sản xuất còn mới nhưng KTTT đã thể hiện rõ tầm quan trọng của mình, nó vùa tạo công ăn việc làm cho gia đình dồng thời còn một số lao động nhàn rỗi khác. việc sản xuất kinh doanh tạo theo mô hình KTTT tạo cho người lao động có khả năng phát huy những sáng tạo, kỹ năng trong sản xuất nông nghiệp làm tăng năng suất lao động, tạo giá trị nông sản hàng hoá lớn, cải thiện đời sống nhân dân. 2.3.2. KTTT là một bộ phận quan trọng của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá KTTT là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với đặc điểm của hoạt động nông nghiệp, mang đặc tính của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, nó trở thành một lực lượng chủ yếu trong sản xuất nông sản đáp ứng nhu cầu của xã hội. Là nơi có khả năng áp dụng linh hoạt và đa dạng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất với nhiều trình độ từ đơn giản đến hiện đại, phù hợp với những khả năng trình độ của từng trang trại và đạt hiệu quả kinh tế cao. Quá trình sản xuất của trang trại với quy mô và cần cao, do đó đòi hỏi các chủ trang trại với quy mô và yêu cầu cao, do đó đòi hỏi các chủ trang trại đưa máy móc vào sản xuất đẩy nhanh tiến trình cơ khí hoá nông thôn. 2.3.3. KTTT thực hiện các chương trình quốc gia Với sự phát triển mạnh mẽ của KTTT trong khu vực miền núi trung du đã góp phần thực hiện các chương trình quốc gia như “phủ xanh đất trống đồi trọc”, “xoá đói giảm nghèo”, “trồng rừng”… Đây là sự đóng góp rất lớn của các trang trại đối với đất nước, chính vì vậy chính phủ cần có các biện pháp khuyến khích để các trang trại phát triển ưu thế này hơn nữa bằng các chính sách nhỏ. Ưu đãi vay vốn, thuế, các chính sách tự gán giúp cho các trang trại phát triển rộng rãi hơn. 2.3.4. Kinh tế trang trại thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến. Kinh tế trang trại thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến tạo tích luỹ từ nông nghiệp, làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cấu trúc xã hội. Các trang trại xuất ra khối lượng nông sản hàng hoá lớn đòi hỏi các sản phảm này phải được chế biến đáp ứng nhu cầu của thị trường từ đó ngành công nghiệp chế biến phát triển tạo thu nhập cho nông dân làm cho khả năng tích luỹ của các hộ gia đình tăng, người dân có vốn, giúp quá trình tái sản xuất diễn ra nhanh chóng. Đời sống nông dân được cải thiện, khoảng cách phân hoá giàu nghèo được rút ngắn. 3. Kinh tế trang trại ở Việt Nam hiện nay 3.1. Số lượng trang trại Để xác định số lượng trang trại người ta dựa vào các tiêu chí của nó, thông qua các chỉ số cụ thể như tỷ suất hàng hoá, khối lượng và giá trị sản lượng nông sản hàng hoá và chỉ số phụ như quy mô đất đai, số đầu gia súc gia cầm chăn nuôi, quy mô vốn đầu tư, số lao động sử dụng làm căn cứ để xác định trang định. 3.1.1 Phân bố không đều: Căn cứ vào các tiêu chí để xác định trang trại. “Theo kết quả tổng hợp số liệu của các địa phương tính đến ngày 1-7-1999 cả nước ta có 90167 trang trại, trong đó có 61362 trang trại trồng trọt cây công nghiệp lâu năm và cây hàng năm chiếm 68,1%; 14837 trang trại kinh doanh tổng hợp đa ngành (16,4%) 7673 trang trại nuôi trồng thuỷ sản (3,6%).” Vài tư liệu về KTTT năm 1999. Nguyễn Hoà Bình , CS&SK 11/1999 Các trang trại phân bố không đều chủ yếu tập trung ở các vùng như Đông Bắc, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông cửu long. Cụ thể: “vùng Đông Bắc có 28280 trang trại chiếm 31,4%, Tây Bắc 3668 (4,1%) Đồng Bằng Sông Hồng 4434 (4,9%), Bắc trung bộ 7668(8,5%), Duyên hải miền trung 3666(4%), Tây nguyên 6521 (7,2%), Đông Nam Bộ 16298(18,1%), Đồng bằng sông Cửu Long 19632 (21,8%)” Vài tư liệu về KTTT năm 1999, Nguyễn Hoà Bình, CS&SK 11/1999 . 3.1.2. Các trang trại có quy mô nhỏ cả về đất đai và vốn Do mới ra đời và phát triển chưa mạnh, nên các trang trại có giá trị tập trung vốn mở rộng sản xuất còn hạn chế. Chính vì vậy một thực tế là các trang trại ở Việt Nam có quy mô nhỏ. Về đất đai: “bình quân một trang trại trồng trọt có 5,3 ha đất công nghiệp, một trang trại lâm nghiệp có 26,8 ha đất lâm nghiệp, bình quân một trang trại nuôi trồng thuỷ sản, bình quân một trang trại chăn nuôi có 52,8 con trâu bò, 50,7 con lợn và 500,9 con gia cầm” Vài tư liệu về KTTT năm 1999, Nguyễn Hoà Bình , CS&SK 11/1999 . Trong khi đó đối với các trang trại ở miền núi phái bắc quy mô đất là: “7,0 ha diện tích đất trồng cây hàng năm, 4,3 ha trồng cây lâu năm, 19,0ha trồng cây lâm nghiệp” KTTT miền núi phía Bắc thưc trạng và giải pháp ,Đoàn Quang Thiệu ,CS & SK 1+2/ 2001 . Về vốn: “Vốn đầu tư bình quân một trang trại trong cả nước là 60,2 triệu, thu nhập bình quân một trang trại trong một năm là 22,6 triệu đồng ” Vài tư liệu về KTTT năm 1999 , Nguyễn Hoà Bình CS & SK 11/1999 . Việc phát triển kinh tế trang trại cần phải huy động một số lượng lớn vốn theo ước tính “tổng số vốn sản xuất huy động vào đấu tư phát triển KTTT là 2730,8 tỷ đồng, tổng số thu nhập hàng năm từ hoạt động kinh tế của trang trại là 1023,6 tỷ đồng.” Vài tư liệu về KTTT năm 1999 Nguyễn Hoà Bình CS &SK 11/1999 . Đối với các trang trại ở miền núi phía bắc (thời điểm 1-9-2000) “vốn đầu tư bình quân một trang trại là 49,0 triệu đồng chủ yếu là vốn tự có 74,3%, vốn vay 25,7% trong đó vốn vay ngân hàng chỉ có 13% KTTT miền núi phía Bắc thực trạng và giải pháp, Đoàn Quang Thiệu CS &SK 1+2 /2001 . 3.1.3. Lao động trong trang trại có trình độ thấp Lao động có trình độ của các trang trại hiện nay là rất hạn chế, không những lao động làm thuê không được đào tạo mà đến ngay cả chủ trang trại cũng vậy. Hầu hết các chủ trang trại là những người có kinh nghiệm sản xuất lâu năm nhưng đó chỉ là kinh nghiệm tích luỹ còn thực tế họ có hiểu biết hạn chế về quá trình sản xuất. “Trình độ văn hoá của chủ trang trại có trình độ cấp hai trở lên chiếm 80,7%, …Chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ sơ cấp dến đại học là 949 người, chiếm 31,8%, trong đó có trình độ đại học chiếm 5,6%” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã , NCKT 10/1999 . Các chủ trang trại cần phải có hiểu biết rộng về sản xuất, kinh doanh nếu trang trại lớn thì họ phải tổ chức quản lý như một giảm đốc công ty vì vậy trình độ của họ là rất cần thiết. Lao động làm việc trong trang trại bao gồm lao động gia đình và lao động thuê mướn. Họ cũng như lao động nông thôn khác thường chỉ hạn chế hết cấp II rồi tham gia sản xuất, vì vậy khả năng hiểu biết về sản xuất trong trang trại rất hạn chế. 3.2. Cơ cấu kinh tế trang trại 3.2.1. Cơ cấu đất đai Đất đai là một nhân tố quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, là tư liệu sản xuất chủ yếu trong hoạt động sản xuất nông, lâm và thuỷ sản. Để phát triển KTTT trước hết phải dựa vào đất đai. Trong một đề tài nghiên cứu của trường đại học KTQD về trang trại năm1999 cho ta một số tư liệu sau: “Quy mô đất đai trang trại là 6,63 ha nếu chia theo hướng kinh doanh chính, trang trại lâm nghiệp có quy mô trung bình 20,63 ha tiền tệ cây lâu năm 6,1045 ha, trang trại chăn nuôi 1,483ha. Nếu chia theo chủ trang trại, chủ trang trại nông dân có quy mô trung bình 6,27 ha, chủ trang trại khác 8,6654ha” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta, Nguyễn Thế Nhã, NCKT 10/1999. . Nguồn gốc đất đai trong trang trại rất đa dạng chủ yếu là đất được giao 71,83% tổng quỹ đất, trong đó đất nông nghiệp được giao74,83%, lâm nghiệp77,50%. Đất được giao 28,17% có nguồn gốc như nhận thầu, chuyển nhượng, tự khai hoang… Cơ cấu đất đai của trang trại phụ thuộc vào loại hình sản xuất: “Đất nông nghiệp chiếm 8,81%, đất lam nghiệp chiểm 28,73%, đất nuôi trồng thuỷ sản 11,49% và đất thổ cư 0,97%… Tỷ trọng đất nông nghiệp của các trang trại có hương kinh doanh cây lâu năm chiếm trên 80%, tỷ trọng đất lâm nghiệp của nhóm trang trại lâm nghiệp chiếm 90,5%, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của trang trại chiếm 80,3%” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã , NCKT 10/1999. . 3.2.2 Cơ cấu vốn và nguồn vốn Vốn là yếu tố quan trọng để phát triển KTTT, do đó đòi hỏi có lượng vốn đủ lớn “tính đến ngày 30/4/99 quy mô vốn bình quân một trang trại tương đối lớn 291,43 triệu…Nhóm trang trại có hướng kinh doanh cây lấu năm và chăn nuôi lợn có quy mô vốn lớn. Nguồn vốn của trang trại chủ yếu dựa vào vốn tự có chiếm 91,03, vốn vay chiếm 8,93%” Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã , NCKT 10/1999. . Về cơ cấu tư liệu sản xuất và tài sản chủ yếu bình quân trang trại “Giá trị vườn cây lâu năm chiếm 62,62% Giá trị đàn gia súc cơ bản 1,89%. Giá trị tài sản cố định có nguồn gốc kỹ thuật 10,47%; gái trị rừng trồng 2,39%, gái trị nuôi trồng thuỷ sản 5,85%. Chi phí sản xuất dổ dang 7,22%, tiền mặt trong kihn doanh 6,74%” Thực trạng và giải pháp phát triển KTTT trong thời kỳ CNH- HĐH , KT&PT 33/1999 . 3.2.3. Cơ cấu lao động Lao động trong trang trại chia theo trình độ gồm lao động qua đào tạo và lao động chưa được đào tạo. theo tài liệu của trường ĐHKTQD trong lần nghiên cứu là: lao động qua đào tạo bình quân một trang trại là 0,31 người trong 2,86 người trong tuỏi lao động chiếm 10,84%. Nếu chia theo tuổi lao động thì có trong tuổi lao độn và ngoài tuổi lao động. Trong 5,82 người thì số lao động trên tuổi bình quân một trang trại là 0,41 người và dưới độ tuổi lao động bình quân là 0,84 người. Nếu chia theo tính chất lao động thì có lao động làm thuê và lao động gai đình các lao động trang trại chủ yếu là lao động gia đình: bình quân một trang trại thuê 0,98 lao động, Hà Nội, Thanh Hoá thuê gồm 1,5 lao động. 3.3. Tổ chức sản xuất trong trang trại 3.3.1. Các loại hình tổ chức sản xuất. Các chủ trang trại với mục đích sản xuất để chia thu lợi nhuận sẽ phải xác định loại hình sản xuất của trang trại cho phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện của gai đình nhìn chung có ba loại hình sản xuất. Trồng trọt, chăn nuôi và kết hợp trồng trọt và chăn nuôi các trang trại hướng vào các loại cây như lúa, mía, cây công nghiệp cây ăn quả. Trong 2353 trang trại trong tổng số 3044 trang trại mà trường ĐHKTQD nghiên cứu có 421 trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm, 344 trang trại trồng cây ăn quả. Các trang trại chăn nuôi có 266 trong 3044 trang trại trong đó 50 trang trại chăn nuôi gia súc, 145 trang trại nuôi lợn, 71 trang trại nuôi gia cầm. 3.3.2. Đầu tư chi phí sản xuất Chi phí sản xuất được hình thành từ vốn kinh doanh của trang trại, nó là các khoản chi về máy móc, cây con giống, vốn đầu tư sản xuất… “Đầu tư chi phí sản xuất bình quan chung một trang trại điều tra 1998 là 69,722 triệunđồng, trong đó đầu tư chi phí vật chất chiếm 71,64%, đầu tư cho chi phí lao động chiếm 24,94% và chi phí khác chiếm 3,43%”. 3.3.3. Cơ cấu sản xuất của trang trại Cơ cấu sản xuất của trang trại là biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ về lượng của các ngành, các bộ phận cấu thành trong sản xuất. “Giá trị sản xuất bình quân một trang trại là 105,426 triệu đồng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn đạt tổng thu là 369,138 triệu đồng, thuỷ sản 162,497 triệu đồng, lâm nghiệp 37,014 triệu đồng”. Tỷ trọng cơ cấu gái trị sản xuất của các ngành “trồng trọt 57,75%, chăn nuôi 27,3%, thuỷ sản 13,78% và lâm nghiệp 1,18%.”(Thực trạng và giải pháp phát triển KTTT trong thời kỳ CNH- HĐH , KT & PT ). Cơ cấu giá trị sản phẩm của các trang trại phân theo các vùng hoặc phân theo lượng kinh doanh đều cho thâý xu hướng chung là tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá đạt cao ở những sản phẩm chuyên môn hoá. Nhóm trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm có tổng thu từ trồng trọt chiếm 93,99%, giá trị chăn nuôi chiếm 4,78%. Thuỷ sản và lâm nghiệp chiếm từ 0,51- 0,72%. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn có giá trị sản xuất chăn nuôi chiếm 98,42%, giá trị sản xuất trồng trọt chiếm 1,2%, giá trị thuỷ sản và nông nghiệp không đáng kể 3.4. Các chỉ tiêu đánh giá và phân loại trang trại ở Việt Nam 3.4.1. Các chỉ tiêu đánh giá Để nhận dạng được thế nào là một trang trại người ta sử dụng các chỉ tiêu định tính như sản xuất nông sản hàng hoá hay các chỉ tiêu định lượng như gái trị sản lượng nông sản, tỷ suất hàng hóa. Trên thế giới để nhận đạng thế nào là một trang trại ở các nước phổ biến chỉ sử dụng tiêu chí định tính chung có đặc trưng là sản xuất nông sản hàng hoá, không phải tự túc, một số nước sử dụng các chỉ tiêu định lượng như Mỹ, Trung Quốc. ở Mỹ trước đây có quy định một cơ sở sản xuất nông sản hàng hoá được coi là trang trại khi có gái trị sản lượng nông sản đạt 250 USD trở lên và hiện nay quy định là 1000USD trở lên. ở Trung Quốc quy định tiêu chí của các hộ chuyên có tỷ suất hàng hoá từ 70- 80% trở lên và giá trị sản lượnghàng hoá cao gấp 2-3 lần bình quân của các hộ nông dân. ở Việt Nam, KTTT mới hình thành trong những năm gần đây, nhưng đã có sự hiện diện diện gần hết các ngành sản xuất, nông nghiệp ở các vùng kinh tế với các quy mô và phương thức sản xuất kinh doanh đa dạng, nhưng là vấn đề mới nên chưa xác định được tiêu chí cụ thể để nhận dạng và phân loại ở nước ta, trước hết nên sử dụng tiêu chí định tính, lấy đặc trưng sản xuất nông sản hàng hoá là chủ yếu như kinh nghiệm của các nước, khác với tiểu nông sản xuất tự túc. Về định lượng lấy chỉ số tỷ suất hàng hoá từ 20-75% trở lên và giá trị sản lượng hàng hoá vượt gấp 3-5 lần so với hộ nông dân trung bình (trong nước, trong ngành, trong vùng) về quy mô các yếu tố sản xuất của trang trại nước ta hiện nay xác định là: - Quy mô vốn từ 40 triệu đồng trở lên đối với trang trại phía Bắc và Duyên Hải miền Trung, 50 triệu đồng trở lên đối với trang trại Nam Bộ. Quy mô đất đai: Diện tích cây hàng năm từ 2 ha đối với trang trại phía bắc và 3 ha đối với trang trại nam bộ và Tây Nguyên. Đối với trang trại chăn nuôi, số đàn gia súc quy định của tiêu chí trang trại từ 10 con trở lên đối với trang trại chăn nuôi bò sữa, 100 con trở lên đối với trang trại chăn nuôi lợn, nghĩa là tổng đàn lợn của trang trại phải là 200 con trên một năm, vì thông thương mỗi năm 2 lứa. 3.4.2. Phân loại trang trại Phân loại trang trại theo quy mô khác nhau để có thể có cơ sở hoạch định chính sách đối với từng loại quy mô trang trại khác nhau. Tuỳ theo mục đích yêu cầu cụ thể và tuỳ theo đặc điểm của từng loại trang trại để người ta phân loại. Theo từng vùng kinh tế: có trang trại đồi núi, vùng ven biển, đồng bằng và ven đô thị. Theo ngành sản xuất có trang trại trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản. theo lọai hình kinh tế có các loại trang trại thuộc các loại hình kinh tế khác nhau gia đình, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân với các tư cách pháp nhân khác nhau: hộ nông dân tự chủ sản xuất, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn. Phần 2: Phân tích lao động nông nghiệp và việc sử dụng lao động trang trại 1. Phân tích thực trạng lao động ở Việt Nam 1.1. Sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động ở nông thôn Đến đầu năm 1997 cả nước có trên 27 triệu lao động ở khu vực nông thôn chiếm 75% tổng số lao động xã hội. Hàng năm số người lao động nông thôn tăng thêm 2% do tăng tự nhiên, nhưng đất nông nghiệp lại không tăng. Trong khi đó kinh tế đất nước vẫn còn phát triển chậm chạp việc thu hút lao động của các ngành khác nhau như công nghiệp và dịch vụ chuưa được nhiều vì vậy sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động tạo ra quá lớn làm cho áp lực việc làm đè nặng lên đối với đất nước. 1.2. Lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao. Nông thôn nước ta là khu vực đông dân nhất chiếm 80% dân số và 76,88% lực lượng lao động xã hội. Hàng năm khu vực này bổ xung khoảng 67 vạn lao động, vì vậy nhu cầu việc làm là rất lớn. Lực lượng lao động ở nông thôn phân bố không đều ở các ngành, các vùng thể hiện qua số liệu: Cơ cấu phân bố lao động nông thôn theo nghành kinh tế năm 1997. Các vùng Tổng số Chia theo nhóm ngành kinh tế Nông-lâm-ngư CN và CD Dịch vụ Số lượng % Số lượng % Số lượng % Nông thôn cả nước 27857460 21721150 77,98 1910205 6,85 4196103 15,17 Miền núi và Trung du 5500581 5087070 92,48 113630 2,07 299881 5,45 Đồng bằng sông Hồng 5723913 4397281 76,82 458802 8,02 862830 15,16 Khu IV cũ 4021525 3319453 82,54 249403 6,2 452669 11,26 Duyên Hải miền Trung 2785685 2087961 74,95 210499 7,56 487225 17,49 Tây Nguyên 1104729 948637 87,33 25630 3,94 94760 8,73 Đông Nam Bộ 2320972 1287482 55,47 359594 15,49 673896 29,04 ĐB sông Cửu Long 6400057 6587266 71,68 492647 7,69 1320444 26,63 (Lao động việc làm ở nông thôn nước ta Thực trạng và Giải pháp , Phạm Thị Khanh , thông tin lý luận 6/1999). Sự chuyển dịch chậm chạp trong phân bố lực lượng lao động nông thôn không chỉ thể hiện ở ngành kinh tế mà còn rất đậm nét ở các vùng trong phạm vi cả nước, tập trung nhất ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu long. Mặc dù là tỉ lệ lao động có việc làm ở nông thôn có tăng lên nhưng số lao động thiếu việc làm ở khu vực này vẫn còn rất lớn. Hiện naycó khoảng 9 triệu lao động thiếu việc làm. Năm 1997 quỹ thời gian lao động nông thôn mới chiếm 72,11% quỹ thời gian. 2. Phân tích lao động trong trang trại Việt Nam 2.1. Đặc điểm của lao động trong trang trại 2.1.1. Lao động có trình độ thấp Cũng giống như lao động nông nghiệp, lao động trong trang trại được hình thành từ nguồn lao động nông nghiệp nên có trình độ thấp, các trang trại chủ yếu tận dụng lao động gia đình và nếu có đi thuê mướn lao động thì đó là lao ddộng nông nhàn. Những lao động này thường không được đào tạo cho nên trình độ ngành nghề và hiểu biết về quá trình sản xuất là không có. Hầu hết họ sản xuất theo vốn tích luỹ kinh nghiệm. Một thực tế đặt ra cho các trang trại là hiện nay trong nền kinh tế thị trường các trang trại sanr xuất hàng hoá để bán, vì vậy rất cần sản xuất được nhiều nông sản hàng hoá có chất lượng cao. Nhưng với đội ngũ lao động trình độ thấp, việc thuê máy móc, cải tiến sản xuất là việc rất khó. 2.1.2. Lao động sử dụng trong trang trại Lao động sử dụng trong trang trại chủ yếu là lao động gia đình với mục đích chính của các gia đình là tạo việc làm cho lao động trong gia đình và do quy mô trang trại nhỏ nên lao động trong trang trại chủ yếu là lao động gia đình. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trung bình một trang trại trên cả nước có 2,8 lao động gia đình và 1,2 lao động làm thuê thường xuyên. Do đặc điểm của nông nghiệp nước ta theo mùa vụ cho nên ở hầu hết các trang trại trong quá trình sản xuất họ không cần thuê nhiều nhân công, mà chủ yếu là dùng lao động gia đình nhưng đến mùa thu hoạch họ sẽ đi thuê nhân công, thu hoạch xong thì số lao động làm thuê này lại trở về. Trong khi đó số lao động được thuê thường xuyên sống trong trang trại, số lượng này rất ít chỉ có trong các trang trại lớn. Những lao động này thường làm theo hợp đồng có thể vài tháng, 1 năm hoặc vài năm. Thông thường họ là những người không nghề nghiệp, không ruộng đất phải đi làm thuê. 2.1.3. Tham gia sản xuất theo mùa vụ Như đã nói ở trên do đặc điểm lao động nông nghiệp nước ta theo mùa vụ, chính vì vậy việc thuê lao động sản xuất trong trang trại cũng theo mùa vụ. Vào đầu mùa khi bắt đầu một mùa sản xuất người ta thuê nhân công đến thực hiện việc gieo trồng cây con giống, thời điểm này thu hút một số lượng lao động khá đông như sau đó khi bước vào quá trình chăm bón để cho cây con phát triển thì không cần nhiều lao động nữa nhưng đến cuối mùa vụ vào mùa thu hoạch nhu cầu thiên nhiên cũng là rất cao. 2.2. Phân tích số lượng chất lượng lao động trong trang trại Cũng giống như các ngành kinh tế khác, khi nghiên cứu về kinh tế trang trại, vấn đề đặt ra quan trọng hàng đầu đối với các nhà kinh tế, các nhà xã hội là ngành đó thu hút được bao nhiêu lao động, lao động đã qua đào tạo hay chưa. Để trả lời câu hỏi đó chúng ta nghiên cứu. 2.2.1. Số lượng lao động trong trang trại ở Việt Nam Điều quan tâm trước tiên đối với lao động trong trang trại là đa số các chủ trang trại là nam giới chiếm 91,85% còn 8,15% là nữ giới, chủ trang trại là dân tộc ít người chiếm 13,17% ... Các chủ trang trại có nguồn gốc xuất thân khá phong phú Nguồn gốc xuất thân của các chủ trang trại : Thuần tuý nông dân: 62,35% Cán bộ công nhân hưu trí: 9,36% Cán bộ chủ chốt cấp xã: 8,84% Bộ đội, công an trở về địa phương: 8,11% Công chức đương chức: 4,73% Công chức đang làm việc: 3,42% Chủ trang trại khác: 3,19% Số lượng lao động làm thuê ở trong các trang trại chưa nhiều, bình quân một trang trại thuê 0,98 lao động thường xuyên, trong đó các trang trại Đắc Lắc thuê gần 2 lao động, còn ở Hà Nội, Thanh Hoá thuê 1,5 lao động. Trong cuộc điều tra của trường Đại học kinh tế quốc dân, trong số 3044 trang trại có 1184 trang trại thuê lao động thường xuyên, chiếm 38,90%, trong đó các trang trại Lâm Đồng chiếm 51,79%, ở Đắc Lắc là 76,51%. Phần lớn các trang trại thuê lao động thường xuyên từ 1 đến 2 lao động chiếm 60,01%, tỷ lệ này ở Nghệ An chiếm 90%, Gia Lai chiếm 72,79%. Số trang trại thuê thường xuyên từ 3 đến 5 lao động chiếm 18,92%. Các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 24,14%, Thanh Hoá là 28,68%. Số trang trại thuê từ 5 lao động chiếm 12,08%, ở Hà Nội là 21,1%. Có 2403 trang trại thuê lao động thời vụ chiếm 78,95%, trong đó có 80,32% các trang trại thuê hàng năm dưới 500 ngày công, 13,9% trang trại thuê từ 500 đến 1000 ngày công, 3,78% thuê từ 1000 ngày công trở lên. (Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã, NCKT 10/1999). Hiện nay trên cả nước có khoảng 115000 trang trại với trên 70 vạn lao động. Các trang trại thu hút 2-10% hộ nông dân ở mỗi tỉnh. (kinh tế trang trại đột phá mới trong phát triển nông nghiệp, Phạm Duy Liên MCKT 12/99). Nếu tính bình quân mỗi trang trại hiện nay thì mỗi trang trại có khoảng 7 lao động . Đối với các trang trại có quy mô từ 5 ha trở xuống chủ yếu là dùng lao động gia đình kết hợp với làm đổi công trong lúc thời vụ còn khẩn trương. Đối với các trang trại có quy mô từ 5 đến 7 ha lao động gia đình và đổi công còn lại thuê từ 2 đến 5 lao động trong 1-3 tháng. Với các trang trại có quy mô 10 ha trở lên thì ngoài việc sử dụng lao động trong gia đình còn phải thuê lao động làm trong thời vụ hoặc lao động thường xuyên từ 5-10 lao động. Có thể nói các hộ trang trại không chỉ giải quyết công ăn việc làm cho gia đình mình mà còn thu hút thêm một phần lao động nhàn rỗi trong nông thôn. Kinh tế trang trại miền núi phía bắc ( Thực trạng và giải pháp Đoàn Quang Thiện cơ sở và sản xuất 1+2/01) 2.2.2. Chất lượng lao động trong trang trại Lao động trong trang trại lấy từ lao động nông thôn chưa được qua đào tạo vì vậy có thể nói chất lượng lao động trong trang trại là rất thấp. Bên cạnh đó do các trang trại ở nước ta sử dụng máy móc rất ít, mà chủ yếu là lao động thủ công vì vậy việc lao động không qua đào tạo vẫn có thể làm việc được. Ngay cả như các chủ trang trại cũng không được học tập, đào tạo với quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Theo kết quả mới của trường kinh tế quốc dân Trình độ văn hoá của các chủ trang trại có trình độ cấp II trở lên chiếm 80,7%, trong đó các chủ trang trại ở Hà Nội và Thanh Hoá, Nghệ An chiếm 91,8-96,7%. Các chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ sơ cấp đến đại học có 949 người chiếm 31,8% , trong đó có trình độ đại học chiếm 5,6%.(Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta , Nguyễn Thế Nhã, NCKT 10/1999). Số lao động trong có đào tạo trong một trang trại là 0,31 người như vậy có thể nói tỉ lệ đào tạo còn quá ít. Chính vì chất lượng lao động quá thấp, người lao động không hiểu được hết quá trình sản xuất. 2.3. Lao động và trả công lao động Qua thực tiễn của các trang trại ta có thể nhận thấy: sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Việc sử dụng hàng hoá này tạo ra một giá trị thặng dư rất lớn, nếu người chủ trang trại biết sử dụng sức lao động một cách thích hợp thì sẽ sinh ra lợi nhuận rất lớn cho họ. Nếu biết tổ chức quản lí sử dụng tốt, biết quan tâm thoả đáng lợi ích vật chất v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35175.doc
Tài liệu liên quan